76
MỤC LỤC 9 BÀI GIẢNG TĨNH TÂM BÀI Bài 1 : LOAN BÁO TIN MỪNG LÀ MỘT ÂN HUỆ VÀ ƠN GỌI ĐẶC BIỆT, LÀ CHÂN TÍNH CỦA HỘI THÁNH Bài 2 : “CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ SỨ GIẢ TIN MỪNG ĐẦU TIÊN VÀ VĨ ĐẠI NHẤT” Bài 3 : “Thần khí Chúa ngự trên tôi…...” Bài 4 : “TIẾP NỐI BƯỚC CHÂN TRUYỀN GIÁO” Bài 5 : LOAN BÁO TIN MỪNG “VỚI MỘT NHIỆT TÌNH TÔNG ĐỒ MỚI” Bài 6 : MÔI TRƯỜNG MỚI Bài 7 : HÀNH HƯƠNG Bài 8 : PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚA GIÊSU Bài 9 : RAO GIẢNG TIN MỪNG “VỚI MỘT NHIỆT TÌNH TÔNG ĐỒ MỚI”

9 BÀI GIẢNG TĨNH TÂM - tptpl67.files.wordpress.com · tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1C 9, 16), nhưng quả thật đó còn là một ân huệ nữa, điều

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

MỤC LỤC

9 BÀI GIẢNG TĨNH TÂMBÀI

Bài 1 : LOAN BÁO TIN MỪNG LÀ MỘT ÂN HUỆ VÀ ƠN GỌI ĐẶC BIỆT, LÀ CHÂN TÍNH CỦA HỘI THÁNH

Bài 2 : “CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ SỨ GIẢ TIN MỪNG ĐẦU TIÊN VÀ VĨ ĐẠI NHẤT”

Bài 3 : “Thần khí Chúa ngự trên tôi…...”

Bài 4 : “TIẾP NỐI BƯỚC CHÂN TRUYỀN GIÁO”

Bài 5 : LOAN BÁO TIN MỪNG “VỚI MỘT NHIỆT TÌNH TÔNG ĐỒ MỚI”

Bài 6 : MÔI TRƯỜNG MỚI

Bài 7 : HÀNH HƯƠNG

Bài 8 : PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚA GIÊSU

Bài 9 : RAO GIẢNG TIN MỪNG “VỚI MỘT NHIỆT TÌNH TÔNG ĐỒ MỚI”

MỤC LỤC

Bài I : LOAN BÁO TIN MỪNG LÀ MỘT ÂN HUỆ VÀ ƠN GỌI ĐẶC BIỆT, LÀ CHÂN

TÍNH CỦA HỘI THÁNHLm Đỗ Quyên, Dalat Mở đầu số 2, Thư mục vụ (TMV) khẳng định : “Loan báo Tin Mừng là ân huệ và ơn gọi đặc biệt của Hội Thánh, là chân tính sâu xa nhất của Hội Thánh, một Hội Thánh phát xuất từ tình yêu cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi”. TMV nhấn mạnh 3 điểm : 1/ Loan báo Tin Mừng là một ơn huệ; 2/ Là một ơn gọi của Hội Thánh; 3/ Là chân tính của Hội Thánh.

I. Loan báo Tin Mừng là một ân huệ Đành rằng loan báo Tin Mừng là sứ mạng của Hội Thánh như Thánh Phaolô nói : “Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1C 9, 16), nhưng quả thật đó còn là một ân huệ nữa, điều mà chúng ta có lẽ ít khi nghĩ tới. 1. Là một ân huệ bởi vì sứ mạng ấy trước hết là của Thiên Chúa Ba Ngôi và của Đức Giêsu,

MỤC LỤC

nhưng vì yêu thương, Người đã muốn cho Hội Thánh được góp phần vào bằng cách sai Giáo Hội đi vào thế giới, đến với muôn dân.Vì thế, Hội Thánh sẽ là sự hiện diện nối dài của Thiên Chúa ở dưới trần gian này. Nói theo kiểu nói của Công Đồng Vatican II : Hội Thánh là “bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ” của Thiên Chúa (GH 1). Người ta sẽ biết Chúa qua Hội Thánh. Chính vì thế, “Hội Thánh lữ hành này cần thiết cho phần rỗi” (s. 14)2. Là một ân huệ, bởi vì loan báo Tin Mừng là một sứ mạng vượt quá chính bản thân của Hội Thánh . Hội Thánh luôn phải rao giảng về Chúa, về một sứ điệp lớn hơn chính mình và cách nào đó cảm thấy bất xứng. Hội Thánh phải nói về một Đấng mà mình mới chỉ thấy như thể “lờ mờ” trong gương.Quả thật, sứ mạng truyền giáo là một ơn huệ.II. Loan báo Tin Mừng là một ơn gọi của Hội Thánh Loan báo Tin Mừng không chỉ là một ơn huệ nhưng còn là một ơn gọi nữa.

MỤC LỤC

1. Thánh sử Marcô ghi nhận : Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ “để họ ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng” (Mc 3, 14) và “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).“Được sai đi” : đó là ơn gọi của các tông đồ hôm qua và cũng chính là ơn gọi của Hội Thánh hôm nay. Loan báo Tin Mừng cho muôn dân là sứ mạng đầu tiên của Hội Thánh. Thật vậy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã nói với các tông đồ : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Sau đó, các tông đồ đã “ra đi rao giảng khắp nơi” (16, 19). 2. Trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử, Hội Thánh đã không mệt mỏi rao giảng về Chúa “lúc thuận cũng như lúc nghịch” (2Tm 4, 1), bởi ý thức rằng đó là ơn gọi của mình. Riêng Hội Thánh Việt nam, “đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu Kitô, từ nhiều thế kỷ nay, biết bao nhiêu thế hệ môn đồ đã hăng hái lên đường. Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng

MỤC LỤC

sóng lớn. Biết bao nhiêu người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao nhiêu người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới.Nhờ các vị thừa sai đầy nhiệt huyết, quê hương Việt nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đời sống anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quí giá” (TMV, số 6).Loan báo Tin Mừng là ơn gọi của Hội Thánh mọi thời.III. Loan báo Tin Mừng là chân tính của Hội Thánh .Cuối cùng, loan báo Tin Mừng là chân tính sâu xa nhất của Hội Thánh : “Tự bản chất, Hội Thánh lữ hành này phải truyền giáo” (TG 2).“Chúa Giêsu đã thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo Tin Mừng (x. Mc 16, 15 ; Mt 28, 19-20). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội Thánh không hiện hữu cho mình nhưng cho con người và với con người. Hội

MỤC LỤC

Thánh hiện hữu là để loan báo Tin Mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô (x. Mt 19) đồng thời qui tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác về lại một mối (x. Ga 10, 52)” (TMV, số 4).Càng loan báo Tin Mừng, Hội Thánh càng là chính mình. Và, nếu không loan báo Tin Mừng, Hội Thánh sẽ không còn trung thành với ý muốn của Đấng sáng lập.Thực hành1. Cảm tạ Chúa vì Chúa cho ta được cộng tác vào sứ mạng loan báo Tin Mừng của Người.2. Quyết tâm loan báo Tin Mừng vì đó là ơn gọi và là chân tính của Giáo Hội và của người kitô hữu.

MỤC LỤC

Bài II : “CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ SỨ GIẢ TIN MỪNG ĐẦU TIÊN VÀ VĨ ĐẠI NHẤT”

Lm Đỗ Quyên, Dalat Tham khảo : Lm Giuse Võ đức Minh, Từ Tân Ước đến với Chúa Giêsu. x. Đức Giêsu, con người lữ hành, tr. 9-14. Trong việc loan báo Tin Mừng, Hội Thánh noi gương Chúa Giêsu Kitô, “sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất” (TMV, số 3).Chúng ta giới hạn đề tài bằng cách nhìn vào Đức Giêsu của Tin Mừng Marcô để học cung cách loan báo Tin Mừng của Người.Theo Marcô, Đức Giêsu là “con người lữ hành để loan báo Tin Mừng”. Ta có thể vẽ phác “con người lữ hành” ấy qua những nét tiêu biểu sau đây :I. Con người ta gặp giữa mọi người.

1/ Đức Giêsu là con người của quần chúng, chia sẻ những vui buồn của họ, muốn thu hẹp những quãng cách trong gặp gỡ tiếp xúc.

MỤC LỤC

Người ta vẫn gặp thấy Người đi đứng giữa đám đông ồn ào chen lấn, xô đẩy nhau, như khi Người tới nhà ông trưởng hội đường tên là Gia-ia để chữa cô con gái của ông sắp chết (x. 5, 21-43).Những khi Người rao giảng, ta vẫn gặp thấy cảnh tượng quen thuộc ấy. Người hâm mộ, tò mò kéo đến càng lúc càng đông, khiến Người phải lên thuyền mà ngồi (x. 4, 1-2).

2/ Đức Giêsu là con người sống đơn sơ, bình dị. Giữa bão tố ầm ầm, thậm chí nước tràn cả vào thuyền, ta vẫn thấy Người kê đầu vào mạn thuyền mà ngủ (x. 4, 35-38).II. Con người ta bắt gặp trên đường đi

1/ “Chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ ngả đầu” (x. Lc 9, 57-58 ; Mt 8, 18-20). Bước chân của Đức Giêsu in dấu trên mọi nẻo đường xứ Phalệtinh. Người là con người luôn di động, chủ động đến với con người, tìm gặp con người.

2/ Vì thế, Marcô hầu như muốn đồng hoá Đức Giêsu với đường đi.

MỤC LỤC

Bước chân của “người loan báo Tin Mừng” luôn động đạt : Người “bỏ” Nazareth (x. Mc 1, 9); “đến” xứ Galilê (x. 1, 16); “đi” dọc theo bờ biển…”đi” xa hơn một chút nữa (x. 1, 21); sáng tinh sương, Người chỗi dậy “ra đi” (x. 1, 35).III. Con người đi qua mà không bao giờ dừng lại.

1/ Đức Giêsu không bao giờ tìm kiếm lời ca ngợi, tung hô. Không một ai, không một nơi nào, biến cố nào dù thành công hay thất bại có thể cầm giữ được Đức Giêsu.Đức Giêsu thuyết giảng thành công, đã trở nên nổi tiếng và người ta tìm cách giữ Người lại, nhưng Người nói với các môn đệ : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi” (1, 36-38).

2/ Là con người của đám đông, nhưng Đức Giêsu không chiều theo thị hiếu của họ, không lệ thuộc họ, không mị dân (x. 6, 45 ; 8, 9-10.11-13).Quả thật, Đức Giêsu là con người “đi qua mà không bao giờ dừng lại”.

MỤC LỤC

IV. Con người đi trước mọi người 1/ Đức Giêsu, con người lãnh đạo, Vị

Thầy. Người không bao giờ xuất hiện mà vắng bóng các môn đệ. Nhưng trong mọi trường hợp, Người luôn “đi trước”ï, còn các môn đệ thì “đi sau” (x. 1, 18.20; 2, 14; 8, 33; 10, 52).

2/ Đức Giêsu, con người can đảm. Trên đường tiến về Giêrusalem “Đức Giêsu dẫn đầu đi trước họ, còn những kẻ theo sau thì sợ hãi” (10, 32). Rồi sau khi sống lại, chính Người cũng lên Galilê trước để đợi các môn đệ ở đó (16, 7).IV. Con người ra khỏi mọi ranh giớiĐức Giêsu đã chọn vùng đất Galilê như nơi lý tưởng để loan báo Tin Mừng . Tại sao ?Thưa, bởi vì :1. Galilê là vùng đất không có ranh giới, từ đó Người dễ dàng tiếp xúc với dân ngoại mà tiêu biểu là Tyrô, Siđôn (3, 8; 7, 24.31), hoặc Kaisaria của Philíp (8, 27).2. Khi chọn Galilê làm nơi loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã muốn xoá bỏ mọi ranh giới phân cách giữa người Do thái với lương dân, điều mà quá khứ đã dựng lên.

MỤC LỤC

Người như muốn nói rằng : từ nay Tin Mừng không được thu hẹp lại một nơi chốn nào nữa, không còn là độc quyền của riêng ai, nhưng phải được công bố cho mọi nơi và mọi người. Người môn đệ phải ghi khắc trong tâm khảm mình chân lý ấy.Kết luận : Đức Giêsu quả thật là khuôn mẫu lý tưởng cho những con người loan báo Tin Mừng hôm nay.

MỤC LỤC

Bài ba : “Thần khí Chúa ngự trên tôi…...”

Lm Hướng Dương, Dalat Tham khảo : CM. Martini, L’ Eùvangélisateur en saint Luc. Cf. Jésus, évangélisateur manqué, pp. 16-25. Trong việc loan báo Tin Mừng, Hội Thánh muốn học với “Chúa Giêsu, sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất. Ngay từ đầu, Ngài đã xác định sứ mạng của Ngài là rao giảng Tin Mừng theo lệnh truyền của Đức Chúa Cha : “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, bởi Ngài đã xức dầu cho tôi, Ngài đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4, 18 ; x. Is 61, 11)” (TMV số 3).TMV chỉ trích dẫn câu 18 của đoạn 4. Chúng ta có thể đọc từ câu 16-30 để thấy sứ mạng của người loan báo Tin Mừng không đơn giản. Ngay cả Chúa Giêsu xem ra cũng đã thất bại ngay từ đầu. Thánh sử Luca không muốn che dấu sự thật đớn đau này, có lẽ để đưa ra một bài học cho những sứ giả Tin Mừng sau này suy nghĩ.

MỤC LỤC

I. Chúng ta đọc lại câu chuyện.Đức Giêsu trở về Nazaret và vào Hội dường. Người mở sách ra và đọc một đoạn của Tiên tri Isaia, rồi Người gấp sách lại, ngồi xuống, cử toạ đăm đăm nhìn Người. Đây là một thời điểm có tính quyết định trong cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu. Một sai lầm thôi cũng sẽ ảnh hưởng trên cả sứ vụ của Người và kéo theo những hậu quả tai hại lớn lao. Bầu khí xem ra căng thẳng. Cử toạ chờ đợi xem con người đã từng làm bao việc lạ lùng sẽ ăn nói làm sao. Mọi ánh mắt đăm đăm nhìn Người. Và Đức Giêsu đã tuyên bố : “Hôm nay sứ điệp Kinh Thánh mà các ngươi vừa nghe đã được ứng nghiệm”. Đức Giêsu có lẽ cũng cảm thấy trước bầu khí sẽ trở nên hận thù khi Người tiếp tục công bố sứ điệp : “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình !. Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã

MỤC LỤC

làm tại Caphacnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào”. Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông : không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình. Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : thiếu gì bà goá ở trong nước Israel vào thời ông Eâlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarepta miền Xiđon. Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi trong nước Israel vào thời tiên tri Eâlisa, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyria thôi”. Bầu khí thật sự đã trở nên sục sôi : “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi – họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”.Câu chuyện dừng lại chỗ đó. Sứ vụ của Đức Giêsu xem ra đã thất bại.

MỤC LỤC

II. Những bài học Từ câu chuyện trên, ta có thể rút ra những bài học nào ? 1. Người loan báo Tin Mừng phải đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa.Luca cho thấy việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu không suôn sẻ, không thành công nhưng thất bại, ít nhất là dưới con mắt người phàm.Trong sách Công Vụ, Luca còn cho chúng ta thấy điều này nơi trường hợp của các tông đồ như Phaolô và Banaba : vào ngày Sabát, khi thấy gần như cả thành tụ họp lại để nghe lời Thiên Chúa, “người Do thái sinh lòng ghen tức, họ dùng lời lăng nhục mà chống đối những lời ông Phaolô nói” (Cv 13, 45) Cuộc đời người loan báo Tin Mừng là thế. Hãy nghe tâm sự của Thánh Phaolô : “ Chúng tôi không muốn để anh em không hay biết gì về nỗi gian truân chúng tôi đã gặp bên Axaia: chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức chúng tôi đến nỗi chúng tôi không còn hi vọng sống nổi. Nhưng chúng tôi đã mang án

MỤC LỤC

tử nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không tin tưởng vào chính mình, mà vào Thiên Chúa” (2C 1, 8-9).Vâng, trong việc loan báo Tin Mừng, người tông đồ phải đặt trọn niềm tin vào Chúa. 2. Phải có tinh thần siêu thoátĐG đã “băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4, 30).Câu này làm nổi bật hai khía cạnh : a/ Thứ nhất, “Đức Giêsu cứ tiếp tục con đường của Người và con đường này chỉ kết thúc tại Giêrusalem (x.13, 33. Giải thích của CGKPV). Người loan báo Tin Mừng không vì khó khăn, thất bại mà nản lòng, bỏ cuộc.b/ Thứ hai, sự tự do tuyệt đối của Chúa Giêsu. Khi “băng qua giữa họ mà đi”, Chúa Giêsu cho thấy Người không bị ràng buộc vào một nơi chốn hay một biến cố nào. Cần phải học tinh thần tự do của Chúa Giêsu trước khi học hỏi nội dung sứ điệp của Người.. Làm sao ta có thể công bố sứ điệp giải thoát nếu trước tiên chính mình chưa được giải thoát? Kết luận

MỤC LỤC

Loan báo Tin Mừng là chuyện ai cũng muốn làm. Điều khó là khi phải đối diện với những gian khổ, khó khăn và thất bại. Sự thành công nào xem ra cũng phải đi qua con đường thánh giá.

MỤC LỤC

Bài bốn : “TIẾP NỐI BƯỚC CHÂN TRUYỀN GIÁO”

Lm Giuse Trần ngọc Liên Lm Hướng Dương, Dalat “Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quí giá” (TMV, số 6). Lịch sử là Thầy dạy ta.Trong “năm truyền giáo” của Hội Thánh Việt Nam, thật hữu ích khi ôn lại những chặng đường quá khứ của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, một đàng để cảm mến và biết ơn những vị thừa sai, những nhà truyền giáo, đàng khác để rút ra những bài học cho chính chúng ta hôm nay. Trong bài này, chúng ta chỉ dừng lại ở những mốc điểm lịch sử truyền giáo chính yếu cũng

MỤC LỤC

như những khuôn mặt tiêu biểu và sáng chói đã góp công lớn trong việc hình thành và xây dựng Giáo Hội Việt Nam. I. Cha Đắc Lộ (Alexandre dẹ Rhodes). 19/3/1627 : cha Đắc Lộ và cha Pedro Marquez đặt chân đến Cửa Bạng, Ba Làng, Thanh Hóa. Về sự kiện này, cha Nguyễn Hồng đã ghi : “Nhận thấy cha Đắc Lộ tuy mới đến xứ Nam nhưng đã thông thạo tiếng nói và thích ứng với phong tục tính tình dân tộc mau chóng, liền được cha Gabriel De Mattos chọn để sai ra xứ Bắc cùng với cha Pedro Marquez. Vào quãng tháng bảy (1626), hai cha xuống tàu về Áo Môn. Năm sau, lễ thánh Grêgôriô Cả, 12/3/1627, hai cha xuống tàu rời Áo Môn, sau 6 ngày thuận buồm xuôi gió, thoát khu đảo Hải Nam, vùng biển nguy hiểm hơn cả, thì gặp bão. Suốt một đêm đương đầu với sóng gió, sáng ngày 19/3 chính ngày lễ thánh

MỤC LỤC

Giuse, tàu dạt vào cửa Bạng. Để ghi nhớ ơn phù hộ của Thánh Cả và để hiếùn dâng công cuộc truyền giáo của hai cha được bắt đầu trong chính ngày lễ của Người, cha Đắc Lộ gọi cửa biển đó là cửa thánh Giuse và đặt Người làm quan thầy của xứ Bắc” (Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển I, trang 99). Tiểu sử Cha Đắc Lộ Cha Bùi Đức Sinh, giáo sư sử học, đã viết như sau : “Cha Alexandre de Rhodes, quê thành Avignon, quốc tịch Tòa Thánh, sinh ngày 15/3/1593, thuộc giai cấp trung lưu xứ Aragon Tây Ban Nha, di cư sang Avignon từ đầu thế kỷ XV. Vào dòng Tên hồi 18 tuổi, chịu ảnh hưởng lớn trong việc huấn luyện truyền giáo tại trung tâm dòng ở Rôma, thụ phong linh mục năm 1618. cuối năm 1624, cha De Rhodes, tức Đắc Lộ, đã được sai đến xứ Nam truyền giáo dưới quyền cha Buzomi. Nhận thấy cha, tuy mới đến xứ Nam, mà đã thông thạo tiếng nói và thích nghi với phong

MỤC LỤC

tục tính tình dân tộc, cha De Mattos đã chọn để sai đi xứ Bắc cùng với cha Pedro Marquez. Tháng 7/1626 hai cha lên tàu về Macao. Năm sau, ngày 12/3, hai cha lên tàu rời Macao, sau 6 ngày thuận buồm xuôi gió, thoát vùng Hải Nam, thì gặp bão. Suốt một đêm đương đầu với sóng gió, sáng ngày 19/3/1627, lễ thánh Giuse, tàu giạt vào Cửa Bạng (Thanh Hóa). Để ghi ơn phù hộ của thánh cả và để hiến dâng công cuộc truyền giáo được bắt đầu trong chính ngày lễ thánh nhân, cha Đắc Lộ gọi cửa biển đó là cửa Thánh Giuse và nhận người làm bổn mạng xứ Bắc” (Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam, 1997, quyển I, trang 123-124).

Chân phước Anrê Phú Yên (+ 26/7/1644)Một trong những công việc mà Cha đắc Lộ quan tâm, đó là vấn đề đào tạo. Cha đã đào tạo nhiều thầy giảng, trong đó có thầy Anrê quê ở Phú Yên.

MỤC LỤC

Cha Bùi Đức Sinh viết : “Giáo đoàn xứ Nam cho đến lúc này có thể nói là được sống trong cảnh thái bình, tuy đôi khi còn bị tấn công khá ác liệt, nhưng chưa bao giờ đi đến đổ máu, nghĩa là chưa có vị tử đạo làm nhân chứng cho Tin Mừng. Chúa đã dành vinh dự đó cho một thầy giảng trẻ mới 19 tuổi, người quê ở thị xã Ram-An (Raran) phủ Phú Yên, trấn Quảng Nam. Tháng 7/1644, Tống thị – một dâm phụ, được Thượng vương coi như chính phi… sau này vì làm nhiều điều gian ác, bà đã bị trảm quyết – của triều Thượng vương ra lệnh cho quan trấn Quảng Nam bắt giam thầy Inhaxu và tìm cách phá đạo, phá công việc của cha Đắc Lộ. Quan trấn vốn có tiếng là người ghét đạo, đã nhiều phen làm nhà truyền giáo phải điêu đứng. Vừa ở vương phủ về, ông ra lệnh bắt giam cụ Anrê, vị quan đã minh chứng đạo ở Hải Phố trước đây. Rồi ông sai lính đến vây nhà cha Đắc Lộ ở Hải Phố để bắt thầy Inhaxu.

MỤC LỤC

Cha Đắc Lộ và các thầy, sau một thời gian đi thăm bổn đạo ở Đồng Hới và thủ phủ Kim Long, đã trở về Quảng Nam định mở đầu việc rao giảng Tin Mừng cho vùng này. Sau khi tạt qua thăm nhà ở Hải Phố, cha lên thị trấn muốn dùng phép xã giao đến chào thăm quan trấn, hy vọng nhờ đó công việc ông cho dễ dãi. Không ngờ lại gặp chính lúc con người thù ghét đạo đang mưu toan phá công việc của cha. Khi đến cửa dinh quan, cha mới được người Bồ Đào Nha cho hay biết điều đó, và họ khuyên cha nên cho các thầy di tản vào các họ đạo. Khi lính bủa vây nhà cha Đắc Lộ để bắt thầy Inhaxu, thì thầy vừa ra khỏi nhà. Lính tức giận, bắt trói thầy Anrê đang có mặt đấy điệu đi, sau khi lục soát nhặt nhạnh và tịch thu ảnh tượng trong nhà. Thầy Anrê ở nơi khác mới đến, được cha Đắc Lộ biểu ở lại săn sóc bốn thầy đau yếu. Khi ngược sông trở về thị trấn, thuyền lính gặp thuyền của cha Đắc Lộ và các thầy, họ hỏi thăm có gặp cha Đắc Lộ và thầy Inhaxu không ? May trời nhá nhem tối, họ

MỤC LỤC

không nhận ra cha và nhiều thầy trong thuyền. Khi về tới thị trấn, quan ra lệnh tống giam thầy Anrê. Bứớc vào ngục, thầy gặp cụ Anrê mới bị bắt ban chiều. Hai người bạn suốt đêm chia sẻ niềm an ủi do cùng một lòng tin, mong đợi đến sáng để được dâng lễ hy sinh, cùng nhau hưởng hạnh phúc Nước Trời. Vừa tảng sáng, quan trấn ra lệnh dẫn hai tù nhân lên dinh, và để cho có hình thức công lý, ông cho lập tòa án. Nhưng không cần điều tra tội vạ, ông tuyên bố ngay án xử tử cả hai. Sáng hôm ấy, cha Đắc Lộ đến dinh quan trấn. Biết chuyện, cha nhất định cùng với một số người Bồ đang buôn bán ở đó, vào xin quan trấn cho rút án lại. Là những người được Thượng vương kính nể, đang tìm cách giữ mối giao hảo để mua súng ống đạn dược, cha và những thương gia Bồ tìm hết cách để yêu cầu quan trấn tha cho hai người vô tội. Có lúc đã đi đến đe dọa, nhưng ông nhất định không

MỤC LỤC

nhượng bô. Cuối cùng, ông bằng lòng rút án cho cụ Anrê vì có gia đình con cái, còn thầy Anrê, theo như ông nói “cứng đầu cứng cổ đã dám thưa với ông rằng : dù có chết cũng nhất định không bỏ tên người có đạo, vì thế phải y án, để cho dân chúng biết phép chúa mà trọng”. Không thể cứu thầy Anrê, cha Đắc Lộ chỉ biết đến bên thầy trong giờ phút cuối cùng để giúp thầy tín thác vào lòng thương xót của Chúa, với cả tinh thần dũng cảm làm chứng cho Tin Mừng. Khi lên đường chịu xử, thầy xưng tội lần chót rồi quỳ cầu nguyện chờ đợi. Một tên lính đứng sau cầm giáo đâm thầy một nhát mạnh. Thầy âu yếm nhìn cha Đắc Lộ như gửi lời chào vĩnh biệt, cha làm dấu bảo thầy nhìn lên Trời, nơi Chúa đang chờ đợi để trao triều thiên tử đạo cho thầy. Rút giáo ra, tên lính đâm nhát thứ hai, rồi thọc tìm trái tim đâm nhát thứ ba. Thầy Anrê vẫn quỳ ngay ngắn, mắt nhìn về Trời. Thấy thế, một tên lính khác vung đao

MỤC LỤC

chém cổ thầy, đầu đứt rơi về phía phải, chỉ còn dính lại một chút da cổ. Chính lúc đó, cha Đắc Lộ nghe rõ tiếng kêu tên cực trọng Chúa Giêsu và xác ngã gục xuống đất. Ngày đó là 26/7/1644… Thi hài của đấng tử đạo được đưa xuống thuyền của cha Đắc Lộ ở Hải Phố. Người ta mở quan tài ra để tắm rửa và ướp muối. Khi cha Đắc Lộ vĩnh biệt xứ Nam về Macao, cha đã đem theo thi hài vị tử đạo. Thuyền cha Đắc Lộ gặp bão lớn ở phía bắc đảo Hải Nam, nhiều tàu bè bị đắm, riêng thuyền của cha thoát nạn về tới bến bình an. Thi hài thầy Anrê được chôn táng trong nhà thờ dòng Tên. Cuối năm 1645, khi về châu Âu, cha Đắc Lộ đã đem đầu thầy sang Rôma, còn thân giữ lại ở Macao. Khi lên án xử tử thầy Anrê, quan trấn Quảng Nam đồng thời cũng ra lệnh trục xuất cha Đắc Lộ,,,” (sđd 186-189).

MỤC LỤC

II. Về hai Giám mục Đại diện Tông Tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1659) : Francois Pallu và Pierre Lambert de la Motte. Cha Bùi Đức Sinh viết : “Cha Đắc Lộ tuy phải rời khỏi xứ Nam (1645), nhưng vẫn ôm mộng thấy xứ truyền giáo này có Giám mục và một hàng giáo sĩ bản quốc ; cha lại được Đức thánh cha Innocentê X (1644-1655) ủy thác cho công việc tìm kiếm những giáo sĩ có thể gánh vác chức vụ này và những thừa sai tình nguyện. Cha đi nhiều nơi trong nước Ý, nhưng thất bại. […]. Năm 1653, cha tới Paris, được giới thiệu đến gặp nhóm ‘Giáo sĩ trẻ’ gồm nhiều linh mục trẻ tuổi và đại chủng sinh, thường hội với nhau để cầu nguyện và học hỏi. Người hướng dẫn nhóm là linh mục Francois Pallu […]. Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin nghe biết, và thừa lệnh Đức thánh cha Innôcentê X, đã truyền cho Sứ thần Tòa Thánh ở Paris chọn ba linh mục trong số tình nguyện, để đưa lên

MỤC LỤC

chức Giám mục. Các linh mục được chọn là Francois Pallu […]. Tháng 7/1653, các linh mục tình nguyện được sai đi soạn một kiến nghị hưởng ứng chương trình Đông Á của Tòa Thánh […]. Ngày 17/8/1658, Tòa Thánh bổ nhiệm cha Francois Paullu làm Đại Diện Tông Tòa. Cũng ngày ấy, vì biết rõ khả năng và đức độ của cha Pierre Lambert de la Motte, … Tòa Thánh chọn cha Pierre làm Đại diện Tông Tòa thứ hai cho chương trình Đông Á. Ngày 17/11/1658, Đức cha Pallu được tấn phong giám mục hiệu tòa Heliopolis tại vương cung thánh đường thánh Phêrô do Đức hồng y Antonio Barberini tổng trưởng Thánh bộ Truyền Bá. Đức cha Lambert cũng được tấn phong giám mục hiệu tòa Berythe tại nguyện đường dòng Thăm Viếng ở Paris do Đức Tổng giám mục Tours ngày 11/6/1660…

MỤC LỤC

Ngày 9/9/1659, Đức thánh cha Alexandrô VII ký đoản sắc tuyên bố thiết lập hai địa phận Đàng Ngoài (gồm cả Ai Lao và các tỉnh miền Nam Trung Quốc) và Đàng Trong (gồm cả Chiêm Thành, Cao Miên và Thái Lan) ở Việt Nam… (sđd 232-235). Vì Đức cha Pallu không vào được Đàng Ngoài nên ngài trao quyền địa phận cho Đức cha Lambert de la Motte từ đầu năm 1665. Công đồng Dinh Hiến “Ngày 14/02/1670, Đức cha Lambert họp Công Đồng thứ nhất Bắc Hà (Đàng Ngoài) tại Dinh Hiến (Phố Hiến) thuộc trấn Sơn Nam – NB. Dinh Hiến hay Phố Hiến : Dinh là khu vực dinh thự quan trấn, Phố là khu vực buôn bán. Thực tế, Công Đồng họp dưới tàu bôn đậu trên sông Cái (sông Hồng) cạnh Dinh Hiến. Trấn hay tỉnh Sơn Nam, gọi tắt là xứ Nam, bấy giờ gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Hưng Yên và Thái Bình sau này. Thủ phủ của Sơn Nam là Phố Hiến –.

MỤC LỤC

Tham dự Công Đồng có cha chính Deydier, hai thừa sai Pháp De Bourges và Bouchard, và chín linh mục Việt là các cha Biển Đức Hiền, Gioan Huệ và bảy tân linh mục. Công Đồng có mục đích phổ biến những nghị quyết của Tòa Thánh về trách nhiệm và quyền bính của các vị Đại diện Tông Tòa, tổ chức các mặt sinh hoạt tôn giáo trong địa phận như : phương pháp truyền đạo, cắt cử các linh mục, tuyển mộ chủng sinh, cũng như đựa ra nhiều chỉ thị về việc ban phát các bí tích. Công Đồng chính thức nhận thánh Giuse làm Bổn Mạng Giáo Hội xứ Bắc – “patron de ce Royaume” nếu hiểu nghĩa hẹp thì chỉ là xứ Bắc, nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng thì phải hiểu là cả xứ Bắc lẫn xứ Nam –. Một bản Huấn thị gồm 33 điều, phần nhiều giống như bản “Huấn thị” Juthia (1644), chỉ sửa đổi cho thích hợp với sinh hoạt địa phương. Công Đồng quyết định chia địa phận Đàng Ngoài thành chín hạt và nhóm họp hội nghị

MỤC LỤC

hằng năm. “Công vụ Công Đồng Dinh Hiến” được Đức thánh cha Clêmentê X châu phê trong Tông chiếu “Apostolatus Officium” ngày 23/12/1673. […]. Thành lập Dòng nữ Mến Thánh Giá. Sau Công Đồng, cha chính Deydier giới thiệu với Đức cha hai nhóm trinh nữ sống từ lâu (ở Kiên Lao và Bái Vàng). Sau khi tìm hiểu kỹ lưỡng tại chỗ, nhằm lễ Tro 19/2/1670, Đức cha Lambert quyết định ban sắc chính thức thành lập dòng nữ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Nam Định) và Bái Vàng (Hà Nam), cùng nhận thánh Giuse làm bổn mạng. Thành lập dòng nữ này là Đức cha đã đạt được ước mơ từ 1657 khi đến Anncy cầu nguyện lâu giò trước mộ thánh Phanxicô Salêsiô và nữ thánh Gioanna de Chantal là hai vị sáng lập dòng Thăm Viếng. Người được ơn soi sáng để nhận thấy : trong tay Hội Thánh công giáo, linh mục và nữ tu là

MỤC LỤC

hai nguồn mạch tuôn đổ đức tin và đức ái xuống cho một đất nước… Cũng ngày 19/02, Đức cha Lambert trao cho các nữ tu Mến Thánh Giá một hiến pháp, đã được soạn tại Juthia. Và tại Kiên Lao, Đức cha đích thân nhận lời tuyên thệ của hai nữ tu tiên khởi : chị Inê và chị Paola..” (sđd 260-263). Một bản Huấn Thị (Monita) của Công Đồng Juthia được ban hành : “Công Đồng mời gọi các thừa sai phải cảnh giác trước đời sống buông thả, và tập trung nỗ lực vào đời sống cầu nguyện và chiêm niệm. Các thừa sai biết việc, biết người, quen thuộc ngôn ngữ, phong tục, nhưng phải khước từ những phương thế và thủ đoạn nhân loại để đạt lý tưởng. Các thừa sai phải trình bày Lời Chúa với một khoa sư phạm thích hợp cho từng lớp tuổi và từng giai đoạn, nhất là nên thận trọng đừng làm phật lòng các tôn giáo bạn.

MỤC LỤC

Trong tổ chức nội bộ giáo xứ, các thừa sai nên đề cử ông trùm, ông câu, ông biện và một số bà hộ sinh, với nhiệm vụ rửa tội cho trẻ sơ sinh nguy tử, để không trẻ nào chết mà không được rửa tội. Đời sống tu đức được đề nghị cho các linh mục địa phương là một nền linh đạo tập trung vào mầu nhiệm Chúa Kitô chịu đóng đinh” (sđd 244). Kết luậnChúng tôi mượn những nhận xét của Lm Nguyễn đắc Bình, pss để kết thúc bài này. 1. Trước hết, ta nhận thấy một yếu tố chung luôn hiển hiện dưới nhiều hình thức khác biệt : “Thiên Chúa đã sai Giáo Hội đến với muôn dân để nên bí tích cứu độ cho mọi người. Giáo Hội tự bản chất mở rộng cho mọi người. Vì thế, tuân theo mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập, Giáo Hội luôn ra sức loan báo Tin Mừng cho mọi người. Các nhà truyền giáo, dầu là Dòng Tên hay Thừa Sai Paris, dầu sống vào thế kỷ XVII hay XIX, dầu thời xưa hay

MỤC LỤC

ngày nay, tất cả đều theo đuổi một mục đích ấy. 2. Thứ đến, không có phương pháp truyền giáo nào duy nhất và hoàn toàn đúng, nhưng có nhiều phương pháp… Điều kiện thiết yếu để bất cứ một phương pháp truyền giáo nào có thể sinh hoa kết quả vẫn là một nỗ lực suy tư. Dầu vậy phải có một nền đạo đức thâm thuý và sâu xa hầu duy trì mối tương quan cá nhân sống động với Đức Kitô. 3. Những yếu tố mà ta có thể nhận thấy trong mọi phương pháp truyền giáo là : a/ Sự nỗ lực của các nhà truyền giáo là điều không thể phủ nhận, nhưng một điều cần xác tín : đó là hoạt động lặng lẽ của Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt mỗi người qua những “dấu chỉ thời đại” (signes dẹ temps). b/ Thứ đến, các nhà truyền giáo đã rất quan tâm đến vấn đề đào tạo, như Cha Đắc Lộ đã

MỤC LỤC

đào tạo nhiều thầy giảng, trong đó có thấy Anrê Phú Yên… 4. Sau cùng, một điều kiện khác của mọi công cuộc truyền giáo là : người rao giảng Tin Mừng không bao giờ hoạt động đơn độc. Các vị dòng Tên cũng như các vị thừa sai Paris thế kỷ XVII hay XIX không những đã làm việc chung trong tinh thần cộng đoàn mà còn được những giáo đoàn sống động nâng đỡ, nhờ đó các ngài không ngừng nhận được chất nhựa sống cho mọi hoạt động. Sau lưng các vị Dòng Tên là cả một tu hội. Đàng sau các vị Đại Diện Tông Toà là toàn thể nước Pháp đang bùng sôi với phong trào cải cách kitô giáo…(x. Tạp chí Nhà Chúa, số 44 (15.4.1975), tr. 48-79) Thiết tưởng, đó là những “gia sản quí gía”ù mà các vị thừa sai cũng như các nhà truyền giáo để lại cho hậu thế.

MỤC LỤC

Bài 5 : LOAN BÁO TIN MỪNG “VỚI MỘT NHIỆT TÌNH TÔNG ĐỒ MỚI”

Lm Giuse Nguyễn hưng Lợi, DCCTNói đến việc truyền giáo, ta cần phải trở về với quá khứ, để :. một mặt : cảm mến và biết ơn các vị thừa sai, các bậc tiền nhân, những người đã góp phần to lớn cho Hội Thánh Việt Nam như TMV nhận định (x.số 6).. mặt khác : tiếp nối bước chân truyền giáo của các ngài, “đem Tin Mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt Nam thân yêu” này với một nhiệt tình tông đồ mới (x. số 7) “Nhiệt tình tông đồ mới” được TMV gồm tóm trong những điểm sau đây : 1. Nhờ sức mạnh, nhờ lửa và ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần TMV viết : “Hãy lên đường với tinh thần tông đồ, là sự hăng hái được thúc đẩy bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là lòng nhiệt

MỤC LỤC

thành truyền giáo được nung đốt bởi lửa của Chúa Thánh Thần, là những sáng kiến do ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần” (số 7) Điều này được soi sáng bởi số 51, Dominum et vivificantem : ‘Trong yếu tính sâu xa nhất của việc loan báo Tin Mừng, đức tin là sự mở ngỏ của trái tim con người trước ơn huệ, trước việc Thiên Chúa thông ban chính mình trong Thánh Thần” Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng nói rằng “nếu anh chị em không ngừng giúp anh em mình lãnh nhận lời Thiên Chúa đúng theo bản chất của nó: đó là được mạc khải và linh hứng bởi Thiên Chúa như sáng kiến và ơn huệ của Người, được Hội Thánh rao giảng, được cử hành trong phụng vụ và được các thánh đem ra sống. Chỉ như thế, các cộng đoàn của anh chị em mới có khả năng ‘ đọc lại ‘ cách đích thực trước những biến cố mới “ Để con người khả dĩ hiểu được mạc khải cách sâu xa hơn mãi, Thánh Thần không ngừng

MỤC LỤC

dùng những ơn huệ của Người làm cho đức tin nên hoàn hảo hơn” ( Lời Thiên Chúa, 5 ). Trong diễn từ trước 2000 linh mục, tu sĩ…ở thủ đô Uruguay ngày 31/3/1987Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết :” Ngày nay, hơn bao giờ hết, cần phải giơ cao ngọn đuốc của sự thật Tin Mừng để soi sáng những bước đi chập choạng và thiếu hy vọng của biết bao anh em chúng ta đang bị trôi dạt. Con đường của Hội Thánh, đó là con người mà trong trái tim’ Thánh Thần không ngừng là vị canh giữ niềm hy vọng” (Dominum et vivificantem, 67 ). TMVï 2003 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam viết tiếp: “ Đó là tinh thần của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi” loan báo Tin Mừng cho người nghèo…”( Lc 4, 18 ).

2. Tinh thần của Chúa Giêsu Kitô Tin Mừng của thánh Luca 4,17-21 cho thấy chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần xức

MỤC LỤC

dầu, tấn phong, được Chúa Cha xác nhận là người Con chí ái và được Chúa Cha sai đi rao giảng Tin Mừng. Ngài là Đấng Mêsia mà muôn dân hằng mong đợi từ bao ngàn năm. Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha xức dầu, nghĩa là được phong vương, lại được sai đi rao giảng cho những người nghèo khó, đui mù, tù đầy, bị áp bức đúng như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo:” Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”( Lc 4, 18-19 ). Ở đây ta nhận thấy nét đẹp tương phản, Chúa Giêsu được phong vương lại đồng hóa với những người nghèo, đăng quang không kèn, không trống, khác với mọi suy nghĩ của trần gian. Do đó, người tông đồ không thể chọn con đường nào khác ngoài con đường của Chúa Giêsu đã chọn. Đó là con đường khiêm hạ, từ tốn và khó nghèo. Và để đi

MỤC LỤC

được con đường đó, người tông đồ và người Kitô hữu cũng phải bước theo con đường Chúa Giêsu Kitô đã đi qua. 3. Tinh thần của các tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần Trước ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ vẫn còn sống trong vòng u tối, dù rằng các Ngài đã đi theo Chúa Giêsu Kitô, đã được Ngài hướng dẫn, chỉ dậy, vén mở chân lý, nhưng trí các Ngài vẫn bị che mờ vì Chúa Thánh Thần chưa tới. Nhưng, ngày lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa đổ xuống trên đầu các Ngài, biến đổi tâm trí của các Ngài,khiến các Ngài mạnh dạn, kiên cường, mở tung cánh cửa đang khép kín vì sợ người Do Thái, để tới mọi nơi làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh( Cv 2 ). Có thể nói, đây là biến cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: biến cố ấy đã thay đổi tất cả, đã làm đảo lộn tất cả, giúp các tông đồ trở nên những chứng nhân can trường không hề sợ sệt, dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của mình vì

MỤC LỤC

Chúa Thánh Thần đã biến đổi các Ngài trở nên những người hoàn toàn mới với tinh thần mới, cung cách sống mới, suy nghĩ và hành động mới. Các Ngài đã cảm nghiệm lời Chúa sâu xa:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người chết vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). 4. Tinh thần của các tín hữu tiên khởi Được các tông đồ rao giảng, các tín hữu của các cộng đoàn tiên khởi đã thấm nhuần đức tin sâu sắc. Đời sống của họ là dấu chỉ của Tin Mừng, họ chuyên cần nghe các tông đồ rao giảng, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng ( Cv 2, 42 ), họ sống hoà thuận yêu thương nhau ( Cv 2, 44- 46 ) và rao giảng, loan báo Đức Kitô phục sinh trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. 5. Tinh thần của các vị thừa sai Đây là nét rất đặc biệt của các vị thừa sai, các Ngài sẵn sàng đi đến mọi nước mọi nơi với những khó khăn đầy dẫy trước mắt: một

MỤC LỤC

đất nước các vị thừa sai tới có thể là đa chủng tộc, đa văn hóa, đa tôn giáo, ngôn ngữ khác biệt, chính trị của đất nước ấy khó khăn, có chiến tranh vv và vv…Tất cả những khó khăn ấy, vẫn không làm chùn bước các vị thừa sai; có nơi, có nước với những chính sách cấm đạo khắt khe, hà khắc, có khi phải thiệt mạng nhưng các vị thừa sai vẫn kiên cường loan báo Tin Mừng. Công cuộc truyền giáo là việc của Chúa Thánh Thần và có thể nói được là sáng kiến của Chúa Thánh Thần. Mọi sáng kiến truyền giáo đều bắt nguồn từ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Thư mục vụ năm 2003 của Hội Đồng Việt Nam trong số 7 này đã đặt nền tảng căn bản của việc loan báo Tin Mừng dựa vào Chúa Thánh Thần như lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong” Bước qua ngưỡng cửa hy vọng rằng :” Hôm nay công cuộc Phúc Aâm hoá đổi mới cách gặp gỡ con người, thích nghi với sự thay đổi thế hệ: trong khi các thế

MỤC LỤC

hệ: trong khi các thế hệ xa rời Chúa Kitô và xa rời Giáo hội qua đi,- đó là những thế hệ đã chấp nhận kiểu mẫu”tục hóa” về tư duy và về cuộc sống, hoặc đã bị áp đặt cho cái kiểu mẫu đó,-thì Giáo Hội đã luôn hướng về tương lai, không bao giờ ngưng lại, Giáo Hội đã tới gặp các thế hệ mới. Và điều đó rõ ràng là những thế hệ mới này đang phấn khởi đón nhận những gì mà cha mẹ họ đã có vẻ muốn gạt bỏ. Như thế nghĩa là gì ? Nghĩa là Chúa Kitô luôn trẻ mãi. Nghĩa là Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động”( Có thể chấp sự thách đố của cuộc loan báo Tin Mừng chăng ? ). Như vậy, hôm nay đang có một yêu cầu rõ ràng đối với việc tái loan báo Tin Mừng. Con người đang mong đợi lời loan báo Tin Mừng sẽ đồng hành với nó trên con đường lữ hành trần thế. Các thanh thiếu niên chờ đợi thông điệp này để lên đường. Phải chăng sự xuất hiện của hiện tượng này đã không phải là một dấu hiệu của năm hai ngàn đang tới gần ?.

MỤC LỤC

Do đó, để công cuộc truyền giáo có kết quả, người Kitô hữu hay những sứ giả Tin Mừng được Đức Thánh Cha khuyên nhủ ra đi với một nhiệt tình tông đồ mới mà chính Chúa Thánh Thần là tác nhân cốt yếu để người tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng cứu độ. Đồng thời, đừng bao giờ để cho sự thành công hay thất bại khiến người Kitô hữu quên mất ơn gọi tôi tớ của mình, để cho Chúa lo chuyện làm cho lớn lên như Ngài muốn và khi Ngài muốn ( 1 Co 3, 7 ) và bắt chước tông đồ Phaolô biết chịu đựng những sự thiếu thốn cũng như sống trong sự dư giả, trở nên mọi sự đối với mọi người và sẵn sàng chấp nhận mọi sự: no cũng như đói, sung túc cũng như thiếu thốn, Người có thể tuyên xưng một cách bất khuất:” Tôi có sức chịu mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “( Ph 4, 12-13 ).

MỤC LỤC

Bài 6 : MÔI TRƯỜNG MỚILm Giuse Nguyễn hưng Lợi, DCCT Đáp lại lời kêu gọi của Đức Gioan-Phaolô II :”Hãy ra khơi”, TMV 2003 khuyến khích các tín hữu : “Hãy mạnh dạn đến với những môi trường mới” (số 8). MẢNH ĐẤT ĐÃ ĐƯỢC GIEO TRỒNG: Sau nhiều năm mong đợi, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh ra bởi một người nữ do quyền năng của Chúa Thánh Thần và người ấy là Maria đã đản sinh Chúa Giêsu tại Bêlem, thuộc nước Do Thái. Đây là một dân được Chúa tuyển chọn, nhưng khi Chúa Giêsu được sinh ra tại đất nước họ, họ đã không nhận ra Ngài và không đón nhận Ngài như thánh sử Gioan đã viết: “ Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”( Ga 1, 11 ). Nhưng dù nhiều người không tiếp rước, không nhận biết Chúa, Chúa Giêsu đã thực hiện ý định của Thiên Chúa Cha. Ngài đã bắt đầu khai mạc sứ mạng công khai của mình là

MỤC LỤC

giới thiệu nước trời, kêu mời nhân loại: “ Sám hối và tin vào Tin Mừng “( Mc 1, 14-15 ). Ngài kết nạp các môn đệ để các môn đệ cùng đi rao giảng với Ngài. Rõ ràng mảnh đất Do Thái đã được tung vãi Tin Mừng và Phúc âm vẫn thuật lại rằng: “ Chúa Giêsu rảo khắp các làng mạc, đi khắp mọi nơi để loan báo nước Thiên Chúa”. Như thế, các mảnh đất như Giuđêa, Galilêa, PalestinaD, Giêrusalem và nhiều nơi khác nữa đã được Chúa Giêsu và đặc biệt là các môn đệ gieo Tin Mừng, loan báo nước trời sau khi Chúa Giêsu chết, phục sinh, về trời, sai Thánh Thần xuống. Tin Mừng đã tới nhiều nơi trên thế giới: đó là những mảnh đã được đón nhận Lời của Chúa. Những mảnh đất có lúc phì nhiêu, sinh hoa kết quả tươi tốt, nhưng cũng có lúc, có nơi bị khựng lại vì đất cằn cỗi, thiếu điều kiện sinh sôi nẩy nở, con người có lúc như bịt tai lại không chịu lắng nghe và đón nhận Lời rao giảng. Do đó, văn kiện Evangelii nuntiandi, thường nói tới việc” tái loan báo Tin Mừng” vì nó có liiên quan tới thách đố mới mà thế giới hôm nay đang đặt ra cho sứ mạng của Giáo Hội ( Gioan Phaolô II, Bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng “. Đức

MỤC LỤC

Thánh Cha cũng nói Thông điệp Redemptoris missio đề cập tới” một mùa xuân mới của công việc Phúc âm hóa”. Đây là bản văn đề ra một sự tổng hợp hiện tại hóa của những nguyên tắc mang sinh khí lại cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay( Có thể chấp sự thách đố của cuộc tái loan báo Tin Mừng chăng ? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ). Thật có lý khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi phải tái phúc âm vì các mảnh đất, các nơi đã được nghe Tin Mừng đang bị lâm nguy bởi vấn đề tục hóa, văn minh không Kitô và nhiều lý thuyết phản Kitô vv… HÃY RA ĐI… Giáo hội làm công việc Phúc âm hóa, Giáo hội loan báo Chúa Kitô” là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống “, là Trung gian độc nhất giữa Thiên Chúa và con người. Mặc dù những yếu đuối của con người, Giáo Hội tỏ ra không mệt mỏi trong việc rao giảng Phúc Aâm (Đức Gioan-Phalô II, Bước qua ngưỡng cửa của Hy

MỤC LỤC

Vọng). Đức Thánh Cha viết tiếp:” Mỗi ngày Giáo Hội mỗi bắt đầu lại cuộc chiến đấu chống lại tinh thần của thế gian này. Đó không là gì khác ngoài việc chiến đấu để chiếm được tâm hồn của thế giới. Đúng thế, nếu một đàng Phúc Aâm đã hiện diện và công cuộc Phúc Aâm hóa vẫn tiếp tục, thì đàng khác sự mạnh mẽ phản lại Phúc Aâm không bao giờ chịu thua “. Cho nên, Công đồng Vaticanô II đã nói lên nguyên lý khi khẳng định:” Giáo Hội có bản tính thừa sai” (TG 2 ). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng nói:” Giáo Hội sống trong tình trạng thừa sai đời đời “. Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về hoạt động truyền giáo đã viết:” Đến với các dân ngoại, đó là sứ mạng Chúa trao cho Hội Thánh để trở thành” bí tích cứu rỗi muôn dân”( Hội Thánh, 48).Sứ mạng của Hội Thánh thật lớn lao và cấp bách vì đâu đâu cũng cần được loan báo Tin Mừng. Đức Kitô đã chẳng bảo Phêrô rằng” Ra khơi mà thả lướ Chúa Giêíc được loa th MbSv(

MỤC LỤC

Bài 7 : HÀNH HƯƠNGLm Phêrô Trần Đình, Dalat Dẫn nhập Đối với Hội Thánh Việt Nam, năm nay chẳng những là “năm truyền giáo” nhưng còn là “năm thánh”. Một việc đạo đức truyền thống của năm thánh là hành hương. Vì thế, chúng ta tìm hiểu khái quát về “hành hương” để hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó, ngõ hầu việc đạo đức này sẽ đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho chúng ta. Bài này sẽ trình bày 4 điểm :1. Ý nghĩa và mục đích của hành hương;2. Hành hương trong Cựu ước; 3. Hành hương trong Tân Ước;4. Ý nghĩa thần học của hành hương. I. Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÀNH HƯƠNG1. Ý nghĩa của hành hương

MỤC LỤC

Hành hương là một phong tục có từ rất lâu, trước khi Kinh Thánh được biên soạn. Đó là cuộc lữ hành của các tín hữu về một nơi được thánh hiến do một cuộc hiển linh hoặc do hoạt động của một vị giáo chủ. 2. Mục đích của hành hương a/ Các tín hữu tới các nơi được thánh hiến để dâng lời cầu nguyện trong một khung cảnh đặc biệt thích hợp. b/ Và vì là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành hương, nên việc kính viếng nơi thánh thường được chuẩn bị bằng những nghi thức thanh tẩy và kết thúc trong một buổi nhóm họp làm cho các tín hữu ý thức họ thuộc cộng đoàn tôn giáo nào. Như thế, hành hương là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Người trong một khung cảnh phụng tự.

II. HÀNH HƯƠNG TRONG CỰU ƯỚC

MỤC LỤC

1. Hướng về những thánh điện cổ. Trước khi thống nhất các thánh điện nhờ cuộc cải cách của Giosias, tại Giêrusalem có nhiều trung tâm hành hương, nhiều nơi thiêng gắn liền với lịch sử thánh, nơi dân chúng đến để tìm kiếm Thiên Chúa. Lịch sử các tổ phụ chỉ thuật lại một cuộc hành hương duy nhất (St 35, 1-7), nhưng khi trình bày những cuộc thần hiển với Abraham ở Sikem hoặc ở Mămbrê (St 12, 6t ; 18, 1), với Isaac ở Bersabê (St 26, 24), với Giacob ở Bêtel hoặc ở Penuel (St 28, 12 ; 35, 9 ; 32, 31), các nhà tường thuật tìm cách hợp thức hoá việc chấp nhận những thánh điện của dân Canaan, vì chính cha ông cũng đã sử dụng. Họ cắt nghĩa những đặc tính của thánh điện này : có các bàn thờ (St 12, 7t ; 13, 4 ; 26, 25 ; 33, 20), bia (St 28, 18), các cây thiêng (St 12, 6 ; 18, 1 ; 21, 33…).Họ thiết lập các nghi thức mà những người hành hương về sau này sẽ thực hành : cầu khẩn tên Giavê dưới nhiều danh hiệu (St 12, 8 ; 13, 4 ; 21, 33 ; 33, 20),

MỤC LỤC

xức dầu (St 28, 18 ; 35, 14), thanh tẩy (St 35, 2tt), thuế thập phân (St 14, 20 ; 28, 22). Sau đó người ta nhận thấy trong một thời gian rất lâu vẫn còn những buổi họp tôn giáo và rồi những cuộc hành hương đến những thánh điện quan trọng khác nhau như Sikem (Gios 24, 25), Bêtel (1Sm 10, 3 nói rõ những người hành hương ; 1V 12, 29tt ; Am 5, 5 ; 7, 13), Bersabê (Am 5, 5). Chúng ta cũng thấy xuất hiện những thánh điện Ophra (Qa 6, 24) và Sorêa là nơi tưởng nhớ những lần thiên thần của Giavê hiện ra, thánh điện Silô, nơi để hòm bia và cũng là nơi mỗi năm người ta cử hành một ngày lễ của Giavê (Qa 21, 19). Có lẽ Elqana đã cùng với các bà vợ của ông “lên đền” trong dịp lễ này (Is 1, 3). Những câu chuyện cổ còn thuật lại các buổi hội họp tôn giáo ở Mispa (1Sm 7, 5t), ở Gilgal (1Sm 11, 15), ở Gabaon (1V 3, 4), ở Đan (1V 12, 19). Nhưng từ khi Đavít rước hòm bia vào Giêrusalem (2Sm 6) và từ khi Salomon xây cất đền thờ (1V 5-8), những cuộc hành hương về

MỤC LỤC

Giêrusalem giữ một tầm quan trọng vượt bực (1V 12, 27). Từ lâu, luật của giao ước (Xh 23, 14-17) bắt buộc mọi nam công dân phải trình diện trước Giavê mỗi năm ba lần. Luật này phải được thi hành vào các dịp lễ trong các thánh điện trên toàn quốc. 2. Hướng về thánh điện duy nhấtCuộc cải cách của Giosias do Ezekias phác hoạ (2V 18, 4.22 ; 2 Ks 29-31) huỷ bỏ những thánh điện địa phương và chỉ định cử hành lễ Vượt Qua (2V 23 ; 2 Ks 35) và hai ngày lễ khác là Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều ở Giêrusalem (Đnl 16, 1-17). Cuộc cải cách này tìm cách tụ tập dân chúng trước Thiên Chúa của họ và đề phòng họ khỏi lây nhiễm việc tôn thờ ngẫu tượng địa phương.

MỤC LỤC

Sau thời lưu đầy, Đền thờ Giêrusalem từ nay sẽ là thánh điện duy nhất. Chính nơi đây, vào những dịp đại lễ trong năm, khách hành hương từ khắp xứ Palestina và cả đến những kẻ tản mác càng ngày càng đông ở ngoại quốc cũng đều trẩy về. Những Thánh vịnh lên đền (Tv 120-134) diễn tả lời cầu nguyện và tâm tình của khách hành hương : họ trìu mến nhà Chúa và thành thánh; họ tin, thờ lạy và vui mừng được thực hiện sự hiệp thông sâu xa của dân Chúa trong buổi hội họp phụng vụ. Kinh nghiệm này thường hay xảy ra ở Israel, nó đem lại cho hi vọng cánh chung một ý nghĩa đặc biệt : Israel quan niệm “ngày cứu rỗi” theo như những cuộc hành hương, giống cuộc hội họp của dân tộc và sau cùng là của cả lương dân (Is 2, 2-5; 60 ; 66, 18-21 ; Mik 7, 12 ; Zêc 14, 16-19 ; Tb 13, 11).

MỤC LỤC

III. HÀNH HƯƠNG TRONG TÂN ƯỚC 1. Về điểm này Tân Ước không đem lại điều gì mới mẻ. Cũng như dân chúng, vào năm 12 tuổi, Đức Giêsu “lên” đền thờ Giêrusalem với cha mẹ để tuân giữ lề luật (Lc 2, 41t), và trong thời gian thi hành sứ mệnh, Người còn “lên” đó vào những dịp lễ khác nữa (x. Ga 2, 13 ; 5, 1 ; 7, 14 ; 10, 22t ; 12, 12). Chính Thánh Phaolô, hơn 25 năm sau ngày Chúa chịu nạn, vẫn giữ việc hành hương vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv 20, 16 ; 24, 11). 2. Điều mới mẻ là : Đức Giêsu loan báo đền thờ sẽ bị tàn phá (Mc 13, 2). Hơn nữa, với sự sống lại của Đức Giêsu, từ nay trọng tâm việc phụng tự của các tín hữu là chính con người vinh quang của

MỤC LỤC

Người, “Đền thờ mới” và duy nhất (Ga 2, 19-21 ; 4, 21-23). Bởi đó, chính đời sống đức tin của dân Thiên Chúa được diễn tả như cuộc hành hương cánh chung đích thực (2C 5, 6tt ; Dt 13, 14). Cuộc hành hương này là cuộc xuất hành do Đức Giêsu hướng dẫn (Cv 3, 15 ; 5, 31 ; Dt 2, 10). Mục đích của nó chính là những thực tại thiêng liêng : núi Sion, Giêrusalem trên trời, cuộc hội họp của những người con đầu lòng được ghi khắc trên trời (Dt 12, 22 tt) và một đền thờ là chính “Chúa, Thiên Chúa toàn năng… và là Con Chiên” (Kh 21, 22-26). Vì quá gắn chặt với lịch sử nên Hội Thánh không từ chối giá trị những cuộc hành hương đến những nơi ngày xưa Đức Kitô đã ơ,û hoặc đến những nơi mà Người đã hiện ra với các thánh. Hội Thánh coi những cuộc tụ họp tại những nơi ghi dấu hoạt động của Đức Kitô như một dịp để các tín hữu hiệp thông trong đức tin và kinh nguyện. Hơn nữa, nhờ những dịp ấy, Hội Thánh sẽ tìm cách nhắc nhở cho

MỤC LỤC

họ biết họ đang được Chúa hướng dẫn trên đường tiến về Người. IV. Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA HÀNH HƯƠNG Để kết thúc bài này, chúng ta rút ra những ý nghĩa thần học của hành hương từ những gì đã trình bày trên đây. 1/ Ý nghĩa chính yếu của mọi cuộc hành hương là gặp gỡ Thiên Chúa trong đền thờ, đặc biệt là những nơi ghi dấu sự hiện diện đặc biệt của Người. Đành rằng, đền thờ nào cũng thiêng thánh, cũng là nơi ta có thể gặp Chúa, nhưng vẫn có những nơi đặc biệt gợi lên trong chúng ta những tâm tình đạo đức mãnh liệt hơn. Hành hương đến Bêthel, người ta không thể không nghĩ đến việc Giacop đã vật lộn với

MỤC LỤC

Thiên Chúa đến hừng đông, để đời sống đạo của họ sẽ nỗ lực và phấn đấu nhiều hơn. Hành hương đến mộ của hai Thánh Phêrô và Phaolô, lẽ nào không thúc bách chúng ta sống đạo cách anh hùng? Hành hương về linh địa Lavang, làm sao ta không nghĩ đến việc Đức Mẹ bế Chúa Con đến thăm dân đang trốn tránh cuộc bắt đạo ác liệt, để thêm lòng tin tưởng và cậy trông ?. Chính Đức Giêsu phục sinh cũng đã chọn Galilê, nơi của bao kỷ niệm, để “hò hẹn” với các môn đệ thân yêu của Người (x. Mc 16, 7) chứ không phải nơi nào khác. 2/ Dầu vậy, nếu Đức Giêsu đã muốn phá đền thờ bằng gỗ đá để xây dựng một ngôi đền thờ mới và duy nhất (x. Ga 2, 19-21; 4, 21-23), thì hành hương phải là dịp nhắc nhở cho chúng ta biết thờ phượng Chúa cách chân thật : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người

MỤC LỤC

thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem nữa” (Ga 4, 21).Như vậy, hành hương đích thực chính là bước theo Đức Kitô : “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). 3/ Dịp hành hương cũng là cơ hội giúp chúng ta, trong thinh lặng và cầu nguyện, tra vấn ý nghĩa của cuộc đời, để hiểu rằng thân phận con người là lữ thứ : “Ở trên đời, con là thân lữ khách” (Tv 119 (118), 19). Dân Cựu ước đã cảm nghiệm như vậy. Tân Ước đã đón nhận ý tưởng hành hương bằng cách kitô hoá nó : xem cuộc đời kitô hữu như cuộc hành trình đi về quê hương đích thực là Nước Trời (x. Dt 11, 13-16 ; 1Pr 1, 17).

MỤC LỤC

Chỉ có Chúa mới thật sự là đích điểm cuộc đời người kitô hữu, là sự yên nghỉ của chúng ta :“Lạy Chúa, Ngài đã đã dựng nên chúng con hướng về Ngài, tâm hồn chúng con xao xuyến bao lâu chưa được nghỉ yên trong Ngài”. (Thánh Aâu Tinh) “Như nai rừng mong mỏitìm đến suối nước trong,hồn con cũng trông mong được gần Ngài,lạy Chúa.Linh hồn con khao khát Chúa Trời,là Chúa Trời hằng sống.Bao giờ con được đến,vào bệ kiến Tôn Nhan ?(Tv 42, 2-3)4/ Vì thế, hành hương mang đặc tính cánh chung, là cuộc xuất hành do Đức Giêsu hướng dẫn (Cv 3, 15 ; 5, 31; Dt 2, 10), mục đích là những thực tại thiêng liêng : Giêrusalem trên trời (Dt 12, 22tt) và một đền thờ là chính “Chúa, Thiên Chúa toàn năng và là Con Chiên” (Kh 21, 22-26).

MỤC LỤC

Kết luận Hành hương nếu được hiểu đúng đắn sẽ có tác dụng lớn lao trong việc xây dựng đời sống đạo. Người tín hữu hiểu cuộc đời mình là lữ thứ và sẽ biết gắn bó với những giá trị vững bền mối mọt không thể gậm nhấm được, để họ biết tìm Chúa và gắn bó với Chúa nhiều hơn.

MỤC LỤC

Bài 8 : PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚA GIÊSU

Lm Phêrô, Dalạt Trong việc rao giảng Tin Mừng, Hội Thánh “noi gương Chúa Giêsu Kitô”.TMV viết : “Để rao giảng Tin Mừng, Ngài đã không biết mệt mỏi đi đến khắp mọi nơi, tiếp xúc với tất cả mọi hạng người, thực hiện rất nhiều việc lạ lùng để làm chứng Nước Chúa đã đến. Xác định rao giảng Tin mừng theo ý Chúa Cha là lẽ sống (x. Mc 1, 38 ; Lc 4, 43) nên Ngài đã hiến trọn cuộc đời, đến tự nguyện hi sinh cả mạng sống, chấp nhận cái chết tủi nhục trên Thánh Giá để hoàn thành thánh ý Chúa Cha” (s. 3).Phương pháp rao giảng Tin mừng của ĐG, theo TMV, được bao hàm trong 5 điểm sau đây :

1. 1. rao giảng (=nói) ;2. 2. ra đi ;3. 3. tiếp xúc và đối thoại ;4. 4. thực hiện nhiều việc lạ lùng ;

MỤC LỤC

5. 5. hi sinh mạng sống. 1. Đức Giêsu rao giảng Xác định rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4), Đức Giêsu đã rao giảng Lời Thiên Chúa không biết mệt mỏi.Rao giảng là sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho Ngài : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4, 18).Sứ mạng ấy, Đức Giêsu xem như “lương thực” nuôi sống mình : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4, 34). Sứ mạng ấy đối với Đức Giêsu mang tính cấp bách. Ngài không để mình bị trói buộc vào một nơi chốn nào : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. Rồi Ngài đi khắp miền Galilê, rao

MỤC LỤC

giảng trong các hội đường của họ” (Mc 1, 38-39).Nếu Mc viết là Đức Giêsu rao giảng “khắp miền Galilê”, thì Luca viêt là khắp miền “Giuđê” (x. Lc 4, 44), nghĩa là toàn lãnh thổ của người Do thái (chú thích của CGKPV). Tin mừng phải được rao giảng cho mọi người như Ngài đã dạy các môn đệ : “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).Loan báo tin mừng, như TMV viết, chính là lẽ sống của Đức Giêsu : “Này con đến để thi hành thánh ý Cha” (Dt 10, 7). 2. Đức Giêsu đi đến khắp mọi nơiLoan báo Tin mừng không chỉ bằng lời nói nhưng còn phải ra đi nữa.Đức Giêsu là người “di động” để loan báo Tin mừng, đến độ Tin mừng đồng hoá Ngài với “con đường đi” : “Thầy là con đường”. Và chính Ngài cũng đồng hoá sứ mạng loan báo Tin mừng của mình với việc ra đi : “Tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4, 43).

MỤC LỤC

Đặc biệt, Tin Mừng Mc muốn trình bày ĐG như con người lữ hành để loan báo Tin mừng qua 5 điểm : a/ ĐG là con người ta gặp giữa mọi người; b/ ĐG là con người ta gặp trên đường đi; c/ ĐG là người đi trước mọi người; d/ ĐG là người đi qua mà không bao giờ dừng lại; e/ ĐG là con người đi ra khỏi mọi ranh giới (xem bài trước). Chính ĐG đã chọn các môn đệ “để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng” (Mc 3, 14). Rồi đây, “ra đi khắp tứ phương thiên hạ” sẽ là một lệnh truyền của Chúa trước khi về trời (x. Mc 16, 15). Thật vậy, làm sao Tin Mừng sẽ được lắng nghe, nếu không có người được sai đi ? (x. Rm 10, 15). 3. Đức Giêsu gặp gỡ và đối thoại Một chuyến đò đã nên duyên.Không những ra đi để tìm kiếm con người, ĐG còn tìm cách gặp gỡ và đối thoại với mọi

MỤC LỤC

hạng người không phân biệt. Nhờ vậy mà Ngài hiểu họ, “biết những gì có nơi họ” và họ cũng hiểu Ngài và giãi bày tâm sự thầm kín của mình ra.Đức Giêsu đã gặp gỡ và đối thoại với mọi hạng người :• • với ông Nicôđêmô, “bậc thầy

trong dân Israel” (Ga 3, 10), nhờ đó ông hiểu cần phải được tái sinh.

• • với ông Dakêu, trưởng ti quan thuế (Lc 19, 1-10) và ông hứa sẽ thay đổi cuộc đời.

• • với những người thu thuế và tội lỗi ( Mt 9, 10-13) để họ cảm nhận được sự cao cả của ơn giao hoà.

• • với người phụ nữ tội lỗi (Lc 7, 36-50) để giúp cô hiểu được rằng ai “được tha nhiều thì sẽ được yêu mến nhiều”.

• • với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4, 1-30) và hướng lòng bà về một sự “thờ phượng chân thật”

Chính nhờ gặp gỡ và đối thoại mà Ngài mới có thể nói với các môn đệ : “ngước mắt lên mà

MỤC LỤC

xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái” (Ga 4, 35). 4. Đức Giêsu thực hiện nhiều việc lạ lùngĐó là những phép lạ.ĐG làm phép lạ không nhằm mục đích làm loá mắt thiên hạ, như có lần người Do thái muốn được xem thấy những dấu lạ từ trời do Ngài làm (x. Ga 2, 18).ĐG làm phép lạ hay dấu lạ chỉ với mục đích duy nhất là để chứng tỏ Nước Thiên Chúa đã đến và niềm hi vọng vào Đấng Thiên Sai nay đã được ứng nghiệm (x. Mt 11, 5).Ngài hoá nước thành rượu để các môn đệ tin rằng kỷ nguyên cứu độ mới đã bắt đầu. Ngài chữa lành người phung hủi để chứng tỏ ngài là Đấng Mêxia hiện thân. Khi Ngài bảo các người được Gioan sai đến : “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe : người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 5) là Ngài muốn nói kỷ nguyên Đấng

MỤC LỤC

Mêxia đã bắt đầu, không còn cần phải chờ đợi một Đấng nào khác.Những phép lạ ĐG làm là những dấu chỉ để khơi dậy đức tin nơi người ta (x. Ga 2, 11). 5. Đức Giêsu hi sinh mạng sống“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi nó mới sinh nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).Trong cuộc đời rao giảng, có nhưng khi ĐG ăn nói như Đấng có uy quyền khiến cử toạ khâm phục. Có khi Ngài chữa lành nhiều bệnh tật khiến người ta nghĩ rằng Ngài là Đấng Mêxia đã đến trong thế gian. Hoặc có khi Ngài làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê khiến họ muốn tôn Ngài lên làm vua.Tuy nhiên, ĐG quá hiểu rằng tất cả những tình cảm ấy chỉ là những “phấn khởi nhục thể” hay chỉ như cơn gió thoảng qua mà thôi. Quả thật, rồi họ cũng đã đồng tình với nhau để treo Ngài lên thập giá.Tuy nhiên, đó chính là con đường mà người sứ giả tin Mừng phải đi ngang qua : “Phần tôi,

MỤC LỤC

một khi được dương lên cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Kết luậnĐể thi hành sứ mạng Chúa Cha giao, tức “rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”, ĐG đã áp dụng một phương pháp gồm 5 điểm kể trên.Trong năm truyền giáo này, “năm lên đường của cả Hội thánh Việt Nam” (TMV, s. 13), chúng ta hãy “noi gương Chúa Giêsu Kitô” và học hỏi phương pháp truyền giáo của Ngài để hi vọng rằng “trong thiên niên kỷ thứ III này, Hội Thánh sẽ được một mùa gặt bội thu” (nt).

MỤC LỤC

Bài 9 : RAO GIẢNG TIN MỪNG “VỚI MỘT NHIỆT TÌNH TÔNG ĐỒ MỚI”

Lm Hướng Dương, Dalat Nhập đềĐể việc truyền giáo có kết quả, Đức Thánh Cha khuyên nhủ ta “hãy ra đi với một nhiệt tình tông đồ mớí”.“Nhiệt tình tông đồ mới” được TMV giải thích như sau : Đó là tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng đã đi “loan báo tin mừng cho người nghèo…”(Lc 4, 18). Đó là tinh thần của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, mở tung cửa ra đi đến với mọi người, tới mọi chân trời để làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh (x. Cv 2). Đó là tinh thần của các cộng đoàn tín hữu tiên khởi sống hoà thuận thương yêu nhau (x. Cv 2, 44-46) và rao truyền đức tin trong tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

MỤC LỤC

Đó là tinh thần của các vị thừa sai ra đi, đến với mọi dân nước, dù khác biệt vể ngôn ngữ, chủng tộc, văn hoá, tôn giáo…” (s. 7).Một điểm cũng nên ghi nhận là khi nói về “nhiệt tình tông đồ mới”, TMV luôn liên kết với Chúa Thánh Thần.Chúng ta suy nghĩ vắn tắt những điểm nói trên. 1. Tinh thần của Chúa Giêsu TMV trích dẫn Lc 4, 18 : “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”.Chúng ta quá rõ hôm ấy Người trở về Nadarét, quê hương mình, để rao giảng. Cho dầu mọi người đều chăm chú lắng nghe và thán phục những lời lẽ của Người, nhưng họ lại không đón nhận Người, thậm chí còn “lôi Người lên đỉnh núi để xô xuống vực”. Nhưng Người đã “băng qua giữa họ mà đi”.Tinh thần của CG, vị sứ giả tin mừng của Chúa Cha, được bày tỏ trong câu chuyện này :

MỤC LỤC

a/ Tinh thần của mầu nhiệm khổ nạn : người ta “lôi Người lên đỉnh núi để xô xuống vực”.

b/ Tinh thần của mầu nhiệm phục sinh : “Người băng qua giữa họ mà đi”. “Băng qua” có thể gợi lên 3 ý tưởng :

ù Đức Giêsu vẫn tiếp tục công việc của Người và công việc ấy chỉ kết thúc tại Giêrusalem (vẫn là mầu nhiệm khổ nạn). Người loan báo tin mừng không vì khó khăn mà bỏ cuộc.

ù Đức Giêsu tự do, siêu thoát : Người không bị ràng buộc bởi một biến cố hay một sự kiện nào. Người là “con người đi qua mà không bao giờ dừng lại”.

ù “Băng qua” còn có thể gợi lên hình ảnh về mầu nhiệm phục sinh. Chúa Giêsu thoát khỏi bàn tay người đời một cách linh diệu để tiếp tục công cuộc cứu thế của Người.Đó là tinh thần của Chúa Giêsu trong việc loan báo tin mừng. 2. Tinh thần của các tông đồ sau lễ Ngũ Tuần

MỤC LỤC

Đó là :a/ Tinh thần của Chúa Thánh Thần. Các

tông đồ đã được “lưỡi lửa” đậu trên đầu và “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói…”. Chỉ khi lãnh nhận Thánh Thần mà các tông đồ đã ra đi rao giảng về Chúa. Cũng chính Thánh Thần đã đẩy các ngài vào những môi trường xa lạ, mới mẻ và bất ngờ, bởi vì như Thánh Gioan nói : “Gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3, 8).b/ Tinh thần cầu nguyện. Chính các tông đồ đã xác định rõ điều ấy : “Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6, 4).

c/ Tinh thần chịu đau khổ vì đã rao giảng Chúa Giêsu Kitô chết và sống lại, như trường hợp của Thánh Phêrô : khi thì bị ngăm đe, khi thì bị đánh đòn, khi khác bị tống ngục và cuối cùng là bị treo vào khổ giá như Thầy mình. 3. Tinh thần của các kitô hữu tiên khởiTMV trích dẫn Cv 2, 44-46 : “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của

MỤC LỤC

chung…Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến”.Chúng ta thấy cộng đoàn kitô hữu tiên khởi có những nét sau đây :

a/ Hiệp nhất với nhau : đó là kết quả của đức tin.

b/ Chia sẻ của cải vật chất là kết quả của hiệp thông trong đức tin.

c/ Đồng tâm nhất trí khi cầu nguyện : do tác động của Thánh Thần.Có thể tóm tắt về cộng đoàn này bằng chính lời của sách Cv : “họ như thể chỉ có một tấm lòng”. Chính như thế đó mà họ có thể loan báo về Chúa cho mọi người : “Cứ dấu này người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, đó là anh em yêu thương nhau”. 4. Tinh thần của các vị thừa saiTMV chỉ viết cách vắn gọn : “Các vị thừa sai ra đi, đến với mọi đất nước, dù khác biệt về ngôn ngữ, chủng tộc, văn hoá, tôn giáo…”.

MỤC LỤC

Vậy, tinh thần của các thừa sai là tinh thần nào ?

a/ Tinh thần từ bỏ : bỏ quê hương (như tổ phụ Abraham) để đến những nơi xa xăm và xa lạ hoàn toàn về ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo…Nói tắt là về hết mọi phương diện. Không những thế, các ngài đã từ bỏ cả mạng sống mình nữa. Lời của Tertulianô có thể áp dụng hoàn toàn chính xác cho các vị thừa sai : “Máu của các vị tử đạo là hạt giống phát sinh nên những người kitô hữu”. Tinh thần từ bỏ là nét dễ thấy và là nét chung của mọi vị thừa sai.

b/ Lòng yêu mến Chúa Kitô. Động cơ nào khiến các ngài từ bỏ mọi sự, nếu không phải là lòng yêu mến Đức Kitô, như lời của Thánh Phaolô : “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 C 5, 14). Chỉ vì muốn cho người ta biết Chúa Kitô mà các vị thừa sai đã đến đất nước này, kiên trì rao giảng về Chúa “lúc thuận cũng như lúc nghịch” (2 Tm 4, 2).

MỤC LỤC

5. Cùng với Chúa Thánh Thần Khi nói về “nhiệt tình tông đồ mới”, TMV luôn liên kết với Chúa Thánh Thần : “Hãy lên đường với tinh thần tông đồ là sự hăng hái được thúc đẩy bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là lòng nhiệt thành truyền giáo được nung đốt bởi lửa của Chúa Thánh Thần, là những sáng kiến do ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần” (s. 7).Nếu không có Chúa Thánh Thần, Hội Thánh không thể chu toàn sứ mạng loan báo tin mừng được. Tắt một lời, “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính yếu của việc truyền giáo” (Đức Gioan-Phaolô II) bởi chính Người là “ơn soi sáng”, là “sức mạnh” và là “lửa” của chúng ta. Kết luậnTinh thần của Chúa Giêsu, của các tông đồ, của các kitô hữu tiên khởi và của các vị thừa sai sẽ là ánh sáng soi dẫn chúng ta trên bước đường loan báo tin mừng của Chúa, đặc biệt trong “năm thánh truyền giáo” này.