190
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH PHM THTHY ViÖc lµm cho n«ng d©n Khi thu håi ®Êt ë hµ néi LUN ÁN TIN SĨ KINH TẾ HÀ NI - 2014

PHẠM THỊ THỦY - HCMAhcma.vn/Uploads/2014/5/4/pham_thi_thuy_LA.pdf · LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu,

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ THỦY

ViÖc lµm cho n«ng d©n

Khi thu håi ®Êt ë hµ néi

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2014

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ THỦY

ViÖc lµm cho n«ng d©n

Khi thu håi ®Êt ë hµ néi

Chuyên ngành: Kinh tế chính trịMã số: 62 31 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN HẬU

HÀ NỘI-2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình

nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu

trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn

gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận

án chưa từng được ai công bố trong bất cứ công

trình nào.

Tác giả luận án

Phạm Thị Thủy

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC LÀM

CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

7

1.1. Tình hình nghiên cứu về việc làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội 7

1.2. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài việc

làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay

23

Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO

NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT

27

2.1. Lý luận chung về việc làm cho nông dân khi thu hồi đất 27

2.2. Giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất 43

2.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trong việc giải quyết việc làm

cho nông dân khi thu hồi đất

62

Chương 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI THU

HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

69

3.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Nội có liên quan

đến việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất

69

3.2. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân Hà Nội

khi thu hồi đất nông nghiệp

82

3.3. Đánh giá chung về giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi

đất ở Hà Nội trong thời gian qua

104

Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

CHO NÔNG DÂN KHU THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

120

4.1. Dự báo tình hình thu hồi đất và quan điểm giải quyết việc làm cho

nông dân Hà Nội khi thu hồi đất nông nghiệp

120

4.2. Giải pháp giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội 126

KẾT LUẬN 153

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158

PHỤ LỤC 167

DANH MỤC VIẾT TẮT

CNH : Công nghiệp hóa

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ

GQVL : Giải quyết việc làm

KH-CN : Khoa học - Công nghệ

KCN : Khu công nghiệp

TP

TTDVVL

:

:

Thành phố

Trung tâm dịch vụ việc làm

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Mức độ hiểu biết và mức độ thành thạo của người nông

dân với các hoạt động sản xuất nông nghiệp (%)

34

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế của TP Hà Nội 72

Bảng 3.2: Tình hình xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Hà Nội 74

Bảng 3.3: Dân số trung bình ở Hà Nội. 75

Bảng 3.4: Lực lượng lao động của Hà Nội 75

Bảng 3.5: Trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng,

đại học trên địa bàn Hà Nội

77

Bảng 3.6: Giáo viên, học sinh các trường dạy nghề, trung học

chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học

78

Bảng 3.7: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng, tỷ lệ hộ nghèo và

chênh lệch giàu nghèo năm 2008

79

Bảng 3.8: Tình hình thu hồi, bàn giao đất cho các chủ dự án tại Hà

Nội năm 2008- 2011

81

Bảng 3.9: Số giờ làm việc bình quân/ tuần của lao động từ 15 tuổi

trở lên, năm 2011

83

Bảng 3.10: Tỷ trọng lao động chia theo nhóm giờ làm việc trong tuần/

năm của Hà Nội năm 2011

84

Bảng 3.11: Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trong

độ tuổi lao động ở Hà Nội năm 2011.

85

Bảng 3.12: Nghề nghiệp chính của lao động vùng thu hồi đất năm

2008

87

Bảng 3.13: Việc làm của lao động sau khi thu hồi đất năm 2012 88

Bảng 3.14: Thu hồi đất nông nghiệp và nhu cầu lao động GQVL 89

Bảng 3.15: Cơ cấu lao động trong tuổi lao động chia theo thành phần

kinh tế năm 2011 ở Hà Nội.

91

Bảng 3.16: Cách thức tìm việc/ xin việc của những người đang tìm

việc trong tuổi lao động năm 2011 ở Hà Nội.

109

Bảng 3.17: Cơ cấu lao động trong độ tuổi lao động ở Hà Nội năm

2011 chia theo vị thế làm việc.

110

Bảng 3.18: Mục đích sử dụng tiền đền bù của nông dân khi thu hồi đất

nông nghiệp

117

Bảng 3.19: Thực trạng hỗ trợ tìm việc làm 118

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nguồn lực con người có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển bền

vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Vấn đề nguồn lực con người được Đảng ta

hết sức coi trọng, là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới, đặc

biệt từ Đại hội VII đến nay "... Con người Việt Nam có truyền thống yêu

nước, cần cù sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt

nhanh khoa học và công nghệ... đó là nguồn lực quan trọng nhất" [25]. Con

người Việt Nam trong thời kỳ mới đã có những bước chuyển biến đáng kể,

thực sự say mê, sáng tạo trong lao động, học tập, nghiên cứu... góp phần quan

trọng trong việc tạo ra bộ mặt mới của đất nước.

Tuy nhiên để phát huy được những tiềm năng đó thì phải được thể hiện

qua quá trình lao động sản xuất mà một trong những biểu hiện cụ thể của nó

đó chính là việc làm và hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội mà nó tạo ra. Vì vậy,

trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh:

"GQVL là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát

triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu

cầu bức xúc của nhân dân" [26].

Xu hướng chung của quá trình CNH các nước đang phát triển gắn với

quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng giảm tỷ lệ lao động

nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ. Trong đó xu

hướng đô thị hoá, phát triển các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế, văn

hoá mới dẫn đến tình trạng một số đông lao động mất đất sản xuất, mất nghề

phải chuyển sang các công việc khác. Tình hình này đang diễn ra đối với quá

trình CNH, HĐH của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.

Thực tiễn cho thấy, hình thành khu công nghiệp và khu đô thị mới một

mặt là nơi tập trung những ưu thế của nền văn minh công nghiệp, mặt khác là

2

nơi tích tụ những mặt trái hay những vấn nạn của quá trình đô thị hoá bắt

nguồn từ tình trạng mất việc làm của nông dân bị thu hồi đất canh tác nông

nghiệp. GQVL cho nông dân bị thu hồi đất vì mục tiêu đô thị hoá, công

nghiệp hoá là yêu cầu cấp bách, đồng thời tạo tiền đề cần thiết bảo đảm đô thị

hoá, công nghiệp hoá thành công bền vững.

Những năm qua, Thủ đô Hà nội đã đạt được nhiều thành tựu về

GQVL cho người lao động đặc biệt là lao động nông thôn ở các huyện

ngoại thành Hà nội thông qua triển khai hàng loạt các chương trình phát

triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội. Với chủ trương phát

triển kinh tế - xã hội và gắn với vấn đề GQVL của Thành phố Hà Nội đã

có tác động tích cực đến tăng cầu lao động, thúc đẩy thị trường lao động

phát triển, cơ cấu lại lực lượng lao động, góp phần nâng cao chất lượng

lao động, tạo môi trường và nhiều cơ hội cho người nông dân bị thu hồi

đất nông nghiệp tìm được việc làm, ổn định đời sống. Tuy nhiên, kết quả

trên chưa phải là nhiều trong điều kiện sức ép về việc làm của Thành phố,

đặc biệt là đối với nông dân khi thu hồi đất ở các huyện ngoại thành ngày

càng gia tăng dưới tác động của quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá.

Trong quá trình cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp, một bộ phận lao động

đáp ứng được yêu cầu mới về tuyển dụng, nhưng không thể đào tạo lại, bị

mất việc làm; vấn đề chuyển đổi ngành nghề, đào tạo, phục hồi thu nhập

cho số lao động trong diện thu hồi đất đề phục vụ yêu cầu của quá trình

đô thị hoá còn nhiều khó khăn… càng làm cho vấn đề GQVL ngày càng là

vấn đề bức xúc.

Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề "Việc làm cho nông dân khi thu hồi

đất ở Hà Nội" được tác giả chọn làm đề tài luận án tiến sĩ.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông

3

dân khi thu hồi đất ở TP.Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được và những mặt

còn hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, từ đó đề xuất các quan điểm, phương

hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm, bảo đảm ổn định đời

sống lâu dài cho nông dân khi thu hồi đất ở TP. Hà Nội.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và giải quyết

việc làm cho nông dân khi thu hồi đất.

- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về giải

quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất và rút ra bài học kinh nghiệm đối

với Hà Nội.

- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho

nông dân khi thu hồi đất ở TP.Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được và

những mặt còn hạn chế, yếu kém trong GQVL cho nông dân khi thu hồi đất ở

Thành Phố Hà Nội trong thời gian qua.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp GQVL nhằm bảo đảm ổn định đời

sống lâu dài cho nông dân khi thu hồi đất ở TP. Hà Nội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là: việc làm cho nông dân khi thu

hồi đất dưới góc độ kinh tế chính trị.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu là việc làm và giải quyết việc

làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội từ năm 2005 trở lại đây.

- Địa điểm nghiên cứu, khảo sát: Các huyện ngoại thành Hà Nội,

đặc biệt tác giả đi khảo sát thực tế tại các quận, huyện Quốc Oai, Từ

Liêm, Hà Đông, Đan Phượng là những huyện có tỷ lệ thu hồi đất nông

nghiệp cao nhất, có xã diện tích đất nông nghiệp thu hồi lên đến 80% tổng

diện tích đất nông nghiệp hiện có và các huyện phía Bắc và Tây Bắc của

4

Thủ đô: Gia Lâm, Ba Vì là những huyện có tốc độ đô thị hoá thấp hơn và

diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ít hơn nhằm tìm ra đặc điểm chung về

việc làm của nông dân khi thu hồi đất ở hai khu vực. Từ đó cho thấy số

lao động nông nghiệp bị mất việc làm phải chuyển đổi nghề nghiệp rất lớn

và khó có khả năng tìm được việc làm mới để bảo đảm thu nhập. Vì vậy,

nếu không giải quyết được vấn đề này sẽ gây ra rất nhiều vấn đề xã hội

bức xúc nảy sinh, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của Thủ đô

và đất nước.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về GQVL cho người dân khi bị thu

hồi đất. Ngoài ra, luận án còn kế thừa và phát triển những quan điểm lý luận

của các nhà khoa học trong nước và thế giới về những nội dung liên quan.

4.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài

- Sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật

lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học để phân tích các vấn đề lý luận

và thực tiễn về việc làm cho nông dân khi thu hồi đất;

- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, lô gíc kết hợp với lịch

sử, tổng kết, đánh giá quá trình giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi

đất ở Hà Nội;

- Sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra và phỏng vấn

chuyên sâu ở một số hộ nông dân tại một số điểm mang tính đại diện có đất

nông nghiệp bị thu hồi thuộc các huyện/quận: Hà Đông (Phường Hà Cầu),

Ba Vì (Xã Tòng Bạt), Quốc Oai (Xã Đồng Quang), Từ Liêm (Xã Mỹ

Đình), Gia Lâm (Xã Yên Thường), Đan Phượng (Xã Tân Hội) để làm kết

quả nghiên cứu của mình. Về đối tượng, mục đích, nội dung điều tra đã

5

được tác giả trình bày trong phụ lục 2 của luận án. Tại mỗi xã, tác giả điều

tra 100 hộ nông dân, tuy nhiên, trong quá trình sử lý số liệu, có nhiều phiếu

không được sử dụng do các hộ nông dân không đưa ra phương án trả lời

đầy đủ. Do các phiếu điều tra không được "làm sạch" trước khi thu hồi nên

tác giả không sử dụng mô hình SPSS để xử lý số liệu mà tác giả chỉ sử

dụng phương pháp thống kê, phân tích số liệu. Khi tác giả sử lý số liệu

bằng phương pháp thống kê, tuỳ từng câu hỏi khác nhau sẽ có số mẫu trả

lời khác nhau. Tuy vậy, tác giả cho rằng với phạm vi và đối tượng nghiên

cứu của mình, các số liệu mẫu điều tra của tác giả mang tính đại diện và độ

tin cậy cho kết quả nghiên cứu.

- Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu

trước đây và cập nhật những thông tin mới về chủ đề nghiên cứu.

5. Đóng góp mới của luận án

Thứ nhất, luận án làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm cho

nông dân khi thu hồi đất.

Thứ hai, trên cơ sở phân tích, đánh giá quá trình GQVL cho nông

dân khi thu hồi đất ở Hà Nội qua các số liệu báo cáo của các cơ quan có

thẩm quyền và thực tiễn điều tra bằng bảng hỏi của tác giả, tác giả đưa ra

những nhận định khách quan về những thành tựu, hạn chế và nguyên

nhân của các hạn chế trong quá trình GQVL cho nông dân khi thu hồi

đất ở Hà Nội.

Thứ ba, tác giả đi sâu điều tra thực trạng việc làm và GQVL ở một số

huyện mang tính đại diện ở Hà Nội để từ đó có để tác giả đưa ra quan

điểm, đề xuất các nhóm giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công

tác GQVL cho nông dân khi thu hồi đất, đạt được các chỉ tiêu mà Thành

phố đã đề ra trong kế hoạch GQVL và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

của Thủ đô.

6

6. Ý nghĩa của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về việc làm,

GQVL nói chung và ở thủ đô Hà Nội nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên

cứu, giảng dạy. Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể

gợi mở cho các cơ quan quản lý có những điều chỉnh phù hợp để GQVL cho

người dân khi thu hồi đất ở các địa phương hiện nay.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ

lục, nội dung của luận án gồm 4 chương và 10 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC LÀM

CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI

THU HỒI ĐẤT

1.1.1. Khái quát một số nghiên cứu ở nước ngoài về việc làm

1.1.1.1. Các nhà kinh điển Mác - Lênin

- Khi nghiên cứu về quá trình sản xuất Tư bản chủ nghĩa, Các Mác phát

hiện ra các điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá; các thuộc tính đặc

biệt của hàng hoá sức lao động làm căn cứ luận giải nguồn gốc giá trị thặng

dư. Sự biểu hiện sản xuất giá trị thặng dư qua các giai đoạn phát triển của

CNTB. Trong đó hệ thống giản đơn được khái quát là cách mạng về tổ chức

lao động, hệ thống công trường thủ công là cuộc cách mạng về sức lao động.

Trên cơ sở đó luận giải bản chất của tiền công là giá cả hay giá trị sức lao

động được biểu hiện ra bên ngoài là giá cả hay giá trị của lao động.

Theo Các Mác thì khi ứng dụng các thành tựu KH - CN hiện đại

thường dẫn đến tăng kết cấu hữu cơ tư bản và tăng năng suất lao động, mà:

Sự tăng năng suất lao động thể hiện ra ở việc giảm bớt khối lượng lao

động sống so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt

động, hay là thể hiện ra ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan của quá

trình lao động so với nhân tố khách quan của quá trình đó [12, tr.877].

Vì vậy, phần bất biến của tư bản vận động cùng chiều với sự tăng lên

của tích luỹ tư bản, còn bộ phận tư bản khả biến thì nói chung sẽ vận động

ngược chiều với sự tăng lên của tích luỹ.

Có thể nói các quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về lao động,

việc làm là cơ sở lý luận cốt lõi để xem xét, vận dụng trong điều kiện phát triển

nền kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

8

- Theo V.I. Lênin, thì sự phát triển kinh tế hàng hoá khiến một bộ

phận ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là nhân khẩu

công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống,

V.I.Lênin nhắc lại luận điểm của C.Mác:

Do bản chất của nó phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không

ngừng giảm bớt nhân khẩu nông nghiệp so với nhân khẩu phi nông

nghiệp, bởi vì trong công nghiệp (theo nghĩa hẹp của danh từ này)

việc tư bản bất biến tăng lên làm giảm tư bản khả biến thường liên

quan với sự tăng thêm tuyệt đối (dù là giảm bớt tương đối) của tư bản

khả biến, còn trong nông nghiệp thì ngược lại, tư bản khả biến cần

thiết để kinh doanh một khoảnh đất nhất định lại giảm bớt một cách

tuyệt đối; do đó tư bản khả biến chỉ có thể tăng thêm khi có những

đất mới được canh tác, mà điều này lại đòi hỏi rằng nhân khẩu phi

nông nghiệp phải tăng lên nhiều hơn nữa [34, tr.25].

Đặc biệt Lênin phát triển luận điểm của Mác về sự phát triển của máy

móc thay thế sức lao động và chỉ ra cuộc đấu tranh giữa công nhân và máy

móc, với tư cách là máy móc, tư liệu lao động đã trở thành những kẻ cạnh

tranh với bản thân người công nhân. Một bộ phận của giai cấp công nhân mà

máy móc đã biến thành dư thừa do sự thay đổi trong kết cấu hữu cơ tư bản

(C/V), trong đó C tăng lên tuyệt đối và tương đối, V tăng lên tuyệt đối và

giảm đi tương đối. V giảm làm cho cung về sức lao động lớn hơn cầu về sức

lao động trên thị trường và giá cả sức lao động giảm xuống. Các Mác cho

rằng tư liệu lao động đã giết chết người lao động. Từ đó vận dụng trong điều

kiện CNTB độc quyền Lênin đã đưa ra luận điểm CNTB thối nát khi nói về

sự kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật và đồng thời chỉ ra CNTB không thể và

không bao giờ giải quyết triệt để nạn thất nghiệp để duy trì một sức ép với

giai cấp công nhân…

9

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu khác

- Mô hình tạo việc làm theo kiểu cổ điển: tự do cạnh tranh trên thị

trường - mức lương linh hoạt và sự toàn dụng lao động

Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, sự thoả dụng của của cá nhân

người lao động và tối đa hoá lợi nhuận của người sản xuất khi tham gia vào

thị trường lao động phải tuân thủ theo quy luật của thị trường. Mức lương và

việc làm do luật cung cầu lao động quyết định. Với mục tiêu tối đa hoá lợi

nhuận, cá nhà sản xuất sẽ thuê nhiều lao động hơn chừng nào mà giá trị sản

phẩm cận biên một người lao động sản xuất ra cao hơn chi phí mà anh ta bỏ ra

thuê lao động (hay là mức tiền lương). Về mặt cung lao động, các cá nhân lao

động tìm cách có chế độ thoả dụng tối đa. Họ sẽ phân chia thời gian cho nghỉ

ngơi và làm việc theo chế độ thoả dụng cận biên.Việc tăng lương cũng đồng

nghĩa với tăng giá cho sự nghỉ ngơi. Do đó, mức lương càng cao bao nhiêu thì

mức cung lao động càng cao bấy nhiêu. Trong trường hợp cung lao động bằng

cầu lao động có nghĩa là mức lương cân bằng, không có thất nghiệp - tức toàn

dụng lao động, lúc này bất kỳ người lao động nào có nhu cầu việc làm đều

tìm được việc làm. Nhưng thị trường lao động lại luôn biến động không

ngừng do đó nó làm cho cung cầu lao động luôn luôn biến đổi theo. Nếu cung

lao động lớn hơn cầu lao động, khi đó người lao động sẽ phải cạnh tranh với

nhau để bán sức lao động và có việc làm. Điều này sẽ làm giảm giá trị sức lao

động, do đó làm cho mức lương giảm xuống. Ngược lại, khi cầu lớn hơn cung

về lao động lúc này các chủ sử dụng lao động sẽ phải cạnh tranh với nhau để

thuê lao động, do vậy nó lại làm cho giá trị sức lao động tăng lên và kéo theo

là làm cho mức lương cung tăng theo. Do đó, tự do cạnh tranh mua bán sức

lao động trên thị trường, các mức lương linh hoạt được hình thành như có một

sức mạnh của bàn tay vô hình, thất nghiệp không xảy ra, mọi người có khả

năng lao động và có nhu cầu làm việc thì đều được đáp ứng về việc làm.

- Lý luận của J.M. Keynes đã tập trung xem xét mối quan hệ chặt chẽ

10

giữa sản lượng - thu nhập; tiêu dùng - tiết kiệm và đầu tư. Xét từ góc độ tâm

lý chủ quan của người tiêu dùng trong xã hội ông cho rằng tốc độ tăng tiêu

dùng luôn nhỏ hơn tốc độ tăng thu nhập và tiết kiệm. Điều này đã làm cho

cầu tiêu dùng thực tế giảm xuống so với thu nhập, dẫn đến một bộ phận

hàng hoá không bán được. Đây là nguyên nhân gây ra khó khăn, thất nghiệp

tác động trực tiếp đến sản xuất của chu kỳ sau, do đó việc làm giảm và tình

trạng thất nghiệp tăng. Từ đó ông rút ra kết luận: Để tăng việc làm, giảm thất

nghiệp phải tăng cầu trong nền kinh tế gồm cả cầu tiêu dùng và cầu đầu tư.

Giải pháp mà ông đề xuất: Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng để tăng

cầu thông qua các khoản chi tiêu Chính phủ hoặc thông qua chính sách đầu

tư. Keynes còn sử dụng các biện pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá

đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu

tư và bù đắp các khoản chi tiêu của Chính phủ. Ông chủ trương tăng tổng

cầu của nền kinh tế bằng mọi cách, kể cả khuyến khích đầu tư vào các hoạt

động ăn bám nền kinh tế như: sản xuất vũ khí đạn dược, chạy đua vũ trang,

quân sự hoá nền kinh tế. Ông còn cho rằng: chừng nào còn có thất nghiệp và

trì trệ trong nền kinh tế thì mức cung các loại hàng hoá và dịch vụ tự động

đáp ứng mức cầu lên cao này và tạo điều kiện để cải thiện thu nhập cũng

như tạo thêm việc làm [54].

Tuy nhiên lý thuyết này của Keynes đưa ra chỉ đúng với các nước phát

triển còn đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì có thể sẽ

gặp một số vấn đề khi áp dụng nó vì:

+ Do sự hạn chế về mặt cơ cấu và thể chế đối với khâu cung ứng,

tình trạng thiếu vốn, nguyên liệu cũng như nguồn nhân lực có trình độ

chuyên môn và tay nghề cao, các loại thị trường như tài chính, sức lao

động… về tổ chức và hoạt động chưa thực sự nhuần nhuyễn và hiệu quả.

Đã đi ngược lại quan niệm cho rằng tăng cầu của Chính phủ và tư nhân sẽ

làm tăng mức công ăn việc làm và giảm thất nghiệp.

11

+ Do tác động của quá trình đô thị hoá đang kéo theo lực lượng lao

động rất lớn từ khu vực nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm, vì nơi

này có điều kiện làm việc và đời sống cao hơn. Như vậy, việc tạo công ăn

việc làm cho khu vực hiện đại ở thành thị bằng cách tăng mức tổng cầu có thể

sẽ thu hút thêm nhiều người di cư từ nông thôn ra thành thị để kiếm việc làm.

Điều này sẽ làm cho tình trạng thất nghiệp ở khu vực thành thị gia tăng, như

vậy theo lý thuyết của Keynes thì với những chính sách đưa ra để nhằm tăng

sản lượng và tạo thêm công ăn việc làm thực ra lại có thể làm giảm toàn bộ

mức công ăn việc làm và sản lượng quốc dân.

+ Trong một số trường hợp nếu tăng trưởng việc làm có thể lại dẫn đến

tình trạng làm chậm tăng trưởng sản lượng, thậm chí lại làm giảm sản lượng.

- Lý thuyết về tạo việc làm bằng chuyển giao lao động giữa hai khu

vực của nền kinh tế [46].

Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là chuyển số lao động dư thừa từ

khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp hiện đại do hệ thống tư bản

nước ngoài đầu tư vào các nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho

nền kinh tế phát triển. Bởi vì trong khu vực nông nghiệp, đất đai chật hẹp, lao

động lại quá dư thừa. Ngoài số lao động cần đủ cho sản xuất nông nghiệp, còn

có lao động thừa làm các ngành nghề lặt vặt, buôn bán nhỏ, phục vụ trong gia

đình và lao động phụ nữ. Số lao động dôi dư này không có công ăn việc làm.

Nói cách khác, họ không có tiền lương và thu nhập. Vì vậy, việc di chuyển

lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp có hai tác dụng.

Một là, chuyển bớt lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, chỉ để lại lượng lao

động đủ để tạo ra sản lượng cố định. Từ đó nâng cao sản lượng theo đầu

người đồng thời tạo việc làm cho số lao động dôi dư trong nông nghiệp. Mặt

khác, việc di chuyển này sẽ làm tăng lợi nhuận trong lĩnh vực công nghiệp,

tạo điều kiện nâng cao sức tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung.

- Lý thuyết của Harry Toshima [46]

12

Theo Harry Toshima, lý thuyết của Athur Lewis không có ý nghĩa

thực tế với tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp ở các nước châu Á

gió mùa. Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động lúc đỉnh cao

của thời vụ và chỉ dư thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho

rằng cần giữ lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những

tháng nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi... Đồng

thời, sử dụng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất

công nghiệp cần nhiều lao động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm

đầy đủ cho mọi thành viên gia đình nông dân trong những tháng nhàn rỗi sẽ

nâng cao mức thu nhập hàng năm của họ và sẽ mở rộng được thị trường

trong nước cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, lực lượng lao

động sẽ được sử dụng hết.

- Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cư nông thôn - thành thị (Harris -

Todaro) [46]

Do quá trình đô thị hoá diễn ra đồng thời với quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá. Chính vì vậy, việc dân cư ở khu vực nông thôn, ngoại thành

di chuyển vào thành thị là một xu hướng có tính quy luật trong quá trình phát

triển của tất cả các nước, đặc biệt là đối với các nước phát triển trong giai

đoạn hiện nay. Theo mô hình này thì người di cư sẽ xem xét các cơ hội khác

nhau trong thị trường lao động dựa vào tối đa hoá lợi ích dự kiến có được từ

việc di cư bằng cách so sánh mức thu nhập dự kiến có được trong một khoảng

thời gian nhất định ở thành thị với mức thu nhập trung bình đang có ở nông

thôn. Lúc này nếu thu nhập dự kiến (thu nhập kỳ vọng) cao hơn thu nhập thực

tế hiện có thì họ sẽ quyết định di cư. Thu nhập dự kiến thu được của lao động

di chuyển tuỳ thuộc vào khả năng có thể kiếm được việc làm ở thành thị, mức

lương ở đó cũng như độ tuổi của người di cư. Lúc này Todaro đã đề xuất với

Chính phủ giảm mức lương ở thành thị, xoá bỏ những ảnh hưởng đến giá cả

13

của các nhân tố sản xuất, tăng việc làm ở nông thôn, áp dụng công nghệ và có

chính sách phù hợp sẽ là biện pháp tạo thêm việc làm.

Khi áp dụng mô hình này vào các nước đang phát triển cho thấy bên

cạnh khu vực kinh tế hiện đại ở thành thị (khu vực chính quy) còn có một khu

vực kinh tế thu hút một số ngành nghề như: thợ thủ công, dịch vụ sửa chữa

nhỏ, buôn bán nhỏ tự tạo việc làm hoặc kinh doanh có thuê nhân công và thoả

thuận ngoài hệ thống luật pháp chính thức với giá nhân công rẻ. Đây chính là

khu vực hiện nay đang thu hút một lực lượng lao động rất lớn của những nước

này vào làm việc - khu vực phi chính thức. Thực tế cho thấy, việc phát triển

khu vực kinh tế phi chính thức đã, đang và sẽ có những tác dụng rất to lớn

trong việc GQVL, tăng thu nhập, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị. Đồng

thời phải không ngừng đầu tư phát triển cho khu vực nông thôn để nâng cao

mức sống của họ, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, giảm bớt khoảng cách

về thu nhập giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn cũng như phát triển

nhiều mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với khu vực nông thôn để tạo

thêm nhiều việc làm ở khu vực này.

- Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp, khuyến khích giá, tạo việc

làm [46]:

Mô hình này chỉ ra rằng để sản xuất ra một sản lượng mong muốn, các

nhà sản xuất sẽ phải đứng trước những lựa chọn lớn: một là để mua các yếu tố

của quá trình sản xuất như lao động, nguyên vật liệu… thì có nhiều mức giá

khác nhau, do đó phải lựa chọn mức giá nào cho phù hợp để có chi phí sản

xuất là thấp nhất. Hai là để đạt được lợi nhuận cao nhất các nhà sản xuất sẽ

phải lựa chọn loại công nghệ phù hợp, đó có thể là công nghệ hiện đại thì sẽ

phải chi nhiều vốn hay công nghệ ở một mức độ để sử dụng nhiều lao động.

Nếu công nghệ hiện đại, tốn nhiều vốn so với giá lao động thì nhà sản xuất sẽ

lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động. Ngược lại, nếu giá lao động

tương đối cao thì các hãng sẽ lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều vốn.

14

Việc áp dụng mô hình này ở các nước đang phát triển sẽ tạo được

nhiều việc làm cho người lao động vì: ở các nước này lực lượng lao động

dồi dào, nhưng lại thiếu vốn vì vậy công nghệ mà họ thường sử dụng là

công nghệ sử dụng nhiều lao động để nhằm tận dụng tối đa lợi thế này.

Chính vì vậy, Chính phủ ở các quốc gia này cần đưa ra những chính sách

nhằm điều chỉnh lại giá cả, thông qua việc hạ thấp giá trị tương đối của sức

lao động sẽ góp phần không chỉ tạo thêm nhiều việc làm hơn mà còn sử

dụng tốt hơn các nguồn vốn khan hiếm nhờ áp dụng công nghệ phù hợp.

- EF. Schumacher: Tác giả đã khái quát toàn bộ lịch sử với nhiều bài

học kinh nghiệm để nhấn mạnh vấn đề con người, yếu tố chủ thể đã cung cấp

một nguồn lực nền tảng chứ không phải thiên nhiên và đi đến kết luận: nhân

tố then chốt của toàn bộ sự phát triển kinh tế là kết quả tư duy trí óc người.

Những phân tích khoa học của EF. Schumacher cho rằng không phải con

người chung chung mà trí óc của họ, phần tư duy sáng tạo của trí óc ấy mới là

nhân tố cội nguồn then chốt của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó

được chứng minh với các nguồn dẫn liệu từ tác động của cuộc cách mạng

khoa học công nghệ hiện đại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều

quốc gia [52].

1.1.2. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nước về việc

làm cho nông dân khi thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và

khu đô thị mới

1.1.2.1. Sách

- "Thu nhập, đời sống, VL của người có đất bị thu hồi để xây dựng các

khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình

công cộng phục vụ lợi ích Quốc gia" của tác giả Lê Du Phong làm chủ biên

(2007). Tác giả đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học và cơ sở thực tiễn quan

trọng cho các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trong quá trình thực

15

hiện các mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Những phân tích

cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy tính tất yếu của quá trình thu hồi đất đai

để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước cùng những phát sinh trong quá

trình này. Trên cơ sở những phân tích này cần xây dựng các giải pháp

then chốt để hạn chế các vấn đề phát sinh bảo đảm quyền lợi của người

dân cũng như phục vụ tốt cho lợi ích quốc gia. Nhìn chung, tác giả đã

cung cấp được nhiều tư liệu cần thiết cả về lý luận và thực tiễn để luận

giải cho các vấn đề liên quan đến quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng

đất ở Việt Nam hiện nay [45].

- "Đào tạo nguồn nhân lực ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong

quá trình đô thị hoá" (2005) - PGS, TS. Nguyễn Tiệp, trong cuốn sách này

tác giả đã đi vào phân tích về thực trạng nguồn nhân lực ở các huyện ngoại

thành Hà Nội, phân tích vai trò của đào tạo nguồn nhân lực; thực trạng đào

tạo nguồn nhân lực ở các huyện ngoại thành Hà Nội; từ đó tác giả đưa ra

các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ở các huyện

ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, phát triển kinh tế của TP Hà

Nội: quy hoạch hệ thống giáo dục quốc dân, nâng cao chất lượng giáo viên,

sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phát triển giáo dục, đào tạo nghề cho

lao động nông thôn... [62].

- "Vấn đề hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội – Thực trạng và giải

pháp" (2009) do tác giả Nguyễn Chí Mỳ và Hoàng Xuân Nghĩa đồng chủ

biên. Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết của nhiều tác giả khác nhau cùng

đề cập đến vấn đề bảo đảm lợi ích cho Nhà nước, doanh nghiệp, người nông

dân sau khi thu hồi đất và các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề nảy sinh hậu

giải phóng mặt bằng ở Hà Nội và một số địa phương khác trong cả nước [38].

- "Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị

hoá " (2010) - cuốn sách do tác giả Nguyễn Thị Thơm và Phí Thị Hằng làm

16

đồng chủ biên. Cuốn sách đã được các tác giả đã bàn về những vấn đề nảy

sinh do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp mọc lên khắp nơi đã làm cho đất đai sản xuất nông

nghiệp bị thu hẹp, người nông dân mất tư liệu sản xuất chủ yếu đồng nghĩa

với việc mất hoặc thiếu VL, gây nên nhiều vấn đề xã hội khác nảy sinh. Từ

việc chỉ ra thực trạng của Hải Dương - một tỉnh trọng điểm vùng đồng bằng

sông Hồng, nhóm tác giả đã đưa ra một số dự báo và giải pháp trong việc

GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá: Nâng cao hiệu

quả quy hoạch, mở rộng cầu lao động, nâng cao chất lượng cung lao động,

phát triển thị trường lao động và giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách đối

với lao động nông nghiệp bị thu hồi đất [68].

- "Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010" (2010) do tác giả Trần Thị

Minh Ngọc làm chủ biên. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những thuận lợi,

khó khăn cũng như những thành tựu, hạn chế trong quá trình GQVL cho

nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, từ đó nhóm tác giả đề ra phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm

thực hiện có hiệu quả vấn đề GQVL cho nông dân: điều chỉnh cơ cấu đầu

tư, phát triển các ngành kinh tế nhằm GQVL; đồng thời tác giả cũng đưa ra

các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cho người lao động để tăng cơ hội

tìm kiếm được việc làm và các giải pháp hoàn thiện các chính sách của Nhà

nước về VL cho người lao động [41].

- "Giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - hệ luỵ và phương hướng giải quyết"

của nhóm tác giả Nguyễn Chí Mỳ và các đồng tác giả. Cuốn sách đã đề cập

đến các vấn đề chung về giải phóng mặt bằng: đô thị hoá, giải phóng mặt

bằng và hậu giải phóng mặt bằng. Đồng thời cuốn sách cũng chỉ ra các

nguyên tắc chung liên quan tới công tác giải phóng mặt bằng và xử lý vấn đề

17

hậu giải phóng mặt bằng đặc biệt là vấn đề GQVL. Sau khi phân tích thực

trạng và các vấn đề nảy sinh trong công tác hậu giải phóng mặt bằng, nhóm

tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải phóng

mặt bằng và xử lý tốt các vấn đề phát sinh sau khi giải phóng mặt bằng [39].

- "Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông thôn vùng đồng

bằng Bắc bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp (Qua

khảo sát các tinh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình)" (2010) - cuốn sách do

tác giả Đỗ Đức Quân làm chủ biên. Qua khảo sát một số vùng nông thôn đồng

bằng Bắc Bộ, các tác giả đã chi ra thực trạng nông thôn đồng bằng trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, chỉ ra tình trạng

chung trong nông thôn hiện nay đó là hiện tượng thu hẹp diện tích đất sản

xuất nông nghiệp, từ đó là cho một bộ phận dân cư nông thôn mất việc làm,

chất lượng môi trường bị suy giảm, mất cân đối và thiếu hụt các nguồn lực

dành cho phát triển nông thôn... Vì vậy, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải

pháp nhóm giải pháp về kinh tế, nhóm giải pháp về xã hội và các giải pháp

khác nhằm khắc phục các hạn chế trên [47].

1.1.2.2. Đề tài nghiên cứu khoa học

- "Báo cáo nghiên cứu về việc làm nông thôn tại Việt Nam”, do Văn

Phòng Hỗ trợ Tư vấn Phản biện và Giám định Xã hội (OSEC) trực thuộc Liên

hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) thực hiện dưới sự hỗ

trợ về tài chính và kỹ thuật của Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt

Nam (ILO) thông qua Cục Việc làm thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã

hội (MOLISA). Báo cáo gồm 2 phần chính: Phần I được xây dựng dựa trên

việc phân tích kết quả điều tra lao động việc làm Việt Nam năm 2009 (LFS

2009) của Tổng cục Thống kê (GSO). Ngoài ra, báo cáo cũng dành một phần

nội dung đáng kể để đánh giá tổng quan về hệ thống chính sách có liên quan.

Phần II của báo cáo là kết quả khảo sát tại 9 tỉnh gồm: Yên Bái, Hà Nam,

18

Vĩnh Phúc, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Dương, Vĩnh Long và

Đồng Tháp nhằm tiếp tục nghiên cứu, đánh giá về các vấn đề có liên quan tới

tình hình lao động, việc làm tại nông thôn Việt Nam để bổ sung cho các kết

quả phân tích từ số liệu điều tra LFS 2009 [74].

- Báo cáo: "Tác động của công nghiệp hoá và đô thị hoá đến sinh kế

nông dân Việt Nam: trường hợp một làng ven đô Hà Nội" do TS Nguyễn Văn

Sửu, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tập

trung phân tích về các tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế

của người nông dân. Tuy chỉ nghiên cứu một trường hợp điển hình tại một

làng ven đô Hà Nội, song báo cáo cũng chỉ ra nhiều đặc trưng cũng như

những tác động phổ biến của việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế người

dân. Thực tế đã có những đổi thay rõ rệt trong thu nhập, cơ cấu ngành nghề

của nhiều hộ gia đình. Tuy nhiên, chiều hướng của sự chuyển dịch không đáp

ứng được sự kì vọng của các cơ quan quản lý cũng như các hộ gia đình.

Những giảm sút thấy rõ của thu nhập từ ngành nông nghiệp, và những hướng

sinh kế mới chuyển đổi lại thiếu bền vững là những hệ quả được nhận diện rõ

rệt nhất. Thêm vào đó, những hệ quả xã hội khác từ việc thu hồi đất nông

nghiệp của các hộ gia đình cũng diễn ra khá phức tạp như sự bất ổn, rủi ro và

bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo… gia tăng [10].

- Đề tài: "Xây dựng một số mô hình tạo việc làm đối với lao động bị

mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất" năm 2008 của

tác giả Nguyễn Tiệp, trường Đại học Lao động Xã hội cũng là một báo cáo

đưa ra nhiều vấn đề nổi cộm trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng

đất ở nước ta hiện nay. Cũng như các báo cáo khác, thông qua quá trình

thống kê, phân tích số liệu từ các cuộc điều tra, tác giả đã chỉ ra những khó

khăn trong quá trình giải quyết vấn đề việc làm cho lao động tại các hộ gia

đình bị thu hồi đất nông nghiệp như: chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do

19

trình độ thấp, ngoài độ tuổi tuyển dụng của doanh nghiệp, sự ỷ lại của

người lao động vào chính sách hỗ trợ của nhà nước; các hỗ trợ của nhà

nước chưa thực sự hiệu quả… Ngoài việc phân tích những khó khăn của

người dân tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tác giả cũng đưa

ra và phân tích một số giải pháp tạo việc làm hiệu quả ở một số địa phương

hiện nay điển hình như đào tạo nghề, thu hút lao động làm việc tại các

KCN/KCX; triển khai các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng

mạng lưới đào tạo nghề tại địa phương vùng chuyển đổi mục đích sử dụng

đất gắn với GQVL cho người lao động…[64]

- Báo cáo của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

"Đánh giá thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông

nghiệp và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất"

(năm 2012) thông qua ba địa bàn được lựa chọn nghiên cứu là Hải Dương,

Nam Định và Nghệ An. Báo cáo đi sâu phân tích các vấn đề về đời sống,

việc làm cũng như hiệu quả của các hỗ trợ dành cho nhóm nông dân mất

đất. Theo đó, báo cáo chỉ ra những khó khăn là tìm kiếm, chuyển đổi việc

làm, thất nghiệp và dư thừa lao động; thiếu hoặc không còn đất nông

nghiệp để canh tác. Bên cạnh việc đó, báo cáo chỉ ra các khó khăn của

người dân thuộc diện thu hồi đất, phân tích các tác động khác của quá trình

thu hồi đất đến điều kiện kinh tế- xã hội của địa phương cũng như những

chuyển dịch trong cơ cấu việc làm và thu nhập của các hộ gia đình. Trong

đó chiều hướng chuyển dịch chính được chỉ ra là các công việc bấp bênh từ

hoạt động làm thuê ngoài. Tỷ lệ người dân được hưởng lợi từ hoạt động sản

xuất của các doanh nghiệp hay các dịch vụ liền kề doanh nghiệp vì thế chỉ

chiếm tỷ lệ khá thấp. Khó khăn về việc làm, thu nhập thường trực cộng với

sự gia tăng của các loại hình tệ nạn xã hội cùng sự biến đổi, ô nhiễm môi

trường làm cho nhiều người dân cảm thấy băn khoăn với các quyết định

chuyển đổi mục đích sử dụng đất hiện nay [35].

20

- Đề án: "Một số giải pháp hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo

nghề và việc làm cho các hộ vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông

nghiệp" đã đưa ra nhiều phân tích về quá trình triển khai thực hiện các

chính sách hỗ trợ người dân bị thu hồi đất ở Hà Nội. Trên cơ sở phân tích

về tình hình thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để

đầu tư phát triển thủ đô và quá trình thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo

nghề, GQVL cho người lao động tại các khu vực này, đề án đã đưa ra

những dự báo về tình hình thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất

nông nghiệp đến năm 2020, đề xuất các giải pháp về đào tạo nghề và việc

làm cho nhóm đối tượng này. Theo phân tích, quá trình chuyển đổi mục

đích sử dụng đất của Hà Nội đã tạo ra những chuyển dịch tích cực về cơ

cấu kinh tế, lao động cũng như góp phần vào sự tăng trưởng của TP. Để hỗ

trợ cho nhóm đối tượng mất đất nông nghiệp, TP cũng đã chú trọng thực

hiện nhiều chính sách phù hợp từ hỗ trợ về cơ sở vật chất kỹ thuật, tái định

cư đến đào tạo nghề và giới thiệu việc làm qua đó bước đầu cũng đã góp

phần ổn định đời sống và GQVL cho một bộ phận dân cư.

Nghiên cứu về vấn đề việc làm và thu nhập của người dân mất đất tại

Huế qua báo cáo việc làm cho người lao động sau thu hồi đất trong quá trình

đô thị hoá ở TP Huế hiện nay của tác giả Hà Thị Hằng cũng đã cho thấy nhiều

phát hiện quan trọng. Kết quả từ tổng hợp số liệu điều tra 100 hộ gia đình

điển hình về thu hồi đất nông nghiệp của Thừa Thiên - Huế cho thấy nhiều

bức xúc trong vấn đề việc làm của người lao động tại các địa phương này.

Sự biến đổi việc làm của các hộ gia đình có lẽ nằm ngoài sự mong đợi và

dự đoán của các nhà hoạch định chính sách, bởi có biến đổi việc làm nhưng

không diễn ra theo xu hướng chuyển dịch sang ngành công nghiệp và dịch

vụ, biến đổi việc làm hiện hữu nhất tại đây lại là không có, hoặc thiếu việc

làm. Tỷ lệ lao động có việc làm đã giảm xuống hơn 40% so với thời điểm

trước thu hồi, những người còn duy trì được nghề cũ là 14,5%; 41,61% đã

21

tìm được nghề nghiệp mới và trên 30% rơi vào tình trạng thất nghiệp. Số

lao động tìm được việc làm mới lại chủ yếu là công việc bấp bênh, thu

nhập thấp như đạp xe xích lô, buôn bán nhỏ, phụ nề… Những người duy trì

được hoạt động sản xuất nông nghiệp thì cũng hết sức khó khăn bởi đất đai

chật hẹp. Những bất cập sau các quyết định về chuyển đổi mục đích sử

dụng đất tại Huế cũng là thực trạng chung đã và đang xảy ra tại các địa

phương khác trong cả nước [29].

1.1.2.3. Luận án

- Luận án tiến sỹ kinh tế của NCS Trần Ngọc Diễn với đề tài: "Nâng

cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tạo việc làm cho lao động ở Việt Nam

hiện nay", ngành kinh tế lao động - Trường Đại học kinh tế Quốc dân năm

2002. Tác giả phân tích hoạt động và hiệu quả hoạt động của Quỹ quốc gia

GQVL (gọi tắt là 120). Từ việc tác giả đánh giá các mặt đạt được, những

vấn đề tồn tại và nguyên nhân của nó, tác giả đã đề xuất các giải pháp cụ

thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn 120 này trong GQVL cho

người lao động [22].

- Luận án tiến sỹ kinh tế của NCS Nguyễn Văn Nhường: "Chính sách

an sinh xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các

cụm công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh)", chuyên ngành Quản lý kinh tế -

Trường Đại học kinh tế Quốc dân năm 2010. Tác giả đi sâu vào phân tích

những nội dung lý luận về chính sách an sinh xã hội đối với nông dân bị thu

hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, đồng thời đánh giá thực trạng đời

sống người dân bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp

tại Bắc Ninh. Qua việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân bằng

sử dụng mô hình SWOT, tác giả đề xuất các giải pháp xây dựng và hoàn thiện

chính sách về an sinh xã hội đối với người nông dân bị thu hồi đất để xây

dựng các khu công nghiệp [40].

22

1.1.2.4. Bài báo khoa học

- "Tạo việc làm ở nước ta - Từ chính sách đến thực tiễn", tạp chí Tạp chí

Kinh tế và phát triển – của tác giả Nguyễn Tiệp. Tác giả đánh giá các chính

sách của Nhà nước trong việc tạo việc làm cho người lao động; những vấn

đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả

của chính sách GQVL cho lao động ở nước ta [61].

- "Hà Nội giải quyết việc làm cho lao động khu vực chuyển đổi mục

đích sử dụng đất", tạp chí Lao động và xã hội của tác giả Hồng Minh. Tác

giả đã chỉ ra những biến đổi về xã hội sau giải phóng mặt bằng ở ngoại

thành Hà Nội: thu nhập, lối sống, sử dụng tiền đền bù và thất nghiệp đối

với người nông dân sau thu hồi đất [37].

- "Hà Nội với các biện pháp trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và

vừa", tạp chí Lao động và xã hội của tác giả Nguyễn Thế Quang. Bài báo

đánh giá vai trò, thực trạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ; và đề xuất các biện

pháp của Hà Nội trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển [48].

- "Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp tạo

thêm việc làm", tạp chí Lao động và công đoàn của tác giả Nguyễn Tiệp. Bài

báo đề cập đến vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc GQVL cho

người lao động, những hạn chế và giải pháp khắc phục đối với doanh nghiệp

vừa và nhỏ ở Việt Nam trong việc tạo việc làm cho người lao động [60].

- "Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết các vấn đề xã hội

tại Hà Nội", tạp chí Lao động - Xã hội của tác giả Nguyễn Tiệp. Tác giả

chỉ ra thực trạng các vấn đề xã hội nảy sinh: thất nghiệp, nghèo đói... và

các giải pháp tạo việc làm cho người lao động nhằm giảm thiểu các vấn đề

xã hội nảy sinh [63].

- "Giải quyết viêc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở Thành phố Hà

Nội", tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông – của tác giả Trần Thị Lan, tác

giả đề cập đến vấn đề việc làm của nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội còn có

23

những hạn chế: số việc làm tạo ra chưa nhiều, nông dân được làm việc trong

các dự án thu hồi đất còn ít. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số quan điểm

cần phải quán triệt và các giải pháp trong GQVL cho đối tượng trên [32].

1.2. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

1.2.1. Những vấn đề về việc làm khi thu hồi đất ở Việt Nam đã có

sự thống nhất giải quyết

Tất cả các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài kể trên đều

đã bao quát những vấn đề về việc làm, GQVL; quan điểm và giải pháp

GQVL cho người lao động nhằm nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần

cho người dân, giảm thiểu các vấn đề xã hội nảy sinh, đặc biệt là tình trạng

thất nghiệp hiện nay.

Việc thu hồi đất và giải quyết việc làm cho người nông dân sau khi

bị thu hồi đất hiện đang là bài toán khó của Chính phủ và các địa phương

trong việc bảo đảm phát triển bền vững. Nếu không đánh giá tổng quát,

khoa học về sự tác động của thu hồi đất đến việc làm của người nông dân

sẽ không tìm ra "cái đích" cho việc ổn định chính trị, kinh tế - xã hội ở

nhiều nơi trong cả nước.

Trong quá trình nghiên cứu, các tác giả đã đánh giá thực trạng sự tác

động, sự cần thiết cũng như các nhân tố ảnh hưởng của thu hồi đất đến việc

làm của người nông dân bị thu hồi đất; trên cơ đó đó đưa ra một số giải pháp

và khuyến nghị nhằm đẩy mạnh việc giải quyết việc làm cho người nông dân

bị thu hồi đất.

Các lý thuyết về việc làm nêu trên đều tập trung nghiên cứu, xác định

mối quan hệ cung cầu lao động tác động đến việc làm. Những lý luận đó chưa

làm rõ vai trò của Chính phủ thông qua hệ thống các chính sách kinh tế kết

hợp với chính sách xã hội để tạo việc làm ổn định cho nền kinh tế đặc biệt là

24

đối với Việt Nam hiện nay nói chung và nông dân sau thu hồi đất ở Hà Nội

nói riêng. Tuy nhiên, nó có tác dụng gợi mở cho chúng ta khi phân tích thực

trạng việc làm và đề ra những giải pháp phù hợp tạo việc làm cho người lao

động sau thu hồi đất.

Mỗi báo cáo ở từng thời điểm cụ thể, với quy mô, phương pháp và

cách tiếp cận khác nhau cũng đã khai thác khá triệt để bức tranh muôn màu

của thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất và các vấn đề phát sinh xung

quanh nó. Tựu chung lại các báo cáo cũng làm nổi bật được các đặc trưng,

quy mô, mức độ cũng như các tác động về kinh tế - xã hội, đời sống - việc

làm của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại Việt Nam trong những

năm qua.

1.2.2. Những nội dung về việc làm và giải quyết việc làm cho nông

dân khi thu hồi đất cần được tiếp tục nghiên cứu

- Các nghiên cứu trên chưa đưa ra quan niệm chung nhất về việc làm

cho nông dân khi thu hồi đất, giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi

đất, đặc biệt chưa chỉ ra nội dung của giải quyết việc làm và các tiêu chí đánh

giá kết quả của giải quyết việc làm nói chung và GQVL cho nông dân khi thu

hồi đất nói riêng.

- Đối với các nghiên cứu đánh giá về chính sách, phần lớn các nghiên cứu

nghiêng về quá trình quản lý và cung cấp các thông tin về thu hồi đất, trong khi

đó mảng nghiên cứu, phân tích về chính sách hỗ trợ cho người nông dân khu vực

thu hồi đất lại khá hiếm, đặc biệt vấn đề đào tạo nghề, hướng nghiệp - mảng then

chốt để giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở khu vực bị thu hồi

đất hiện nay hầu như chưa được phân tích một cách sâu sắc.

Những "khoảng trống" từ các báo cáo đã thực hiện cũng như các kinh

nghiệm và bài học rút ra từ các báo cáo này sẽ là cơ sở cho việc xây dựng

nghiên cứu với quy mô lớn hơn cũng như vận dụng đa phương pháp để thực

hiện các điều tra về thực trạng lao động - việc làm của người lao động tại các

25

khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp. Trong đó, nghiên cứu mới cần đạt được

các yêu cầu sau:

- Nghiên cứu cần mô tả và phân tích các vấn đề về thực trạng lao động

- việc làm - GQVL của người dân tại các khu vực chuyển đổi mục đích sử

dụng đất nông nghiệp. Những thời cơ, thách thức của quá trình chuyển đổi

mục đích sử dụng đất đến đời sống kinh tế - xã hội, lao động - việc làm của

các địa phương hiện nay.

- Nghiên cứu cần phân tích quá trình thực hiện chuyển đổi đất đai tại

các địa phương, các chính sách hỗ trợ cũng như hiệu quả của các chính

sách này.

- Những nhu cầu, đề xuất của người dân và chính quyền tại các địa

phương nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách thu hồi đất nói chung và các

chính sách hỗ trợ người dân nói riêng để bảo đảm thực hiện đúng đắn mục

tiêu của các quyết định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

- Nghiên cứu cần chỉ ra những khác biệt về các tác động của các nhân

tố kinh tế - xã hội cũ và các nhân tố mới nảy sinh từ việc Việt Nam gia nhập

WTO đến các quy mô, mức độ của việc chuyển đổi đất nông nghiệp cũng như

đến các vấn đề lao động - việc làm tại các địa phương hiện nay.

Chuyển đổi đất đai từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông

nghiệp là hướng đi tất yếu của quá trình công nghiệp hoá nhưng cần phải

cân nhắc tới những được mất của quá trình này. Thách thức nhiều hơn cơ

hội, khó khăn nhiều hơn thuận lợi là những vấn đề dễ nhận diện nhất trong

các tác động của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp

đến đời sống - việc làm của người lao động. Những vấn đề này cần được

tìm hiểu và nhận diện một cách rõ ràng và toàn diện hơn trong từng bối

cảnh kinh tế - xã hội cụ thể. Đặc biệt là việc xem xét các tác nhân mới của

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đến quá trình chuyển dịch

đất đai cũng như vấn đề việc làm, đào tạo nghề của nhóm lao động ở khu

26

vực này cũng trở nên cần thiết. Các nghiên cứu điều tra, khảo sát về các

vấn đề này sẽ là những căn cứ quan trọng cho việc hoạch định, hoàn thiện

các chính sách bảo đảm quyền lợi cho người dân tại các khu vực thu hồi

đất cũng như phục vụ đắc lực cho mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế

theo hướng công nghiệp, hiện đại.

Đến nay do thời gian và nhiều vấn đề khách quan, chủ quan tác động

nên các quan điểm, giải pháp không còn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Việc nghiên cứu về GQVL cũng như các chính sách hỗ trợ cho người nông

dân khi thu hồi đất để hình thành các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà

Nội là những bước khởi đầu quan trọng, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu thực tiễn đặt ra, đặc biệt trong điều kiện Hà Nội mở rộng quy mô,

không gian mới. Vì vậy, vấn đề này vẫn đòi hỏi phải được nhận thức rõ hơn

và các giải pháp hữu hiệu để GQVL cho người nông dân Hà Nội. Theo hướng

đó đề tài tiếp tục khảo sát về việc làm, GQVL cho nông dân khi thu hồi đất ở

Hà Nội và đưa ra các giải pháp trên cơ sở kế thừa và phát triển công trình của

các tác giả đi trước; đặc biệt vận dụng trong hoàn cảnh mới, điều kiện lịch sử

mới của Thủ đô Hà Nội.

27

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM

CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT

2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT

2.1.1. Các quan niệm về việc làm

Việc làm được bắt đầu từ hoạt động lao động của con người tác động

đến tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của mình. Hiện

nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về việc làm.

Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao

động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.

Giáo trình Kinh tế lao động của trường ĐHKTQD do Phạm Đức Thành

và Mai Quốc Chánh chủ biên thì quan niệm việc làm là phạm trù để chỉ trạng

thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản

xuất, công nghệ... ) để sử dụng sức lao động đó.

Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi

phí ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu... và chi

phí về sức lao động (V). Có thể biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ này bằng

phương trình sau:

VL = C/V

Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình

độ công nghệ của sản xuất. Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết

hợp đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công

nghệ sử dụng nhiều sức lao động

Do đó tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để tạo

việc làm cho người lao động.

Từ quan niệm này ta thấy: để bảo đảm cho người lao động có việc làm

thì cần thiết phải có những điều kiện quan trọng để bảo đảm cho sự kết hợp

28

giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Đồng thời, thông qua quan niệm này

cũng cho thấy rằng do quan hệ tỷ lệ này luôn luôn thay đổi, vì vậy đối với các

quốc gia tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình mà lựa chọn những

chiến lược phát triển nhưng vẫn giải quyết tốt vấn đề việc làm. Chỉ có như vậy

mới tránh được tình trạng lãng phí nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người.

Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, người lao

động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người

làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế tập thể.

Trong cơ chế đó, Nhà nước chịu trách nhiệm bố trí, sắp xếp việc làm cho

từng người lao động. Do đó trong xã hội lúc đó không thừa nhận có hiện

tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, dư thừa lao động, việc làm không đầy

đủ... Nhưng trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện nay,

quan niệm về việc làm đã được thay đổi một cách căn bản.

Theo một số chuyên gia trong lĩnh vực lao động nước ta, quan niệm về

người có việc làm như sau: Người có việc làm là những người làm việc trong

những lĩnh vực, ngành nghề, đang hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn

cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp

một phần cho xã hội.

Khái niệm này đã cho thấy nội dung của việc làm được mở rộng và tạo

ra khả năng to lớn cho việc giải phóng tiềm năng lao động, GQVL cho nhiều

người, điều này được thể hiện trên hai góc độ:

- Việc làm đã được mở rộng rất lớn, bao gồm tất cả các thành phần

kinh tế, trong mọi hình thức và cấp độ của tổ chức sản xuất kinh doanh và sự

đan xen giữa chúng. Nó cũng không bị hạn chế về mặt không gian.

- Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, tự

do thuê mướn lao động theo luật pháp và sự hướng dẫn của nhà nước để tự

tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu

về lao động trên thị trường lao động.

29

Chính từ quan niệm trên về việc làm trong cơ chế thị trường, trong

Điều 13, Chương II Bộ luật Lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam chỉ rõ: Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật

cấm đều được thừa nhận là việc làm. Năm 2012, Quốc hội nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành luật Lao động thay thế cho luật Lao

động trước đó. Trong Luật Lao động, điều 9, khoản 1 chỉ rõ: Việc làm là hoạt

động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm.

Quan điểm trên cho thấy khái niệm việc làm bao gồm các nội dung:

+ Là hoạt động lao động của con người.

+ Là hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.

+ Là hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.

Khái niệm này đã được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu quản lý nhà nước

về việc làm và thống nhất trong cả nước. Để tạo điều kiện thuận lợi trong các

hoạt động thực tế, khái niệm này đã được cụ thể hoá như sau:

Việc làm là hoạt động được thể hiện ở một trong ba dạng:

+ Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc

bằng hiện vật cho công việc đó.

+ Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất

nông nghiệp trên đất do chính thành viên đó sở hữu; hoặc hoạt động kinh tế

ngoài nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.

+ Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao

dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó, bao gồm sản xuất nông

nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ gia đình quản lý hay

có quyền sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hay

một thành viên trong gia đình làm chủ hoặc quản lý.

Quan niệm mới về việc làm như Bộ luật lao động quy định cho thấy ở

nước ta đã có sự thay đổi căn bản trong nhận thức về việc làm. Với quan

niệm này, nó đã xoá bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần

30

kinh tế, động viên mọi tổ chức, mọi cá nhân và toàn xã hội tạo mở nhiều

việc làm cho người lao động. Bên cạnh quan niệm mới về việc làm, Bộ luật

lao động còn quy định GQVL như sau: "Giải quyết việc làm, bảo đảm cho

mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm

của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội" [42; tr.142]. Theo

luật Lao động năm 2012, điều 9, khoản 2 chỉ rõ: Nhà nước, người sử dụng

lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia GQVL, bảo đảm cho mọi người

có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm.

Ngoài ra, người ta còn chia việc làm thành những phạm trù xã hội -

nghề nghiệp khác nhau, từ đó có sự phân biệt các loại nghề nghiệp của lao

động khác nhau.

+ Việc làm chính thức: là công việc chính mang lại thu nhập chính (đối

với những việc làm được trả công) và những thu nhập về của cải vật chất cho

bản thân và gia đình (đối với việc làm không được trả công: nội trợ gia đình,

tự trồng trọt, chăn nuôi phục vụ nhu cầu bản thân…).

+ Việc làm không chính thức: là những công việc làm thêm ngoài việc

làm chính. Đối với người nông dân, việc làm chính của họ là sản xuất nông

nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là nhưng việc làm thêm

trong lúc nông nhàn.

+ Việc làm bền vững: là việc làm có năng suất và chất lượng cho nam

giới và nữ giới, trong điều kiện tự do, bình đẳng, an toàn và nhân phẩm được

tôn trọng. Một việc làm được coi là bền vững khi thoả mãn các tiêu chí: có

thu nhập công bằng, phải bảo đảm an toàn tại nơi làm việc và bảo vệ xã hội

cho người lao động cũng như gia đình họ; có triển vọng phát triển cá nhân và

khuyến khích hoà nhập xã hội; cho phép mọi người được tự do bày tỏ những

mối quan tâm của mình, được tự do tổ chức và tham gia vào các quyết định

ảnh hưởng tới cuộc sống của họ; và bảo đảm cho tất cả mọi người đều có cơ

hội bình đẳng và được đối xử bình đẳng.

31

Từ những quan niệm trên tác giả cho rằng: việc làm là tất cả những

hoạt động mang lại thu nhập hợp pháp dưới nhiều hình thức khác nhau cho

người lao động. Việc làm bền vững là các hoạt động tương đối ổn định mang

lại thu nhập hợp pháp, tương xứng với lao động đã bỏ ra và bảo đảm được

đời sống của người lao động, có nơi làm việc an toàn, được bảo đảm về mặt

xã hội, có triển vọng phát triển cá nhân và gia đình, có cơ hội bình đẳng và

được đối xử bình đẳng.

2.1.2. Việc làm của nông dân và tác động của thu hồi đất đến việc

làm của nông dân

2.1.2.1. Việc làm của nông dân và việc làm cho nông dân khi thu

hồi đấtTheo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: nông dân là người lao

động cư trú ở nông thôn, sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, sau đó bằng các

ngành, nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Có ý kiến cho rằng: nông

dân là lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp;

hoặc ý kiến khác: nông dân là một bộ phận của lực lượng lao động, bao gồm

toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (lao động đang làm việc

trong nền kinh tế quốc dân) và lao động tiềm tàng (có khả năng lao động

nhưng chưa tham gia lao động) thuộc khu vực nông thôn (khu vực địa lý bao

trùm toàn bộ dân cư nông thôn).

Tuy nhiên trong thực tế, ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay sự phân

công lao động trong gia đình nông dân chưa được rạch ròi. Hiện tượng người

lao động vừa làm nông nghiệp, vừa làm công nghiệp, dịch vụ là hiện tượng

mang tính phổ biến. Trong các gia đình nông dân, hiện tượng buổi sáng làm

nông nghiệp, buổi chiều làm các công việc phi nông nghiệp hoặc lúc nông

nhàn họ đi làm thuê ở thành thị, làm trong các làng nghề... là phổ biến trong

khu vực nông thôn Việt Nam.

Do vậy, theo tác giả, Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất là những

32

hoạt động kinh tế mà người nông dân sau khi thu hồi đất có thể tiếp cận và sử

dụng chúng để tạo ra nguồn thu nhập hợp pháp cho bản thân và gia đình.

* Đặc điểm việc làm của nông dân trước khi thu hồi đất:

- Lao động nông nghiệp của nông dân là thứ lao động tất yếu, chiếm tỷ

trọng lớn trong cơ cấu lao động của đất nước cũng như trong giai đoạn trước

khi thu hồi đất của nông dân.

Ở Việt Nam, xuất phát điểm của quá trình CNH, HĐH đất nước là một

nước có nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp với nhiệm vụ chủ

yếu là sản xuất lương thực và bảo đảm sự sinh tồn của dân cư. Đây cũng là

đặc trưng cơ bản của các nước có nền văn minh lúa nước trên thế giới. Với tỷ

lệ trên 65% dân số sống ở nông thôn, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm

từ 65 - 70% tổng lao động toàn xã hội; năng suất lao động thấp; phân công lao

động khu vực nông nghiệp, nông thôn kém phát triển điều này tạo ra áp lực

buộc người dân phải sống dựa vào đất nông nghiệp - con đường cơ bản để

duy trì sự sống.

- Quy mô việc làm ở nông thôn cho đến ngày nay vẫn chủ yếu ở quy mô

nhỏ lẻ, quy mô gia đình. Mỗi một đơn vị, một cơ sở sản xuất chỉ giải quyết

được việc làm cho 3 - 4 nhân công. Việc xuất hiện và ngày càng phát triển các

trang trại có quy mô ngày càng lớn hiện nay ở các vùng nông thôn đang tạo

một nhu cầu hợp tác mới trong lao động sản xuất ở nông thôn và cùng theo đó

sẽ tạo ra quy mô việc làm lớn hơn. Tuy nhiên cho đến ngày nay, mặc dù nhu

cầu này đang phát triển những vẫn chưa chiếm được tỷ lệ cao trong việc cung

cấp việc làm cho lao động ở nông thôn.

- Lao động của nông dân mang tính chất là lao động giản đơn, công

việc mang tính nặng nhọc, hiệu quả công việc và năng suất lao động thấp hơn

so với các ngành sản xuất khác.

Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là gắn với tự nhiên, chịu sự tác

động của tự nhiên; đất đai là yếu tố chính, giữ vai trò quyết định đến sản xuất

33

nông nghiệp. Mặc dù có hàng ngàn năm kinh nghiệm trồng lúa, nhưng cho

đến ngày nay mọi công cụ lao động phục vụ cho công nghệ trồng lúa vẫn chỉ

là các dụng cụ cầm tay, thủ công. Từ khâu làm đất, chăm sóc, tưới tiêu, bón

phân, phun thuốc trừ sâu, thu hoạch… trong ngành trồng trọt, người nông dân

vẫn làm bằng phương pháp thủ công. Một số loại máy móc như máy cày, máy

gặt đập liên hợp, bơm phun nước… thời hợp tác hoá nông nghiệp đã có lúc

được đưa vào đồng ruộng nhưng không mang lại hiệu quả kinh tế, không có

người quản lý và duy tu sửa chữa kịp thời nên đã dần dần mai một. Trong thời

kỳ đổi mới, một phần là do ruộng đất chia cắt thành nhiều mảnh nhỏ để khoán

sản cho dân nên việc áp dụng máy móc không mấy thuận lợi, mặt khác người

nông dân không đủ vốn đầu tư và cũng không đủ trình độ kỹ thuật để sử dụng

các công cụ lao động hiện đại. Trong những năm gần đây, một số vùng nông

thôn đã phát triển theo hướng cơ giới hoá, nhiều công cụ lao động hiện đại đã

được dần dần sử dụng. Nhưng xu hướng chính cho đến bây giờ vẫn là dùng

các công cụ thủ công, lạc hậu.

Do diện tích đất đai sản xuất nông nghiệp ở nước ta nhỏ bé, manh mún

nên đã là nhân tố cản trở lớn cho việc cơ giới hoá nông nghiệp, áp dụng máy

móc, khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Do vậy, hoạt động sản xuất nông nghiệp

của nông dân nước ta vẫn phụ thuộc chủ yếu vào sức lao động giản đơn của

người lao động; vẫn là những hoạt động đòi hỏi tính nặng nhọc trong sản xuất

hơn so với các ngành sản xuất khác.

- Chất lượng lao động của nông dân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu

cầu của sự nghiệp đổi mới.

Nông dân Việt Nam có truyền thống chịu thương, chịu khó; cần cù,

chăm chỉ; có truyền thống yêu nước; quyền lợi và trách nhiệm gắn bó chặt

chẽ với Đảng, với đất nước... Bên cạnh đó, nông dân Việt Nam cũng còn

có nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế, của

sự nghiệp phát triển đất nước. Thể hiện:

34

+ Trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật của nông dân thấp, ít được

đào tạo bài bản; trình độ họ có được chủ yếu nhờ truyền nghề. Đây là yếu tố

cản trở lớn đến việc áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, góp phần tăng

năng suất lao động và hiệu quả đầu tư, sản xuất.

Bảng 2.1: Mức độ hiểu biết và mức độ thành thạo của người nông dân

với các hoạt động sản xuất nông nghiệp

Đơn vị: %

Hoạt động

Mức độ hiểu biết Mức độ thành thạo

Biết rõ Biết

chút ít

Không

biết

Thành

thạo

Tương đối

thành thạo

Không

thành thạo

Kỹ thuật canh tác 68,5 30,4 1,2 67,2 28,2 4,6

Kỹ thuật chăn nuôi gia súc,

gia cầm36,4 19,7 43,9 28,0 21,4 50,6

Kỹ thuật đánh bắt 51,0 43,3 5,7 40,9 43,2 15,9

Kỹ thuật nuôi trồng thuỷ, hải sản 6,4 28,3 65,3 5,5 15,5 79,0

Nắm bắt lịch thời vụ 15,4 30,0 54,6 11,0 17,6 71,4

Thu hoạch sản phẩm (không

bao gồm đánh bắt)58,4 38,9 2,7 49,1 43,6 7,2

Bảo quản sau thu hoạch 59,1 38,6 2,4 50,8 42,4 6,8

Hiểu biết thị trường 23,9 47,1 29,1 - - -

Nguồn: [66, tr.56].

Số liệu bảng 2.1 cho thấy: phần lớn nông dân đều khẳng định về hiểu

biết khá tốt của mình đối với các hoạt động liên quan tới sản xuất nông

nghiệp. Tuy nhiên, những hiểu biết của nông dân vẫn đang chủ yếu tập trung

ở các kỹ thuật canh tác, sản xuất vốn là yếu tố mang nặng tính kinh nghiệm.

+ Thể lực của nông dân tuy đã được cải thiện so với trước đây song vẫn

thấp so với yêu cầu của thực tiễn. Tình trạng dinh dưỡng của người lao động

(thể hiện theo chỉ số cơ thể BMI) còn ở mức thấp; ở nam giới: 36,44% đạt

mức trung bình, 62,5% ở mức gày và quá gày; ở nữ giới, tỷ lệ tương ứng là

35

57,6% và 37%. Điều đó phản ánh rõ nét mối liên hệ chặt chẽ giữa mức thu

nhập và năng suất lao động của nông dân.

- Việc làm của nông dân mang tính thời vụ. Trong sản xuất nông nghiệp,

thời gian gián đoạn lao động là rất lớn. Thời gian cây trồng, vật nuôi chịu sự

tác động của tự nhiên trong quá trình sinh trưởng chiếm tỷ lệ cao. Do vậy, nhu

cầu về việc làm có biên độ dao động lớn giữa các kỳ thu hoạch. Kết quả là

phần đa nông dân trở nên nhàn rỗi trong giai đoạn đó. Chính đặc điểm này đã

ảnh hưởng lớn đến mức độ sử dụng lao động khi thời vụ đến và tình trạng thiếu

việc làm của nông dân trong thời gian nông nhàn.

- Khả năng tự tạo việc làm của nông dân thấp.

Tại khu vực nông thôn, nông nghiệp có thể coi là một nghề nghiệp "gia

truyền" rộng rãi. Từ đời này sang đời khác, phần lớn lao động nông nghiệp chủ

yếu sản xuất theo thói quen, kinh nghiệm và những kỹ năng lao động đơn giản.

Chính yếu tố này khiến năng suất lao động trong nông nghiệp ngày càng tụt lại

so với các ngành nghề phi nông nghiệp. Lực lượng nông dân (lao động nông

nghiệp) ở nước ta chiếm tỷ lệ cao, diện tích đất đai canh tác nông nghiệp ít

(bình quân đất nông nghiệp cho một nhân khẩu nông nghiệp của nước ta là

0,17 ha); năng suất lao động nông nghiệp thấp (năng suất lao động nông nghiệp

của Việt Nam chỉ bằng 75,7% so với Trung Quốc, 0,8% của Nhật Bản, 0,4%

của Đan Mạch); Thu nhập của nông dân thấp (năm 2005 là 375.000 đồng/

người /năm); Tình trạng phụ thu, đóng góp ngoài chính sách của nông dân đang

làm cho nguồn lực tại chỗ của nông dân thêm khó khăn, ít có khả năng mở

rộng sản xuất từ đó làm cho khả năng tự tạo việc làm của nông dân thấp.

* Đặc điểm việc làm của nông dân sau khi thu hồi đất:

Sau thu hồi đất nông nghiệp, đặc điểm việc làm của nông dân cũng có

sự thay đổi đáng kể: Tỷ trọng lao động làm trong lĩnh vực nông nghiệp giảm

xuống, tỷ trọng lao động làm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên.

Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng hoá đã bước đầu đẩy

36

mạnh và áp dụng phương pháp sản xuất mới, hiện đại hơn. Tuy nhiên, trong

thực tế, việc chuyển mục đích sử dụng đất đã gây xáo trộn, ảnh hưởng lớn đến

đời sống trước mắt cũng như về lâu dài của một bộ phận đông đảo nông dân.

Chỉ tính trong 5 năm (2003-2008) đất thu hồi làm dự án đầu tư đã tác động

trực tiếp đến 627.000 hộ gia đình, với khoảng 2,5 triệu người. Điều tra cho

thấy: 67% lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ, chỉ có 13% chuyển

nghề mới và có tới 25-30% nông dân không có việc làm, hoặc có nhưng

không ổn định; 53% hộ nông dân bị thu hồi đất thu nhập bị giảm so với trước,

chỉ có 13% là tăng hơn trước.

Thực tế ở nông thôn Việt Nam hiện nay, ngoài việc làm chính của

nông dân là lao động nông nghiệp, có một bộ phận nông dân còn làm thêm

các nghề phụ: may, đan, thêu, chăn nuôi, buôn bán nhỏ lẻ… do vậy ranh giới

giữa nông dân và lao động nông thôn chỉ là tương đối. Vì vậy, trong đề tài

này, nông dân hay lao động nông thôn được tác giả coi là đối tượng nghiên

cứu của mình

2.1.2.2. Tác động tích cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân

Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia trong những năm gần đây cho

thấy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá là nhân tố quyết định làm

thay đổi căn bản phương thức sản xuất; chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông

nghiệp truyền thống, nền kinh tế tiểu nông sang phương thức sản xuất mới,

hiện đại và do đó cũng làm thay đổi nội dung kinh tế - xã hội nông thôn.

Trong bối cảnh hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá có sự

gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một tiến trình thống nhất thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội, đồng thời nó cũng tạo ta sự thay đổi cơ bản, đó là: phát

triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn và làm thay đổi căn bản xã

hội nông thôn theo hướng công nghiệp.

Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH, đô thị hoá nông nghiệp, nông thôn tất

yếu dẫn đến việc thu hồi đất của nông dân phục vụ cho việc xây dựng cơ sở

37

vật chất, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Điều đó đã tạo ra nhiều tác

động tích cực đến việc làm của họ.

- Tạo cơ hội để tăng thêm việc làm cho người lao động

Việc thu hồi đất hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị sẽ tạo ra

nhu cầu về việc làm tăng, nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải

quyết công ăn việc làm cho nông dân sau thu hồi đất nói riêng và cho lao

động xã hội nói chung. Mặt khác, đô thị xuất hiện, các nhà máy phát triển

cũng làm cho "cầu" về nguyên vật liệu, "cầu" về nông sản phẩm (lương thực

thực phẩm) tăng. Để đáp ứng yêu cầu này đòi hỏi quanh các đô thị và khu

công nghiệp phải xây dựng, phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu tập

trung, các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá, tạo điều kiện mở rộng, phát

triển chính bản thân ngành nông nghiệp, tạo nhiều việc làm cho lao động

nông nghiệp. Đô thị phát triển, công nghiệp phát triển cung cấp tư liệu sản

xuất, tiến bộ khoa học công nghệ, hỗ trợ vốn,... cho nông nghiệp, cho người

lao động, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng

hoá, tập trung trên quy mô lớn, thu hút nhiều lao động.

Việc thu hồi đất phục vụ quá trình CNH, HĐH và đô thị hoá làm kinh tế

ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh chóng nhờ sự tập trung lực lượng sản xuất,

tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ chức lao động hiện đại. Do đó, quá trình

tăng trưởng kinh tế đô thị cũng tạo cơ hội để tăng việc làm. Quá trình đó vừa

làm tăng tổng việc làm vừa làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Ngược lại, việc

chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế làm tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu,

tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP bình quân đầu người.

Sự phát triển của các khu công nghiệp và đô thị một mặt sẽ tạo ra một

lượng lớn việc làm cho lao động tại đây, đồng thời thu hút và làm giảm đáng

kể lượng lao động nông nhàn góp phần làm tăng năng suất lao động tại các

vùng này. Theo tính toán của các chuyên gia của Bộ Lao động - Thương binh

và Xã hội, thì 1 ha đất khi chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ có thể tạo

38

việc làm cho từ 50 - 100 lao động. Chỉ riêng 4 TP lớn là Hà Nội, TP Hồ Chí

Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng trong năm 2004 đã GQVL cho khoảng 363.000

lao động. Ngoài số lao động làm việc chính thức tại các cơ sở sản xuất, kinh

doanh, còn phải kể đến một lực lượng lớn lao động làm việc trong các ngành

dịch vụ, thương mại, xây dựng cơ bản… và các khu vực phi chính thức khác

phục vụ cho phát triển các đô thị và khu công nghiệp.

Theo số liệu thống kê của tỉnh Bắc Ninh, năm 2007, các khu công

nghiệp của tỉnh đã tạo việc làm cho 19.476 lao động; đến hết tháng 6 - 2008,

số lao động được tạo việc làm là trên 26.000 người, trong đó giải quyết lao

động địa phương là 11.000 người (chiếm 42% tổng số lao động có việc làm).

Cũng trong năm 2007, các khu công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc tạo ra được

hơn 48.000 chỗ làm cho lao động; các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương đã

GQVL cho 18.700 lao động; tương ứng với tỉnh Thái Bình là 17.880 người.

- Thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động.

Các khu công nghiệp phát triển đã trực tiếp tác động đến kỹ năng của

người lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh và giảm bớt sự cách biệt giữa

lao động thành thị và lao động nông thôn. Ngoài ra, nó còn là động lực kính

thích sự thay đổi tác phong làm việc của họ. Những người nông dân quen với

công việc nhà nông khi tiếp xúc với điều kiện và yêu cầu làm việc mới đã

phải thay đổi tác phong làm việc với tính kỷ luật và nhanh nhẹn hơn trước

đây, được đào tạo hoặc tự đào tạo nâng cao trình độ để có thể thích nghi trong

điều kiện sản xuất mới.

- Tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do đó tới cơ cấu

lao động

Việc thu hồi đất hình thành các khu công nghiệp và khu đô thị mới tạo

ra quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông

nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, chính vì vậy nó cũng làm

cho tỷ trọng về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế cũng biến đổi theo

39

hướng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng còn lao động

trong ngành nông nghiệp giảm.

Việc hình thành các khu công nghiệp và đô thị mới góp phần nâng cao

trình độ cho người lao động, thúc đẩy thị trường sức lao động phát triển...

Điều đó tạo ra cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao động nông nghiệp. Họ có

thể chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực kinh tế khác. Đây cũng là vấn đề có

tính quy luật, nó sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ

Do đó, những người trước đây sống dựa vào nguồn thu nhập từ sản

xuất nông nghiệp, nay bị mất nguồn thu nhập hoặc thu nhập bị giảm sút, họ

phải chuẩn bị nghề nghiệp và tham gia vào lực lượng lao động phi nông

nghiệp nên làm tăng cung lao động ở thị trường này. Thực tế ở nước ta, lao

động nông nghiệp giảm từ 62,6% năm 2000 và xuống 56,8% năm 2005 trong

khi lao động công nghiệp và xây dựng tăng từ 13,10% lên 17,9% và lao động

dịch vụ tăng từ 24,30% năm 2000 lên 25,3% năm 2005. Thu hồi đất để hình

thành các khu công nghiệp và đô thị sẽ thúc đẩy chuyển dịch lao động nông

thôn sang làm các công việc phi nông nghiệp, với các hoạt động rất đa dạng

tại các vùng trung tâm, thị trấn, thị tứ, các vùng nông thôn ven các TP, thị xã

hình thành thị trường lao động khá sôi động, đòi hỏi người lao động phải có

sự thích ứng kịp thời.

2.1.2.3. Tác động tiêu cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân

- Đất đai canh tác nông nghiệp bị thu hẹp tạo ra sức ép việc làm đối với

người lao động.

Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, giai đoạn 2000-2004,

số diện tích đất nông nghiệp đã được chuyển đổi mục đích sử dụng là gần

157.000 ha, trong đó xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất gần 22.000

ha, xây dựng cụm công nghiệp vừa và nhỏ gần 35.000 ha, xây dựng cơ sở hạ

tầng đô thị gần 100.000 ha. Trong tổng số diện tích các khu công nghiệp cả

nước, diện tích các khu công nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

40

chiếm 62,5% và bằng 73,2% tổng diện tích các khu công nghiệp của cả 3

vùng kinh tế trọng điểm (không kể diện tích khu công nghiệp Dung Quất

tỉnh Quảng Ngãi 10.300 ha, khu kinh tế mở Chu Lai 4000 ha). Theo một

khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trung bình mỗi hộ nơi

thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi ha

đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất việc làm trong nông

nghiệp, thì với 157.000 ha đất đã được chuyển đổi trong giai đoạn 2000-

2004 có tới 20,41 vạn lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề nghiệp,

trong số đó hiện nay nhiều người hiện vẫn chưa có việc làm và rơi vào tình

trạng thất nghiệp toàn phần.

Diện tích đất bị thu hồi phần lớn tập trung vào đất nông nghiệp, đất khu

đông dân cư và vào một số xã, nhất là ở ven các đô thị lớn (khoảng 70-80%),

có xã thậm chí phải thu hồi 100% diện tích đất sản xuất. Vì vậy, gây ra tình

trạng khó khăn về việc làm của người lao động tại khu vực này.

Quá trình thu hồi đất làm cho một bộ phận lớn dân cư sống dựa vào nông

nghiệp bị mất tư liệu sản xuất chủ yếu, do đó tạo ra sức ép về việc làm đối với

người lao động.

Những người nông dân trước đây gắn bó với ruộng vườn, sau khi trở

thành dân cư đô thị, họ bị mất phần lớn ruộng đất canh tác. Với số tiền được

Nhà nước đền bù hoặc tiền bán đất cho các cư dân mới, họ dùng để tạo nghề

mới, tìm việc làm mới… và nhiều vấn đề khác cũng thay đổi.

Số liệu điều tra trực tiếp về việc làm của 11.402 hộ thu hồi đất nông

nghiệp ở tỉnh Hải Dương cho thấy: ở nơi nào thu hồi đất càng nhiều thì tỷ lệ

người lao động thiếu việc làm và thất nghiệp càng gia tăng, số người đủ việc

làm giảm sút. Trước lúc bàn giao đất, 74,15% lao động có việc làm; sau khi

thu hồi đất số người đủ việc làm chỉ còn lại 49,62% so với tổng số người lao

động. Đặc biệt như huyện Chí Linh số người đủ việc làm trước khi thu hồi đất

74,94% nhưng sau khi thu hồi đất số người đủ việc làm chỉ còn lại 21,93%. Số

41

người thiếu việc làm và chưa có việc làm gia tăng một cách mạnh mẽ, trước lúc

thu hồi đất tỷ lệ người lao động nông nghiệp thiếu việc làm là 15,84%, tỷ lệ

người chưa có việc làm 10,01% nhưng sau khi thu hồi đất tỷ lệ người thiếu việc

làm lên tới 35,80% gấp hơn 2 lần so với trước lúc thu hồi đất; tỷ lệ người chưa

có việc làm: 14,58% gấp 1,5 lần so với trước khi thu hồi đất.

Theo Nghị quyết số 57/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc Hội về

kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 - 2010 của cả nước thì chỉ tiêu chuyển mục

đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất sản xuất kinh doanh phi nông

nghiệp được phê duyệt là 645.200 ha. Nếu tính trung bình mỗi hộ bị thu hồi

đất có 1,5 lao động bị thất nghiệp và mỗi ha đất bị thu hồi làm mất việc của

13 lao động thì số nông dân bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc thu hồi đất nông

nghiệp từ năm 2006 - 2010 không dưới 8 triệu người.

Những năm qua Chính phủ đã có nhiều chính sách ưu tiên GQVL cho

nông dân vùng dự án, nhưng mỗi năm chỉ giải quyết được khoảng 55.000

người, là "muối bỏ biển" trong tổng số lao động mất việc.

- Thu hồi đất nông nghiệp làm nguy cơ thất nghiệp của nhóm người lao

động ở độ tuổi trên 35 là rất lớn

Ở hầu hết các địa phương, số lượng lao động trên 35 tuổi chiếm tỷ lệ

lớn (35%). Trong sản xuất nông nghiệp, đây là lực lượng có kinh nghiệm,

song khi bị thu hồi đất thì đây là bộ phận có nguy cơ thất nghiệp kéo dài lớn

nhất vì tuổi cao nên khả năng được tuyển vào các doanh nghiệp rất ít và khó

thích nghi với những công việc mới. Trong khi đó, ở độ tuổi này, số lao động

chưa qua đào tạo rất nhiều và việc tham gia các khoá đào tạo chuyển nghề đối

với họ cũng không dễ dàng như đối với lao động trẻ. Số lao động này thực tế

rất khó để tìm được việc làm mới. Hơn nữa, nhận thức của người lao động

còn thụ động, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, vào tiền đền bù mà

không cố gắng vượt qua khó khăn tìm kiếm việc làm. Tâm lý chờ nhận sự ưu

đãi của Nhà nước và các doanh nghiệp mà không có sự chuẩn bị nghề nghiệp

42

mới đang tồn tại một cách phổ biến ở người lao động thuộc các vùng bị thu

hồi đất. Hiệu quả sử dụng tiền đền bù rất thấp, rất ít hộ dùng tiền để tham gia

vào các lớp học nghề.

- Do không có việc làm ở nông thôn sau khi bị thu hồi đất, dòng người

đi vào Thành phố kiếm việc làm ngày một tăng gây ra nhiều hiện tượng tiêu

cực, tiềm ẩn sự bất ổn trong xã hội.

Khi tiến hành quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng hiện đại thì nó sẽ kéo theo quá trình đô thị hoá, khi đó người

lao động đang sinh sống và làm việc ở khu vực nông thôn sẽ tìm cách di

chuyển vào khu vực thành thị để tìm việc làm, tăng thu nhập cũng như tiếp

cận với đời sống hiện đại. Điều này, nó sẽ trở thành sức ép rất lớn đối với

khu vực thành thị cũng như những bất ổn về kinh tế - xã hội của khu vực

nông thôn. Tình trạng quá tải về dịch vụ nhà ở, giao thông, y tế, giáo dục

… những tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, cờ bạc... Do lao động trẻ,

khoẻ đi tìm việc ở các đô thị, nhiều vùng nông thôn chỉ còn người già, phụ

nữ và trẻ em nên nhiều nơi đất đai bị bỏ hoang, gây lãng phí nguồn tài

nguyên đất.

Nguyên nhân chủ yếu là trong cơ chế chính sách hỗ trợ hiện có, việc

bồi thường, hỗ trợ đều dưới hình thức chi trả trực tiếp tiền cho người dân bị

thu hồi đất, dẫn đến tình trạng người dân dùng tiền để mua sắm chứ ít quan

tâm đến học nghề, chuyển đổi nghề. Theo điều tra của Đại học Kinh tế

Quốc dân, người dân sử dụng tiền được đền bù như sau: 57,5% để xây nhà,

8,72% để mua đồ dùng, 1,27% đầu tư cho sản xuất phi nông nghiệp, cho

học nghề 2,55%, gửi tiết kiệm 18,2% [33]. Ðể khắc phục tình trạng này,

trong thời gian gần đây TP. Hà Nội đang tập trung vào việc hỗ trợ giải

quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất để ổn định lâu dài đời sống của

họ. Bên cạnh đó, dòng di chuyển quá lớn của lao động từ nông thôn ra

thành phố trong khi số lượng việc làm tại các khu vực đô thị không thể

43

tăng nhanh để có thể thu hút hết sự tăng lên của dân số trong độ tuổi lao

động và do di dân cũng là một nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và

thiếu việc làm với tỷ lệ khá cao. Do đó, để giải quyết được tận gốc vấn đề

này cần thông qua giải quyết việc làm, tạo việc làm cho người lao động tại

khu vực ngoại thành bị ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp.

2.2. GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT

2.2.1. Quan niệm về giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về GQVL. Theo điều 13 Bộ

luật Lao động: "Giải quyết việc làm, bảo đảm cho người lao động có khả năng

lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các

doanh nghiệp và của toàn xã hội". Qua đó, Nhà nước ban hành nhiều văn bản

dưới luật nhằm cụ thể hoá vấn đề GQVL đến người lao động.

Cụ thể qui định trách nhiệm của nhà nước đó là:

- Nhà nước định ra các chỉ tiêu kế hoạch GQVL mới trong kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội.

- Có chính sách ưu đãi, khuyến khích GQVL như: hỗ trợ về tài chính

vay vốn, miễn giảm thuế.

- Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, phát triển hệ thống

dịch vụ việc làm, hệ thống các cơ sở dạy nghề.

Các qui định trách nhiệm của doanh nghiệp:

- Phải bảo đảm việc làm cho người lao động mà doanh nghiệp đã

tuyển dụng.

- Phải mở rộng quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm.

- Phải ưu tiên lao động nữ, người tàn tật với một tỷ lệ thích hợp và có

công việc phù hợp cho bộ phận lao động này khi thay đổi cơ cấu công nghệ,

nếu cho người lao động thôi việc thì phải trợ cấp mất việc làm.

- Các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình có trách nhiệm tham gia các chương trình GQVL của Chính phủ.

44

Theo đó, Luật Đất đai (sửa đổi và bổ sung năm 2013) chỉ ra rằng:

Việc hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề

và tạo việc làm... đối với trường hợp bị thu hồi đất được quy định cụ thể, rõ

ràng; UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện phương án

đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người có đất thu

hồi là đất nông nghiệp. Đối tượng của Đề án "Đào tạo nghề cho lao động

nông thôn đến năm 2020" - Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ

ngày 27 tháng 11 năm 2009 cũng coi lao động nông thôn bị thu hồi đất

nông nghiệp là một trong những đối tượng của đề án này. Đề án đưa ra yêu

cầu, chính sách cụ thể đối với người học, giáo viên, giảng viên, đối với cơ

sở đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm mục tiêu giải quyết việc làm

cho người lao động ở khu vực nông thôn, trong đó có đối tượng bị thu hồi

đất nông nghiệp.

Tác giả Đinh Thị Nga Phượng, trong luận văn thạc sĩ ngành Luật Kinh

tế với đề tài "Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt

Nam trong thời kỳ hội nhập" đã đưa ra một cách hiểu khái quát về GQVL là:

GQVL là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người

trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang có nhu cầu tìm việc làm

với mức tiền công thịnh hành trên thị trường đều có cơ hội làm việc.

Khi nghiên cứu về vấn đề việc làm và thu nhập của người dân mất đất

tại Huế, tác giả Hà Thị Hằng đưa ra quan niệm về giải quyết việc làm thông

qua đề tài "Việc làm cho người lao động sau thu hồi đất trong quá trình đô thị

hoá ở thành phố Huế hiện nay" là: nội dung của giải quyết việc làm bao gồm

toàn bộ những vấn đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả

nguồn nhân lực. Quá trình đó diễn ra từ giáo dục, đào tạo, phổ cập nghề

nghiệp, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động, cho đến tự

do lao động, tái sản xuất sức lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao

động mà mình làm ra [29].

45

Tác giả Nguyễn Văn Nhường thì lại cho rằng: Chính sách đào tạo nghề

và giải quyết việc làm là những quy định cụ thể của Nhà nước, nhằm giúp cho

người nông dân mất đất sản xuất có thể được học một nghề mới và tìm được

việc làm, duy trì được mức thu nhập ổn định..." [40].

Ngoài ra, theo "Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong

quá trình đô thị hoá " - cuốn sách do tác giả Nguyễn Thị Thơm và Phí Thị

Hằng làm chủ biên thì lại cho rằng: Giải quyết việc làm chính là tạo ra các cơ

hội để người lao động có việc làm và tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của

bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.

Tựu chung lại, các quan niệm khác nhau về giải quyết việc làm của

các tác giả đều bao hàm nội dung chủ yếu: tạo việc làm cho người lao động

chính là việc sử dụng một cách hợp lý nhất nguồn lực con người, nguồn lực

về tài nguyên thiên nhiên để tạo ra của cải cho đất nước nói chung và tạo ra

nguồn thu nhập một cách chính đáng, tương xứng với đóng góp của người

lao động cũng như người sử dụng lao động. Tạo việc làm cho người lao

động là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng chất

lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để kết hợp tư liệu

sản xuất và sức lao động.

Với các quan niệm khác nhau như trên đã tạo ra nhiều cách hiểu

khác nhau về GQVL. Đặc biệt là chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra

quan điểm về GQVL cho nông dân khi thu hồi đất. Vậy, trong luận án này

tác giả cho rằng: Giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất là quá

trình tạo lập môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết, xây

dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại nghề, chuyển

đổi nghề nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ nhằm

bảo đảm thu nhập hợp pháp, ổn định cuộc sống lâu dài cho nông dân khi

thu hồi đất.

46

2.2.2. Nội dung, chủ thể và tiêu chí đánh giá kết quả giải quyết việc

làm cho nông dân khi thu hồi đất

* Nội dung và chủ thể giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất

GQVL cho người lao động chính là quá trình mà người lao động sử

dụng sức lao động của mình có thể tự do tìm kiếm được một công việc phù

hợp, cũng như là quá trình mà người sử dụng lao động có thể tìm kiếm được

những người lao động thoả mãn được những yêu cầu của mình về cả mặt số

lượng và chất lượng. Do vậy, nội dung của giải quyết việc làm cho nông dân

khi thu hồi đất gồm:

- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tổng thể về việc thu hồi đất

nông nghiệp và kế hoạch giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất.

Trước khi tiến hành thu hồi đất, Nhà nước dựa trên quy hoạch tổng thể về kế

hoạch sử dụng đất do Chính phủ ban hành để thực hiện việc thu hồi như: tổng

diện tích đất thu hồi, vị trí đất thu hồi. Sau đó, Nhà nước tiến hành điều tra,

đánh giá xã hội ban đầu để nắm được chính xác đặc điểm cộng đồng dân

chuyển cư, nguồn lao động của cộng đồng người sẽ bị ảnh hưởng bởi dự án;

thống kê, phân tích thực trạng cơ cấu và chất lượng nguồn lao động của nhóm

dân cư đó theo tuổi, theo trình độ học, theo nghề nghiệp, theo đặc điểm gia

đình và theo mức sống; đánh giá tổng quát những ảnh hưởng của việc thu hồi

đất đến đời sống, việc làm của người nông dân.

- Xây dựng môi trường pháp lý, các điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết

nhằm phát triển thị trường lao động. Dựa trên việc đánh giá những tác động

của thu hồi đất đến việc làm của nông dân, Nhà nước xây dựng các văn bản

pháp quy để bồi thường, hỗ trợ người dân mất đất sản xuất nông nghiệp theo

hướng bảo đảm ổn định việc làm và thu nhập hợp pháp cho bản thân người

lao động và gia đình của họ. Đồng thời, Nhà nước xây dựng các điều kiện

kinh tế - xã hội cần thiết để phát triển thị trường sức lao động: mở rộng và

phát triển các trung tâm dịch vụ việc làm, hệ thống thông tin việc làm... để

47

người nông dân nâng cao cơ hội tiếp cận và tìm kiếm việc làm mới.

- Phát triển sản xuất - kinh doanh, nhất là những ngành nghề sử dụng

nhiều lao động để thu hút lao động nông nghiệp sau khi thu hồi đất. Sau khi

thu hồi đất, Nhà nước và các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động nhằm

phát triển sản xuất kinh doanh từ đó tạo ra nhu cầu về việc làm và giải quyết

việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.

- Xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển

đổi nghề nghiệp để người lao động có cơ hội tìm được việc làm. Vì người

nông dân mất việc làm do không có trình độ, chuyên môn nghề nghiệp, do

vậy, Nhà nước xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề,

chuyển đổi nghề nghiệp cho người nông dân theo hướng phù hợp với khả

năng của nông dân, phù hợp với nhu cầu của thị trường nhằm giúp người

nông dân sau khi được đào tạo nghề tìm kiếm được việc làm.

- Phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với các doanh nghiệp

- chủ đầu tư có sử dụng đất thu hồi trong việc đào tạo và bố trí việc làm cho

nông dân bị thu hồi đất vào làm việc trong các doanh nghiệp này. Xây dựng

cơ chế ràng buộc và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng đất

thu hồi của người nông dân trong việc giải quyết việc làm cho người lao động

bị thu hồi đất.

- Tuyên truyền, vận động, giúp đỡ người nông dân khi bị mất đất chủ

động tìm kiếm và lựa chọn nghề nghiệp và việc làm mới phù hợp với bản thân

thông qua các chính sách trợ giúp của Nhà nước và các doanh nghiệp, đồng

thời bản thân người nông dân cũng có cơ hội tìm việc làm và duy trì các công

việc ở các dự án sử dụng đất nông nghiệp thu hồi hoặc tìm được các công việc

khác do sự phát triển kinh tế - xã hội tạo ra. Những nội dung trên được thể

hiện cụ thể trong xác định trách nhiệm của từng chủ thể có liên quan đến thu

hồi đất trong giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất, bao gồm các chủ

thể: người sử dụng lao động, người lao động và vai trò của nhà nước.

48

+ Về phía người sử dụng lao động đó là toàn bộ các doanh nghiệp cả trong

và ngoài nước, với vai trò là tạo ra chỗ làm mới và ổn định việc làm cho nông dân

đã được vào làm việc trong doanh nghiệp. Để tạo được chỗ làm việc, người sử

dụng lao động cần phải có những cơ sở: vốn, công nghệ, kiến thức và kinh

nghiệm tổ chức quản lý cũng như phải tìm được thị trường (cả thị trường đầu vào

và thị trường đầu ra). Trong đó, để tạo được việc làm thì người sử dụng lao động

còn phải đến thị trường lao động để thuê lao động. Chỉ khi nào người sử dụng lao

động tìm được sức lao động phù hợp với nhu cầu của mình cả về chất lượng và số

lượng thì khi đó việc làm mới được hình thành.

Do quá trình thu hồi đất, người nông dân không được sống ở những nơi

đã quen thuộc của họ, với những nghề nghiệp có truyền thống lâu đời. Do đó,

doanh nghiệp cũng có phần trách nhiệm trong việc sử dụng lao động tại địa

phương để GQVL cho người dân có đất bị thu hồi và sử dụng có hiệu quả lực

lượng lao động này.

Các doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận, do đó họ hoàn toàn cần

tuyển những lao động phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình. Tuy

nhiên, khi người lao động bị thu hồi đất, nhất là nông dân, việc đòi hỏi họ

ngay lập tức phải đáp ứng được nhu cầu kỹ thuật trong doanh nghiệp cũng là

vấn đề khó khăn. Vì thế, việc có các quy định trách nhiệm này như thế nào

cũng là vấn đề cần phải được thực hiện và đối với người sử dụng lao động

cần khuyến khích các yêu cầu: hỗ trợ đào tạo nghề và chuyển đổi nghề

nghiệp; hoạt động trong các ngành, nghề thu hút được nhiều lao động; thu

hút và GQVL cho lao động tại chỗ...

+ Về phía người lao động: người lao động muốn có việc làm phải có

sức khoẻ, có trình độ cũng như những kỹ năng cần thiết đáp ứng được yêu cầu

của công việc. Chính vì vậy, người lao động muốn có việc làm thì họ phải

không ngừng hoàn thiện bản thân trên các mặt như: có sức khoẻ để đáp ứng

yêu cầu của công việc, hoàn thiện về kiến thức về kỹ năng chuyên môn. Điều

49

này cho thấy để có được việc làm và duy trì việc làm thì người lao động phải

chủ động nắm bắt những có hội về việc làm. Để GQVL sau thu hồi đất, người

lao động phải đứng trước những thách thức sau:

Thứ nhất, yêu cầu nâng cao trình độ và đào tạo nghề cho người lao động

Việc mở rộng các đô thị, xây dựng các khu công nghiệp là cơ hội rất tốt

cho việc thu hút và GQVL cho người lao động. Cũng theo tính toán của các

chuyên gia của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thì 1 ha đất khi chuyển

sang làm công nghiệp, dịch vụ có thể tạo việc làm cho từ 50 - 100 lao động.

Tuy nhiên, lao động công nghiệp và dịch vụ là lao động đòi hỏi phải có tay

nghề, có chuyên môn và nghiệp vụ, nói cách khác là phải được đào tạo bài

bản. Điều đáng nói là lao động nông thôn của nước ta gần như chưa hề được

đào tạo gì. Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống

kê công bố đầu năm 2004, cả nước có 93% số lao động nông thôn chưa qua

đào tạo, chỉ có 2,3% lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc

công nhân kỹ thuật, 2,4 % có trình độ trung cấp kỹ thuật, 0,8 % có trình độ

cao đẳng, 0,7% có trình độ đại học và tương đương.

Bên cạnh đó, nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm

của nông dân bị thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành công

nghiệp và thương mại - dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu GQVL cho người

lao động, mặt khác do chính bản thân người lao động, vốn xuất phát từ nông

dân, có nhiều hạn chế về năng lực và trình độ văn hoá cũng như trình độ

chuyên môn nghề nghiệp, chưa thích ứng được với công việc mới, không đáp

ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Không ít người sau một thời gian

được nhận vào làm việc tại các nhà máy, các khu công nghiệp do không đáp

ứng được yêu cầu công việc nên buộc phải thôi việc và lại rơi vào tình trạng

không có việc làm. Điều này gây khó khăn cho cuộc sống của chính bản thân

người lao động, đồng thời cũng gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp trong

việc thu hút lao động và ổn định sản xuất. Vì vậy, đó cũng là nguyên nhân

50

quan trọng làm cho các khu công nghiệp thu hút được rất ít lao động nông

thôn và đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đào tạo nghề và nâng cao trình độ cho

người lao động.

Hai là, phải chủ động kết hợp với chính quyền địa phương trong việc

chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của người lao động.

Do quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng

nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, chính vì vậy nó cũng

làm cho tỷ trọng về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế cũng biến đổi

theo hướng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng còn lao

động trong ngành nông nghiệp giảm. Do vậy, người lao động phải chủ động

quan sát nhu cầu của thị trường lao động về những nghề nghiệp mà thị trường

đang có nhu cầu và tham gia vào quá trình đào nghề nghề nghiệp đó.

+ Về phía Nhà nước: Nhà nước có vai trò quan trọng trong tạo việc

làm. Vai trò của nhà nước được thể hiện trong việc tạo môi trường thuận lợi

cho việc làm hình thành và phát triển, tạo môi trường thuận lợi cho người lao

động cũng như người sử dụng lao động phát huy được khả năng của họ, đưa

ra những chính sách liên quan tới người lao động, người sử dụng lao động.

Trong đó đối với người lao động, nhà nước tạo điều kiện cho họ được tiếp cận

với hệ thống giáo dục, đào tạo nghề, trung tâm dịch vụ việc làm ... và đặc biệt

là tạo cơ sở pháp lý để phát triển thị trường lao động. Còn đối với người sử

dụng lao động, Nhà nước có sự hỗ trợ về mặt pháp lý để họ được tự do, bình

đẳng trong kinh doanh, hỗ trợ về vốn, thông tin đào tạo nâng cao kiến thức

quản lý của các doanh nghiệp...

GQVL cho nông dân sau thu hồi đất vừa là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ

cấp bách của toàn xã hội từ đó sẽ tạo ra được các hiệu quả lớn về mặt kinh tế -

chính trị - xã hội. Để bảo đảm lợi ích chính đáng cho người nông dân sau thu

hồi đất thì Nhà nước cần phải hướng vào thực hiện các chính sách và các biện

pháp chủ yếu sau:

51

Thứ nhất, Nhà nước thiết lập các chương trình, kế hoạch chuyển đổi

nghề và GQVL có sự tham gia của các hộ nông dân vùng bị thu hồi đất: xác

định tổng số đất bị thu hồi, xác định tổng số hộ và lao động các độ tuổi bị ảnh

hưởng, xác định nhu cầu lao động phải GQVL (số lao động phải đào tạo và

đào tạo lại, ngành nghề cần đào tạo). Tiếp đó, Nhà nước tiến hành xác định

mức hỗ trợ đào tạo nghề và tìm việc làm mới cho người dân ở mức tối đa

nhất; công bố tiêu chuẩn và phối hợp lập kế hoạch thu hút lao động của các

dự án đầu tư ở địa phương (cam kết giữa chính quyền địa phương với các chủ

dự án đầu tư) với phương châm ưu tiên cho những nông dân bị mất đất và

đứng ra GQVL cho họ nếu đủ điều kiện,...

Thứ hai, Nhà nước tổ chức thực hiện kế hoạch GQVL cho nông dân khi

thu hồi đất: tổ chức đào tạo nghề, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ GQVL cho

nông dân khi thu hồi đất, giám sát thực hiện cam kết giữa chính quyền địa

phương với các chủ dự án đầu tư về thu hút lao động của các dự án đầu tư ở

địa phương, tạo cơ sở pháp lý để người sử dụng lao động và người lao động

có thể hoạt động hiệu quả hơn... Nhà nước hỗ trợ về vật chất khi người nông

dân bị thu hồi đất, thành lập các quỹ GQVL cho người dân nhằm: nâng cao

trình độ, đào tạo nhân lực. Ngoài ra, Nhà nước còn tạo mặt bằng thuận lợi để

hỗ trợ cho các hộ tham gia mở các dịch vụ cho khu công nghiệp, khu đô thị

mới; đồng thời Nhà nước khai thác và phát triển hệ thống thị trường lao động

trong và ngoài địa phương kể cả xuất khẩu lao động ra nước ngoài để góp

phần tăng cầu lao động.

Ngoài ra, các tổ chức chính trị xã hội cũng có vai trò quan trọng trong

việc GQVL cho nông dân sau thu hồi đất: tuyên truyền đường lối chủ trương

của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai đến với nông dân;

làm cho nông dân nhận thức đúng về việc thu hồi đất nông nghiệp trong phục

vụ lợi ích phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, các tổ chức như Hội phụ

52

nữ, Hội nông dân... cũng góp phần tích cực trong việc hướng dẫn chuyển đổi

nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới, tăng thu nhập cho nông dân.

* Tiêu chí đánh giá kết quả giải quyết việc làm cho nông dân khi thu

hồi đất

Để đánh giá kết quả GQVL cho nông dân khi thu hồi đất cần phải dựa

trên các tiêu chí sau đây:

- Thứ nhất, tỷ trọng số người lao động nông thôn khi thu hồi đất tìm

được việc làm và được làm việc trong các khu công nghiệp và khu đô thị mới

trong tổng số lao động nông thôn bị thu hồi đất. Con số này sẽ phản ánh hiệu

quả của các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, của doanh nghiệp và khả năng

thích nghi của chính bản thân người lao động.

- Thứ hai, tỷ trọng số lao động nông thôn được hỗ trợ, đào tạo lại

nghề, chuyển đổi nghề nghiệp và tỷ trọng những người được đào tạo phù

hợp với nhu cầu của thị trường lao động trong tổng số lao động nông thôn

bị thu hồi đất.

- Thứ ba, tỷ trọng những người lao động nông thôn khi thu hồi đất

không kiếm được việc làm ổn định, đời sống bấp bênh, gặp nhiều khó khăn

trong tổng số lao động nông thôn bị thu hồi đất. Con số này phản ánh kết quả

của công tác GQVL cho nông dân, nếu tỷ trọng những người lao động nông

thôn khi thu hồi đất không kiếm được việc làm ổn định, đời sống bấp bênh,

gặp nhiều khó khăn càng lớn thì chứng tỏ các giải pháp của Nhà nước, địa

phương và doanh nghiệp là chưa hiệu quả và không gắn với thực tế của địa

phương đó.

- Thứ tư, tỷ trọng số người lao động nông thôn sau khi thu hồi đất được

nhà nước hỗ trợ xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm trong tổng số lao

động nông thôn bị thu hồi đất.

- Thứ năm, mức độ phối hợp giữa chính quyền địa phương với chủ đầu

53

tư các dự án trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, đào tạo lại

nghề cho người nông dân bị thu hồi đất để có thể thu hút họ vào làm việc trong

các dự án đầu tư.

- Thứ sáu, việc thực hiện các chính sách của Trung ương và địa phương

về GQVL cho người nông dân khi thu hồi đất. Nếu việc thực hiện các chính

sách của Trung ương và địa phương về GQVL cho người nông dân khi thu

hồi đất có tính minh bạch, hiệu quả thì sẽ góp phần giải quyết tốt việc làm và

ổn định cuộc sống của nông dân khi thu hồi đất.

2.2.3. Sự cần thiết giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi

đất nông nghiệp

2.2.3.1. Giải quyết việc làm góp phần ổn định và phát triển kinh tế

Đối với nước ta, tạo thêm việc làm cho người lao động, kiềm chế thất

nghiệp ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước

thường xuyên quan tâm thực hiện.

Sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn

tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và nguồn vốn. Trong đó, việc sử dụng

nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định sự phát triển đó.

Việc làm là trạng thái phù hợp về số lượng và chất lượng giữa tư liệu

sản xuất và sức lao động. Còn lao động là hoạt động có mục đích của con

người, hoạt động diễn ra giữa con người và thế giới tự nhiên. Trong khi lao

động, con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng

công cụ lao động để tác động vào thế giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất

trong tự nhiên, biến đổi những vật chất đó làm cho chúng trở nên có ích cho

đời sống của mình. Đây chính là thực chất của quá trình sản xuất.

Trong các yếu tố cấu thành quá trình lao động sản xuất, yếu tố lao động

và sức lao động là nhân tố quan trọng nhất, nó là nhân tố chủ thể, sáng tạo ra

và sử dụng các nhân tố còn lại của quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm.

54

Con người làm việc trước hết để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần

của bản thân và gia đình của họ và qua đó góp phần phát triển kinh tế xã hội

của đất nước. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động, tức là bảo đảm đồng

thời các lợi ích: Nhà nước, cá nhân người lao động và doanh nghiệp. Ngược

lại, nếu không có việc làm thì người lao động không tạo ra thu nhập, không

cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, cản trở sự

phát triển của kinh tế.

Do đó, muốn tạo ra động lực phát triển kinh tế thì trước hết phải tạo ra

động lực trong lao động. Việc làm phù hợp với khả năng của từng người chính

là tạo động lực trong lao động, thúc đẩy quá trình sản xuất, tạo đà cho sự phát

triển kinh tế.

Đối với nông dân sau thu hồi đất, tạo việc làm cho họ sẽ tạo ra sự ổn

định về mặt kinh tế cho bản thân nông dân nói riêng và cho xã hội nói chung.

Việc làm tạo ra thu nhập, tạo ra công việc hợp pháp để nông dân có thể kiếm

sống và thích nghi với hoàn cảnh sống mới. Ngoài ra, nó còn tạo ra nguồn thu

bổ sung cho ngân sách nhà nước từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Do vậy,

việc hoạch định và thực hiện không tốt chính sách tạo việc làm cho nông dân

khi thu hồi sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực tiếp về kinh tế:

không sử dụng hết tiềm năng lao động để phát triển kinh tế xã hội, không tạo

ra thu nhập cho nông dân để từ đó kích cầu cho sản xuất và tiêu dùng ở khu

vực nông thôn...

2.2.3.2. Giải quyết việc làm góp phần ổn định chính trị - xã hội

Bị thu hồi đất, nông dân đang sinh sống và làm việc ở khu vực nông

thôn sẽ tìm cách di chuyển vào khu vực thành thị để tìm việc làm, tăng thu

nhập cũng như tiếp cận với đời sống hiện đại. Năm 1997 có khoảng 600.000

lao động di cư vào thành thị thì đến năm 2007 có đến 1,1 triệu người di cư

đến thành thị tìm kiếm việc làm. Dòng di chuyển quá lớn của lao động từ

nông thôn ra TP trong khi số lượng VL tại các khu vực đô thị không thể tăng

55

nhanh để có thể thu hút hết sự tăng lên của dân số trong độ tuổi lao động và

do di dân có thể làm tăng thêm các tệ nạn xã hội: mại dâm, cờ bạc, trộm cắp...

Ở họ thường xuất hiện tư tưởng bất cần đời, dễ bị lợi dụng, dễ bị sa ngã, đã

tạo môi trường thuận lợi cho các tệ nạn xã hội phát triển.

Khi đó tệ nạn xã hội là nguồn gốc phát sinh ra tội phạm, đồng thời tội

phạm gắn liền với tệ nạn xã hội. Tệ nạn nghiện ma tuý, mại dâm thường kéo

theo lừa đảo, trộm cắp, cướp giật, thậm chí giết người. Tệ nạn ma tuý, mại

dâm cũng như các tệ nạn xã hội khác thường tạo ra những đường dây, những

tổ chức xã hội đen cấu kết để thực hiện những hành vi phạm tội. Vì vậy tệ nạn

xã hội gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, gây nên những tâm lý bất bình

ổn và bức xúc trong nhân dân.

Khi con người sa vào tệ nạn xã hội thì các giá trị chuẩn mực đạo đức bị

sai lệch thậm chí không còn, các thiết chế văn hoá tốt đẹp của con người, của

gia đình, dòng họ, của cộng đồng dần bị phai mờ thay vào đó là những lối

sống ích kỷ, thực dụng, hưởng thụ, những hành vi mất nhân tính, chà đạp lên

danh dự nhân phẩm của con người, làm hoen ố đến bản sắc văn hoá tốt đẹp

của dân tộc.

Do vậy, tạo việc làm cho nông dân sau thu hồi đất sẽ góp phần ổn

định chính trị, xã hội; khắc phục các tệ nạn nảy sinh trong xã hội; tạo cho

người lao động có cơ hội độc lập về kinh tế và phát triển các mối quan hệ xã

hội; tạo niềm tin cho nông dân trong việc thực hiện đường lối, chủ trương

của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.

2.2.3.3. Giải quyết việc làm góp phần xoá đói, giảm nghèo

Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến xoá đói, giảm nghèo và

xác định đây là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Xoá đói, giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản

lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và

56

công cuộc đổi mới luôn luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã

hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; chính vì thế, đây không chỉ

là việc thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc "thương người như thể

thương thân" mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại

đoàn kết toàn dân tộc. Xoá đói, giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối

lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ,

chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Xoá đói, giảm nghèo không đơn thuần là

sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều

khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng

đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn

định cho giai đoạn tới.

Ngoài ra, đối với nông dân sau thu hồi đất khi có việc làm sẽ tạo ra thu

nhập, từ đó góp phần xoá đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn; thực hiện

hiệu quả chương trình nông thôn mới do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng.

2.2.4. Nhân tố tác động đến giải quyết việc làm cho nông dân khi thu

hồi đất

Tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động, đất đai khu vực nông

nghiệp, nông thôn, tạo động lực mới cho nông dân phát triển kinh tế, tạo

nhiều việc làm, nhất là trong kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, làng

nghề, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn là giải pháp quan trọng để

GQVL, tăng thu nhập cho nông dân sau thu hồi đất. Việc tìm ra các giải

pháp hiệu quả, phù hợp phụ thuộc vào việc đánh giá đúng các nhân tố ảnh

hưởng đến GQVL cho nông dân sau thu hồi đất. Các nhân tố đó là:

- Ảnh hưởng của nhân tố quốc tế

Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là cơ hội tốt

để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, được đối xử bình

đẳng trong một "sân chơi" chung của thế giới. Hội nhập WTO đem lại cho

Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công

57

nghiệp; các rào cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng,

các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động… được thiết lập tạo điều kiện cho lao

động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Gia nhập WTO tạo điều kiện mở

rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại

phát triển. Việt Nam có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế

giới mà là lợi thế của khu vực nông thôn: hàng thủ công mỹ nghệ, hàng gia

công may mặc, nông sản chế biến... điều này góp phần thu hút lao động, tạo

việc làm, giải quyết một phần nạn thất nghiệp.

Những cơ hội to lớn từ đầu tư nước ngoài sẽ đem lại nhiều cơ hội việc

làm cho người lao động, chủ yếu từ khu vực công nghiệp và dịch vụ; thị

trường lao động ngoài nước được mở rộng; lao động Việt Nam có cơ hội

tham gia tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế, tiếp cận với khoa

học - kỹ thuật tiên tiến, đồng thời luôn không ngừng học hỏi, nâng cao trình

độ để vươn lên, tự nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Tuy nhiên, việc gia nhập WTO cũng mang lại nhiều thách thức lớn:

cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn từ cấp độ sản phẩm, doanh

nghiệp đến toàn nền kinh tế, từ bình diện trong nước đến ngoài nước; một

bộ phận doanh nghiệp không thích nghi kịp có nguy cơ phá sản, người lao

động có nguy cơ thất nghiệp, thiếu việc làm, nhất là trong lĩnh vực nông

nghiệp; chất lượng nguồn nhân lực nước ta chưa đáp ứng yêu cầu, gây trở

ngại trong quá trình hội nhập; lao động nước ngoài (đặc biệt là lao động có

kỹ thuật, trình độ quản lý…) tham gia vào thị trường lao động Việt Nam

nhiều hơn, đồng thời lao động của Việt Nam cũng di chuyển ra nước ngoài

nhiều hơn; di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị, vào các

khu công nghiệp tập trung và di chuyển ra ngoài nước kéo theo nhiều vấn

đề xã hội nhạy cảm như nạn "chảy máu chất xám", tình trạng buôn bán phụ

nữ và trẻ em qua biên giới...

58

- Ảnh hưởng của nhân tố trong nước

Thứ nhất, tiềm lực kinh tế, vị trí và lợi thế của địa phương

Tiềm lực kinh tế của địa phương thể hiện rõ nét ở cơ sở hạ tầng kỹ

thuật, tính hiệu quả và đồng bộ của cơ chế quản lý, tốc độ và tính ổn định của

tăng trưởng kinh tế, khả năng kiểm soát tốt các yếu tố rủi ro và lạm phát. Để

GQVL, tiềm lực của kinh tế của địa phương có ảnh hưởng rõ rệt đến việc tạo

ra nhu cầu về việc làm cũng như chất lượng lao động của người nông dân.

Khi địa phương có cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc sẽ tạo ra nhiều cơ hội để

tạo việc làm cho người lao động. Với nguồn ngân sách lớn, địa phương có thể

đẩy mạnh sản xuất cả trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, mở rộng quy mô

đầu tư, sản xuất, thu hút và GQVL cho nông dân sau thu hồi đất. Đồng thời,

địa phương đó cũng có nhiều chương trình, dự án dạy nghề, đào tạo, đào tạo

nghề cho nông dân, từ đó tăng thêm cơ hội việc làm cho người dân.

Với những thuận lợi về vị trí địa lý, về hệ thống giao thông cùng với

tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, phát triển kinh tế; những tác động của

vùng kinh tế tạo cho địa phương có khả năng, cơ hội và nguồn lực lớn hơn

trong việc khai thác, phát huy các nguồn lực nội tại cũng như khai thác, thu

hút các nguồn lực từ bên ngoài để thúc đẩy phát triển và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, góp phần GQVL cho người lao động không chỉ trong nội tại địa

phương đó mà còn có khả năng đưa lao động sang các địa phương lân cận để

tìm kiếm việc làm.

Thứ hai, khả năng thu hút đầu tư để phát triển kinh tế và sản xuất kinh doanh

Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động: Vốn

dùng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, đào tạo

đội ngũ người lao động... Khi lực lượng sản xuất càng phát triển, nền sản xuất

càng coi trọng việc sử dụng máy móc thì lượng vốn đầu tư để có một chỗ làm

việc càng nhiều hơn. Nền sản xuất có nhiều hình thức đầu tư, tức là có nhiều

ngành nghề thì sẽ có điều kiện mở rộng qui mô việc làm. Trong điều kiện

59

trình độ công nghệ không đổi, thì qui mô đầu tư tỷ lệ thuận với qui mô việc

làm. Vốn lớn đem lại lợi thế cho doanh nghiệp và người sản xuất, thực tế là:

muốn phát triển một ngành nào đó đều cần phải có một lượng vốn đầu tư

tương ứng cho một chỗ làm mới.

Ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay, về cơ bản các hộ nông dân đều

thiếu vốn sản xuất. Do vậy, để tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động

nông thôn thì cần phải giúp đỡ người nông dân có khả năng huy động mọi

nguồn vốn vào sản xuất, đồng thời cần hướng dẫn cho người nông dân nâng

cao khả năng quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong sản xuất kinh

doanh và tăng thu nhập.

Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động

Những năm qua, những thành tựu trong tăng trưởng và phát triển kinh

tế đã góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo hướng tăng dần

tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.

Cơ cấu kinh tế thay đổi tác động mạnh đến sự thay đổi cơ cấu lao động. Theo

đó, tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên tương

ứng cũng đòi hỏi sự tăng lên về trình độ của người lao động. Do vậy, điều này

cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến GQVL cho người lao động.

Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì nhu cầu về lao động

tỷ lệ thuận với quy mô sản xuất (quy mô phát triển của nền kinh tế). Khi quy

mô của nền kinh tế được mở rộng, khả năng thu hút vốn đầu tư của nền kinh

tế và của doanh nghiệp cao sẽ tạo ra nhiều chỗ làm mới cho người lao động.

Trái lại, trong trường hợp quy mô sản xuất không đổi thì cầu về lao động tỷ lệ

nghịch với trình độ phát triển của khoa học - kỹ thuật trong sản xuất. Khi

khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển, nó có thể tạo ra được nhiều loại hình

việc làm mới, tuy nhiên nó lại có khả năng thay thế một lượng lớn sức lao

động sống của con người. Do vậy, đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến

cầu lao động về mặt số lượng.

60

Đối với lao động nông nghiệp, việc làm của họ phụ thuộc rất nhiều vào

điều kiện tự nhiên, đặc biệt là yếu tố đất đai. Trong quá trình thu hồi đất để

hình thành các khu công nghiệp và khu đô thị mới, đất đai canh tác nông

nghiệp đã bị thu hẹp dần, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm cho nông

dân, một bộ phận lao động nông nghiệp dôi dư, làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, thiếu

việc làm ở khu vực nông thôn.

Thứ tư, trình độ của người lao động

Việc nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá công nghệ sản xuất,

tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu của nền kinh tế, của doanh nghiệp luôn

gắn liền với việc nâng cao chất lượng lao động. Nếu chất lượng lao động

tốt thì khả năng GQVL cho người lao động sẽ thuận lợi; ngược lại, chất

lượng lao động thấp sẽ gây khó khăn cho người lao động trong việc tìm

kiếm việc làm. Chất lượng lao động lại phụ thuộc rất lớn vào chính sách

giáo dục - đào tạo; chính sách y tế, chăm sóc sức khoẻ của quốc gia đó.

Việc thu hồi đất để hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị mới đã

góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư của

TP. Tuy nhiên, với xuất phát điểm thấp về trình độ học vấn, trình độ chuyên

môn kỹ thuật và nghề nghiệp đã tạo ra sự không phù hợp giữa cung - cầu lao

động. Thậm chí, với những tác phong thiếu chuyên nghiệp, tâm lý tiểu nông

cũng ảnh hưởng đến cơ hội việc làm của người nông dân.

Thứ năm, các chính sách vĩ mô của Nhà nước.

Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo việc

làm, đồng thời điều chỉnh việc làm phù hợp với mục tiêu, trình độ phát triển

của nền kinh tế trong từng thời kỳ.

Nhà nước ta đã có các chính sách kinh tế xã hội chủ yếu tác động tới

phát triển nguồn nhân lực và GQVL như: chính sách phát triển kinh tế nhiều

thành phần: chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu; chính sách

tín dụng ưu đãi để các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ;

61

chính sách khuyến khích tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động, chính sách

giáo dục đào tạo nghề cho lao động; chính sách khuyến khích đầu tư trong và

ngoài nước thông qua chính sách đất đai, thuế, đầu tư...

Thứ sáu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng ảnh

hưởng không nhỏ đến việc GQVL cho nông dân sau thu hồi đất. Chiến lược

này thường được cụ thể hoá bằng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương. Nếu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có tính khả

thi, thì các dự án đầu tư cũng có điều kiện thực hiện thuận lợi và có hiệu quả

kinh tế cao, do đó mà việc GQVL giữa các chủ thể tham gia cũng trở nên

thuận lợi và nhanh hơn. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

có tính khả thi có nghĩa là quy hoạch này phù hợp với quy hoạch phát triển

kinh tế - xã hội của vùng; phù hợp với điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của

địa phương; có lộ trình và các nguồn lực hợp lý để thực hiện... quy hoạch phát

triển kinh tế - xã hội lại được cụ thể hoá bằng quy hoạch sử dụng đất của địa

phương. Việc đánh giá có hệ thống tiềm năng đất đai, những phương án lựa chọn

và áp dụng các phương án sử dụng đất để mang lại lợi ích cao nhất cho người sử

dụng đất mà không làm giảm các nguồn tài nguyên và môi trường, cùng với

việc lựa chọn các biện pháp khuyến khích việc sử dụng đất đó.

Thứ bảy, sự phát triển của thị trường sức lao động có ảnh hưởng trực

tiếp đến việc làm của người lao động. Thị trường lao động phát triển sẽ làm

cho cung - cầu lao động dễ dàng gặp nhau, việc làm sẽ được giải quyết.

Ngược lại, thị trường lao động kém phát triển thì các bên cung - cầu lao động

khó gặp nhau, người lao động và người sử dụng lao động khó gặp được nhau,

việc làm không được giải quyết.

Vấn đề lao động và việc làm cần được quan tâm thường xuyên bởi vì

quá trình thu hồi đất diễn ra thường xuyên và với tốc độ ngày càng nhanh.

Vậy, việc xây dựng các chương trình, dự án cụ thể để giải quyết vấn đề thất

nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới là rất

62

cần thiết. Vấn đề đào tạo, tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề cho nông dân bị

thu hồi đất cần trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong

giai đoạn hiện tại và thời kỳ tới.

Như vậy, vấn đề bất cập hiện nay là quá trình thu hồi đất chưa gắn với

chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động; việc tổ chức thực hiện các chính

sách hỗ trợ chưa thiết thực và đồng bộ; nguồn lực để hỗ trợ dạy nghề, tạo việc

làm cho lao động khu vực chuyển đổi chưa được đầu tư thích đáng. Với mục

tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu hướng mở rộng cơ sở hạ

tầng, phát triển đô thị tiếp tục gia tăng, điều đó không có nghĩa là chuyển đổi

ồ ạt mà phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và việc

GQVL cho người lao động sao cho có hiệu quả.

2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT ĐỊA PHƯƠNG TRONG GIẢI QUYẾT

VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT

2.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng

Năm 1997, Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung

ương và đến cuối năm 2003 được Chính phủ xếp hạng là đô thị loại I cấp

quốc gia. Dân số của TP đến cuối năm 2004 là 763.300 người, GDP đạt

9564,4 nghìn tỷ đồng. Số người trong độ tuổi lao động của TP là 349.439

người, được phân chia theo khu vực thành thị là 276.480 người và khu vực

nông thôn là 72.959 người.

Kết quả khảo sát ở Đà Nẵng cho thấy: Lao động trong khu vực nông

nghiệp - ngư nghiệp thì có 30,05% giữ nguyên nghề cũ, chuyển sang nghề

khác là 18,94%, có việc làm không ổn định là 16,17% và không có việc làm

là 34,84%. [94] Hơn nữa trong số này có nhiều người có nhu cầu học nghề

còn lại là không đủ điều kiện để học nghề; số lượng lao động mất việc làm

khá lớn đang trở thành những bức xúc đòi hỏi thành phố phải có những giải

pháp để khắc phục.

63

Đứng trước những vấn đề này TP đã có những giải pháp để góp phần

tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động ngoại thành chịu tác

động của quá trình đô thị hoá:

- Tiếp tục thực hiện đầy đủ các chính sách bồi thường thiệt hại, hỗ trợ

và tái định cư cho người dân khi nhà nước thu hồi đất, bên cạnh đó thường

xuyên rà soát bổ sung điều chỉnh chính sách cho phù hợp.

- Cho vay vốn để sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn vay của Ngân hàng

chính sách, nguồn quỹ quốc gia GQVL.

- Miễn thuế, giảm thuế sản xuất kinh doanh đối với những hộ nông dân

chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá buộc phải chuyển qua sản xuất kinh

doanh ở những ngành nghề khác

- Tăng đầu tư ngân sách và mở rộng hoạt động dạy nghề, đặc biệt

tăng chỉ tiêu dạy nghề dài hạn bằng ngân sách để từng bước tăng nhanh đội

ngũ công nhân lành nghề cho thành phố, tiếp tục duy trì chỉ tiêu dạy nghề

ngắn hạn do ngân sách đài thọ.

- Vận động nông dân lập trang trại, thuê mặt nước để nuôi trồng thuỷ

sản tự tạo việc làm cho mình cũng như cho người khác. Muốn vậy phải đẩy

mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến ngư tăng cường chuyển giao kỹ thuật,

mở các lớp huấn luyện kỹ thuật bồi dưỡng bổ túc nghề.

- Có văn bản quy định đối với các doanh nghiệp được giao đất tại các

khu công nghiệp trên địa bàn giải toả phải có trách nhiệm tiếp nhận người lao

động trong diện chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá vào làm việc tại

doanh nghiệp

- Sở Lao động – Thương binh xã hội thành phố Ðà Nẵng chỉ đạo ngành

tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp, trong đó tập trung phối hợp với

Hội Nông dân thành phố điều tra, khảo sát tình hình đời sống hộ lao động bị

mất đất sản xuất, di dời giải toả trên địa bàn, phân loại nguồn lao động của

64

các hộ để có kế hoạch đào tạo nghề và GQVL phù hợp.

Nhờ đó, Thành phố đã thu được một số kết quả: GQVL cho 80.000 lao

động mỗi năm, tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn lên 82%.

Nhìn chung, cơ cấu lao động đã chuyển dịch phù hợp với cơ cấu phát triển

của thành phố theo hướng công nghiệp - du lịch - dịch vụ làm mũi nhọn.

2.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương

Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng

trọng điểm kinh tế phía Bắc, với diện tích là 1.661 km2, trong đó đất nông

nghiệp chiếm 63,15%; đất lâm nghiệp chiếm 5,48%. Hải Dương là tỉnh có

những thay đổi lớn về kinh tế- xã hội do tác động của việc thu hút các nhà

đầu tư trong và ngoài nước, cũng như chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp.

GDP của tỉnh liên tục tăng cao trong giai đoạn 2000 - 2005 với tốc độ

bình quân đạt 10,8%/năm. Năm 2006, tốc độ tăng GDP đạt 13,4 %/năm. Cơ

cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại với tỷ trọng công nghiệp - nông

nghiệp - dịch vụ năm 2000 là 37,2% - 34,8% - 28% thì đến năm 2006 đạt

43,7% - 26,9% - 29,4%.

Hải Dương là tỉnh có phần lớn dân số trong độ tuổi lao động sống ở

nông thôn (82,5%). Cơ cấu lao động cũng còn hết sức lạc hậu, chủ yếu vân là

lao động nông nghiệp (67,81%), chủ yếu là lao động giản đơn, chưa qua đào

tạo, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật còn thấp.

Trên địa bàn Hải Dương tập trung nhiều khu công nghiệp: Đại An,

Cẩm Thượng, Việt Hoà..., các KCN này đã góp phần rất lớn vào phát triển

kinh tế của tỉnh. Song cũng đặt tỉnh trước những thách thức lớn về việc làm

do trong quá trình hình thành các khu công nghiệp đã dẫn đến việc thu hồi đất

của nông dân.

Từ năm 2000 đến 2007, Hải Dương đã có hàng ngàn ha đất nông

65

nghiệp bị thu hồi. Chỉ tính riêng TP Hải Dương đã thu hồi 1.120 ha đất nông

nghiệp và đến năm 2010 đất nông nghiệp của TP chỉ còn khoảng 200 ha. Việc

thu hồi đất nhằm thực hiện CNH, đô thị hoá đã liên quan đến việc làm của

13.000 người lao động, trong đó có 9.100 người lao động chưa tìm được việc

làm (năm 2007).

Để giải quyết vấn đề trên, tỉnh Hải Dương đã đặt ra mục tiêu trong

giai đoạn 2006 - 2010 là: mỗi năm phải tạo việc làm mới cho từ 3 đến 3,4

vạn lao động. Trong 5 năm sẽ tạo việc làm cho trên 160.000 người. Dự

kiến đến năm 2010 có từ 35- 40% lao động được qua đào tạo. Tỷ lệ thất

nghiệp thành thị năm 2010 giảm xuống còn 3%, tỷ lệ thời gian lao động ở

nông thôn tăng lên là 85%. Thực hiện mục tiêu trên, Hải Dương đã đưa ra

một số biện pháp cơ bản:

+ Tạo việc làm qua giáo dục - đào tạo, đặc biệt là hệ thống đào tạo

nghề và hướng nghiệp cho lao động nông thôn trong đó chú trọng đến các lớp

dạy nghề ngắn hạn để trang bị tay nghề cho người lao động, thông qua đó họ

có thể tìm cho mình một công việc phù hợp cũng như tự tạo việc làm cho

chính bản thân cũng như góp phần vào công việc chung của tỉnh. Tỉnh khuyến

khích các nhà đầu tư vào tỉnh sẽ được cung cấp lao động đã qua đào tạo, trong

trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu riêng sẽ được cấp kinh phí hỗ trợ đào tạo

từ ngân sách của tỉnh.

+ Tạo việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,

trước hết là chương trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hoá, phát triển các làng nghề truyền thống để thu hút lao động: trồng vải, bánh

đậu xanh, bánh gai và nhiều đặc sản khác của địa phương nhờ vậy người lao

động đã được thu hút vào đây, giảm thời gian nông nhàn và tăng thêm thu

nhập cho bản thân. Từ năm 2006 đến năm 2007, chương trình này đã tạo gần

3000 việc làm mới.

66

+ Giải quyết việc làm qua chương trình phát triển công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp. Giữa năm 2007, các khu công nghiệp đã thu hút 10.992

lao động, cụm công nghiệp, làng nghề tạo việc làm cho hơn 33.000 lao

động. Điều đó cho thấy, đây là giải pháp quan trọng và hiệu quả trong việc

tạo việc làm cho người lao động khi mất đất.

+ Tạo việc làm qua chương trình phát triển dịch vụ: bảo hiểm, vận tải, bưu

chính viễn thông,... lĩnh vực này đã tạo việc làm mới cho gần 10.000 lao động.

+ Tạo việc làm thông qua nguồn vốn vay quỹ Quốc gia về giải quyết

việc làm. Nguồn vốn vay này được tập trung chủ yếu cho phát triển dịch vụ

nông nghiệp, hình thành các cơ sở sản xuất tư nhân, doanh nghiệp tư nhân và

phục vụ cho phát triển công nghiệp truyền thống để tạo thêm việc làm cho

người lao động nông thôn.

+ Tạo việc làm thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động ra các thị

trường, trong đó chú trọng đến lao động ở khu vực nông thôn, khu vực bị tác

động của quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá trên cơ sở trang bị cho họ một

trình độ nhất định về tay nghề, chuyên môn kỹ thuật.

2.3.3. Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc là tỉnh tái thành lập từ 1997. Từ một tỉnh thuần nông, Vĩnh

Phúc đã trở thành một trong những địa phương có mức tăng trưởng GDP rất

cao, năm 2006 đạt 16,98%, năm 2007 đạt 19,2%, năm 2008 đạt 14,78%. Kết

quả trên có được nhờ Vĩnh Phúc thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, thu hút đầu tư nước ngoài. Từ đó, tăng nhanh tỷ trọng của

ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trong nông nghiệp.

Để bảo đảm việc làm của người dân khi bị thu hồi đất, chuyển đổi mục

đích sử dụng đất, Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể, doanh nghiệp và nhân

dân đã cùng nhau thực hiện các giải pháp:

- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu cây trồng,

vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo thêm nhiều việc làm cho nông

67

dân. Việc hình thành các vùng chuyên canh như trồng hoa ở Mê Linh, nuôi bò

ở Vĩnh Tường, cây ăn quả ở Lập Thạch, đưa các giống cây, con có năng suất

và hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất: bò sữa, lợn siêu nạc... nhờ đó đã tạo ra

rất nhiều việc làm cho bà con nông dân, góp phần ổn định cuộc sống.

- Phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp, khôi phục, phát triển các

làng nghề, GQVL cho số đông lao động nông thôn, tỉnh Vĩnh Phúc đã đầu tư

xây dựng 9 cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề, thu hút được trên 100 cơ sở

sản xuất.

- Phát triển các ngành dịch vụ: ngoài mức giá bồi thường cho mỗi hộ

trung bình 13,68 triệu đồng/ sào, tỉnh có chính sách giao đất dịch vụ cho nông

dân bị thu hồi đất. Chính sách cấp đất dịch vụ là một trong những sáng tạo lớn

của tỉnh nhằm giải quyết vấn đề chuyển đổi nghề và thu nhập hậu giải phóng

mặt bằng.

- Chỉ đạo các địa phương có diện tích đất bị thu hồi lớn như Vĩnh Yên,

Phúc Yên quy định khu tái định cư, bảo đảm điều kiện sống, sinh hoạt cho

người dân tốt hơn nơi ở cũ.

- Khuyến khích nông dân góp cổ phần vào các doanh nghiệp bằng quyền

sử dụng đất, tăng cường mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người lao động.

- Quan tâm thu hút và đầu tư phát triển các cơ sở dạy nghề như xây

dựng các trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề tại các huyện, thị. Đồng thời,

tỉnh đã chú trọng hỗ trợ kinh phí học nghề cho những học sinh thuộc diện

con em những người bị thu hồi đất.

2.3.4. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong việc giải quyết việc

làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội

Thu hồi đất nông nghiệp phục vụ phát triển kinh tế ở mỗi địa phương

và đất nước là một tất yếu trong quá trình CNH và đô thị hoá. Tuy nhiên, việc

tổ chức thực hiện các chính sách sau thu hồi đất ở mỗi địa phương còn khác

nhau về nội dung, hình thức, bước đi; vẫn còn bộc lộ nhiều vướng mắc, hạn

68

chế và bức xúc. Qua thực tế công tác GQVL cho nông dân sau thu hồi đất ở

Đà Nẵng, Hải Dương và Vĩnh Phúc có thể nhận thấy một số bài học kinh

nghiệm sau:

- Để giúp người lao động có cơ hội tìm được việc làm mới do yêu cầu

của chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nghề nghiệp thì cần phải tập trung vào vấn

đề đào tạo trình độ cho người lao động thông qua nhiều hình thức khác nhau:

doanh nghiệp tự đào tạo, truyền nghề, đi học nghề ở các trung tâm đào tạo;

cần có kế hoạch cụ thể chi tiết để đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm cho nông

dân khi thu hồi đất.

- Điều chỉnh tiến độ qui hoạch, chỉnh trang đô thị, xây dựng các khu tái

định cư phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của thành

phố, có kế hoạch tổng thể để chỉ đạo việc di dời, tái định cư có trọng điểm.

- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng, của các đoàn thể, các tổ chức

chính trị - xã hội trong việc ổn định đời sống, tổ chức học nghề, tạo việc làm.

- Phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình kinh tế và thúc đẩy thị

trường lao động phát triển, trong đó nhấn mạnh xuất khẩu lao động để GQVL

cho người dân.

- Tăng cường mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người lao động để các

doanh nghiệp có chính sách ưu tiên, thu hút và sử dụng lao động tại chỗ, lao

động bị mất đất.

- Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ Quỹ quốc gia GQVL.

Đây là những bài học kinh nghiệm thực tiễn rất có ý nghĩa để các địa

phương học tập, vận dụng một cách một cách sáng tạo vào thực tiễn GQVL

cho nông dân sau thu hồi đất ở Hà Nội trong những năm tiếp theo khi mà tốc

độ đô thị hoá, công nghiệp hoá ngày càng diễn ra nhanh hơn, mạnh mẽ hơn

trong tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.

69

Chương 3

THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN

KHI THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

3.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HÀ

NỘI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG

DÂN KHI THU HỒI ĐẤT

3.1.1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thủ đô Hà Nội

TP Hà Nội là Thủ đô của Việt Nam, có vị trí địa lý chính trị quan trọng,

có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác trong cả nước. Nghị quyết 15

NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 15 tháng 12 năm 2000) đã xác định: Hà Nội

là trung tâm chính trị - hành chính - kinh tế - văn hoá của cả nước. Tầm nhìn

đến năm 2050, Hà Nội là Thủ đô và là đô thị đặc biệt, văn hiến, văn minh,

thanh lịch, đẹp, giàu bản sắc dân tộc và hiện đại, tiêu biểu cho cả nước, xứng

đáng là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia của một

nước phát triển [84] .

Trải qua các thời kỳ biến đổi lịch sử và 4 lần điều chỉnh địa giới kể từ

năm 1961, sau khi mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008 Hà Nội

có diện tích 3.344,6 km2 (kết quả kiểm kê đất đai năm 2010 có diện tích tự

nhiên là 3.328,89 km2), Hà Nội được tổ chức thành 29 quận, huyện với 577

phường, xã và thị trấn. Hà Nội nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc giáp tỉnh

Thái Nguyên và tỉnh Vĩnh Phúc; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam và tỉnh Hoà

Bình; phía Đông giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; phía Tây

giáp tỉnh Hoà Bình và tỉnh Phú Thọ. Hà Nội còn là một cực động lực của tam

giác phát triển (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) thuộc vùng kinh tế trọng

điểm phía Bắc, có vai trò tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế, xã hội

không chỉ của khu vực Bắc Bộ mà còn trên phạm vi cả nước.

70

Hà Nội có hệ thống giao thông khá phát triển và đa dạng cả về

đường bộ, đường hàng không, đường sắt, đường thuỷ. Hà Nội có hai sân

bay dân dụng, là đầu mối giao thông của 5 tuyến đường sắt, 7 tuyến đường

quốc lộ đi qua trung tâm. Đường bộ có các trục giao thông huyết mạch

như: quốc lộ 1, 2, 3, 5, 6, 18,… Đường sắt có tuyến Bắc - Nam, Hà Nội -

Lào Cai, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Hải Phòng,

Hà Nội - Kép - Hạ Long. Ngoài ra, Hà Nội còn có các tuyến giao thông

đường thuỷ dọc theo sông Hồng đi một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng và

ngược lên Tây Bắc (theo Sông Đà), Việt Bắc (theo sông Thao), đi Phú Thọ,

Tuyên Quang (theo sông Lô) ...

Đó là những lợi thế của Hà Nội, đồng thời các yếu tố này kết nối

chặt chẽ giữa Hà Nội với các trung tâm trong cả nước và tạo ra những

thuận lợi để Hà Nội phát triển mạnh giao lưu kinh tế với các địa phương

trong và ngoài nước; tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế,

khu vực và cùng hội nhập với quá trình phát triển năng động của khu vực

Đông Á - Thái Bình Dương. Trong vùng Thủ đô, Hà Nội được khẳng định

là TP trung tâm của vùng với mô hình chùm đô thị có hệ thống trung tâm

hiện đại, đầu mối giao thông chính, trung tâm nghiên cứu, dịch vụ tài

chính, thương mại, văn hoá, du lịch và dịch vụ hạ tầng xã hội mang tầm

khu vực Đông Nam Á.

Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước,

là trung tâm hàng đầu về khoa học - công nghệ, đào tạo, y tế, văn hoá; Hà Nội

còn có các cơ quan ngoại giao, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc

tế; là trung tâm văn hoá - khoa học kỹ thuật hàng đầu trong nước với hàng

trăm trường đại học, viện nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực, trực tiếp hoặc gián

tiếp mang lại tác động thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa

bàn Hà Nội.

71

3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội

3.1.2.1. Về kinh tế

Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất

nước thì TP Hà Nội đang từng bước vươn lên phát triển kinh tế mạnh mẽ.

Với cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, TP

đang từng bước đạt được những kết quả nhất định trong quá trình CNH,

HĐH. So với cả nước, Hà Nội luôn là một trong những địa phương có tốc

độ tăng trưởng kinh tế cao. Trong 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng GDP

bình quân hàng năm đã tăng lên: nếu như thời kỳ 1986 - 1990 là

7,1%/năm đã tăng lên 12,52%/năm thời kỳ 1991 - 1995 và đạt

10,18%/năm thời kỳ 1996 - 2000 và thời kỳ 2001- 2005 đạt là tốc độ tăng

GDP bình quân là 11,1%/năm.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm (giai đoạn 2006 - 2010)

là 10,7%/năm, cao gấp 1,5 lần cả nước. Trong đó, tốc độ tăng trưởng ngành

nông nghiệp là 3,4%; ngành dịch vụ là 10,6%; ngành công nghiệp có tốc độ

tăng trưởng cao nhất với 12,9%. Với tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp

thấp hơn nhiều so với các ngành phi nông nghiệp, đóng góp vào tăng

trưởng của ngành nông nghiệp đã giảm đi nhanh từ 4,l% thời kỳ 2001 -

2005 xuống còn l,l% năm 2010 (năm 2010, tổng sản phẩm nội địa (GDP)

tăng 11% so với năm 2009, trong đó ngành công nghiệp tăng 11,6%, các

ngành dịch vụ tăng 11,1%, ngành nông, lâm, thuỷ sản tăng 7,2%). Xét tổng

cả thời kỳ 2001 - 2010, mức đóng góp cho tăng trưởng của ngành nông

nghiệp đạt khoảng 2,7%.

72

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế của Hà Nội

Đơn vị: tỷ đồng, %

TT Hạng mục 2000 2005 2009 2010

1 GDP (giá CĐ 94) 26.228 44.130 66.175 73.478

- Nông - lâm nghiệp, thuỷ sản 3.282 4.013 4.272 4.567

- Công nghiệp - Xây dựng 9.247 17.334 27.924 31.169

- Dịch vụ 13.699 22.783 33.979 37.742

2 GDP (giá TT) 39.944 92.425 210.006 246.723

- Nông - lâm nghiệp, thuỷ sản 4.154 6.390 13.004 14.322

- Công nghiệp - Xây dựng 14.542 37.531 87.104 103.035

- Dịch vụ 21.248 48.504 109.898 129.366

3 Cơ cấu kinh tế (%) 100 100 100 100

Nông - lâm nghiệp, thuỷ sản 10,4 6,9 6,2 5,8

Công nghiệp - Xây dựng 36,4 40,6 41,5 41,8

Dịch vụ 53,2 52,5 52,3 52,4

Nguồn: [20, tr.60].

Theo bảng 3.1, tổng sản phẩm nội địa của Hà Nội (GDP) năm 2009

đạt 210,0 nghìn tỷ đồng (giá thực tế), năm 2010 đạt 246,7 nghìn tỷ đồng

chiếm hơn một nửa tổng GDP vùng Đồng bằng sông Hồng và 12,73% cả

nước. Nếu xét theo thứ tự về quy mô GDP theo tỉnh, thành cả nước, Hà Nội

đứng vị trí thứ hai (bằng 52,0%) còn tổng GDP của địa phương đứng đầu là

TP Hồ Chí Minh.

Cơ cấu kinh tế theo ngành của Hà Nội có sự dịch chuyển khá nhanh

theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành nông nghiệp chỉ còn 5,8% năm 2010.

Ngành thương mại dịch vụ có tỷ trọng là 52,4%, công nghiệp - xây dựng có tỷ

trọng 41,8%. Trong cơ cấu kinh tế trên địa bàn TP năm 2010, thương mại

dịch vụ là ngành có tỷ trọng cao nhất; Hà Nội là một trong số ít địa phương có

73

tỷ trọng thương mại dịch vụ cao hơn ngành công nghiệp.

Các thành phần kinh tế đều được TP khuyến khích phát triển. Các

doanh nghiệp Nhà nước được củng cố, sắp xếp lại, tiếp tục giữ vị trí

quan trọng (năm 2010 kinh tế nhà nước chiếm 45,7% trong cơ cấu

GDP). Kinh tế ngoài Nhà nước phát triển mạnh cả về số lượng và quy

mô, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và GQVL. Khu vực kinh

tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao

trình độ công nghệ, trình độ quản lý và tay nghề của người lao động.

Hình thành nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty mạnh, có khả

năng cạnh tranh cao hơn.

Năm 2011, tổng sản phẩm nội địa của Hà Nội đạt 80.952 tỷ đồng,

chiếm 10,14% so với cả nước; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 121.310 tỷ

đồng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 525,7 triệu USD, từ đó đã tạo ra

sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ năm 2011

tương ứng là 5,6% - 41,9% và 2,5%.

Thủ đô Hà Nội là một thành phố có kinh tế ''mở'', mức xuất nhập

khẩu năm 2009 chiếm 283% GDP. Xuất khẩu bình quân đầu người năm

2008 đạt mức hơn l.087 USD/người, năm 2010 là 1.225,3 USD/người,

năm 2011 là 1.520,2 USD/người. Tuy vậy, năm 2008 mức xuất khẩu của

TP chỉ bằng 33,4% so với nhập dkhẩu; thâm hụt thương mại của TP lên

tới 16,2 tỷ USD, năm 2010 giảm thâm hụt còn 13,3 tỷ USD (gấp hơn l,54

lần GDP của cả TP).

Hà Nội là một trong số ít địa phương trong nhiều năm có mức bội thu

ngân sách và đóng góp lớn cho ngân sách Trung ương. Năm 2009, tỷ lệ thu

ngân sách huy động vào GDP là 37,8% và mức bội thu ngân sách đạt hơn

44,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,8% GDP. Năm 2010, Hà Nội đóng góp 10%,

năm 2011 đóng góp 17% tổng thu ngân sách Nhà nước trong cả nước.

74

Bảng 3.2: Tình hình xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Hà Nội

phân theo thành phần kinh tếĐơn vị: Triệu USD

2005 2007 2008 2009 2010

- Kinh tế nhà nước 1.741,0 2.567,0 3.270,0 2.805,0 3.279,0

- Kinh tế ngoài nhà nước 302,0 513,0 880,0 931,0 1.200,0

- KV có vốn đầu tư nước ngoài 960,0 1.992,0 2.754,0 2.592,0 3.630,0

Tổng 3.003,0 5.072,0 6.904,0 6.328,0 8.109,0

Nguồn: Cục Thống kê Hà Nội

Bảng số liệu 3.2 cho thấy: tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông

nghiệp trên địa bàn năm 2009 đạt 6.328 triệu USD, trong đó nông sản phẩm

xuất khẩu là 842 triệu USD, chiếm 13,3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn TP;

năm 2010 xuất khẩu đạt 8.109 triệu USD, trong đó hàng nông sản đạt 869

triệu USD.

3.1.2.2. Về xã hội

* Dân số

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của TP Hà Nội có xu hướng tăng lên từ

1,169% năm 2000 lên 1,175% năm 2005 và 1,267% năm 2009.

Dân số trung bình năm 2010 toàn TP có 6.617,9 nghìn người tăng

2,17% so với năm 2009, trong đó nam có 3.218,8 nghìn người chiếm 48,63%,

nữ có 3.399,1 nghìn người chiếm 51,37%.

Bảng 3.3: Dân số trung bình ở Hà Nội

Đơn vị tính: 1000 người

2005 2007 2008 2009 2010 2011

Toàn thành 5910,2 6159,3 6350,0 6476,9 6617,9 6679,3

Nam 2915,8 3023,5 3110,3 3190,2 3218,8 3318.4

Nữ 2994,4 3135,8 3239,7 3286,7 3399,1 3460.9

Thành thị 2300,3 2424,8 2566,3 2744,5 2816,5 2880,6

Nông thôn 3609,9 3734,5 3783,7 3732,4 3801,4 3898,7

Nguồn: [21, tr.25].

75

Tốc độ đô thị hoá đạt khá cao trong giai đoạn 200l - 2005 (5,6

%/năm) và 2,96 %/năm giai đoạn 2006 - 2009, đưa tỷ lệ đô thị hoá của

TP từ 33,2% năm 2000 lên 39,6% năm 2005 và đạt 40,8% năm 2009.

Điều đó đã làm cho dân số thành thị không ngừng gia tăng. Năm 2010

dân số khu vực nội thành và khu vực thành thị tăng so với năm 2009 từ

2,5% đến 2,8%, trong khi dân số ngoại thành và khu vực nông thôn chỉ

tăng từ 1,6% đến 1,9%. Đến năm 2011, dân số trung bình toàn TP là

6.679,3 nghìn người với 2.880,6 nghìn người sống ở thành thị và 3.898,7

nghìn người sống ở nông thôn (chiếm 58% dân số toàn thành).

* Về lao động, việc làm

Tổng lao động ở nông thôn năm 2009 là 2,41 triệu người, bằng

54,52% tổng lao động toàn TP. Cơ cấu lao động ở nông thôn có sự

chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Tỷ lệ thu

hút của các ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ, nông - lâm nghiệp

năm 2010 là 41,2%, 47,3%, 11,5% so với năm 2006 là 35%, 43,4%,

23,6%. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 6,06% năm 2006 xuống còn

5,35% năm 2008, năm 2010 giảm còn 5,0%.

Bảng 3.4: Lực lượng lao động của Hà Nội

Đơn vị: Nghìn người

2000 2005 2009 2010

1. Dân số trong độ tuổi lao động 3.571 3.842 4.034 4.079

2. Dân số trong độ tuổi lao động

có khả năng lao động3.464 3.731 3.920 3.964

3. Số người đang làm việc trong

các ngành kinh tế quốc dân2.309 2.674 3.114 3.239

4. Số người trong độ tuổi có khả

năng lao động không có VL97 89 84 83

Nguồn: Cục thống kê Hà Nội

76

Bảng số liệu 3.4 cho thấy, dân số trong độ tuổi lao động tăng đều

qua các năm. Đi ngược với sự tăng lên của lao động có việc làm trong các

ngành kinh tế quốc dân thì số lượng lao động có khả năng lao động nhưng

không có việc làm lại giảm xuống. Năm 2005, số lao động có việc làm là

2.674, năm 2010 là 3.239 nghìn người; tương ứng số lao động không có

việc làm là 89 nghìn người năm 2005 đã giảm xuống còn 83 nghìn người.

Điều này phản ánh phần nào vai trò của công tác GQVL cho lao động của

TP đạt được nhiều thành tựu khả quan. Đặc biệt, nông thôn Hà Nội là địa

bàn dồi dào về nguồn nhân lực với khoảng 2,4 triệu lao động trong độ tuổi

(chiếm hơn 59% dân số nông thôn). Nhìn chung, lực lượng lao động nông

thôn của TP có trình độ văn hoá, năng động và hàng năm khu vực nông

thôn có trên 100 nghìn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, cung cấp

nhân lực cho hệ thống đào tạo cũng như cho các nhu cầu lao động khác

của các ngành kinh tế trên địa bàn. Có thể nói, nông thôn Hà Nội là địa

bàn giàu tiềm năng về nguồn nhân lực để cung cấp cho nhu cầu phát triển

kinh tế - xã hội của TP.

* Về văn hoá, thu nhập, mức sống

Trong các năm đổi mới, Đảng bộ và chính quyền TP có nhiều chỉ

thị, nghị quyết nhằm bảo đảm hài hoà mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát

triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội. Trong đó, giáo dục, đào tạo,

chăm sóc sức khoẻ, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần cho nhân dân, hạn chế các tiêu cực xã hội là những vấn đề luôn

được đặt ra trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của TP. Cụ

thể như sau:

+ Đào tạo nhân lực: Trên địa bàn Hà Nội năm 2005 có 193 trường đào

tạo công nhân kỹ thuật thì năm 2010 đã là 252 trường. Số trường trung học

77

chuyên nghiệp và trường cao đẳng, đại học không ngừng tăng lên. Năm

2010, Hà Nội có 50 trường trung học chuyên nghiệp và 77 trường cao đẳng,

đại học (bảng 3.5).

Bảng 3.5: Trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng,

đại học trên địa bàn Hà Nội

Đơn vị: Trường

2005 2007 2008 2009 2010

I. Công nhân kỹ thuật 193 228 279 252 252

- Cao đẳng, trung cấp nghề, dạy nghề 33 46 48 48 48

- Đại học.cao đẳng, TCCN có dạy nghề 29 31 34 34 34

- Trung tâm dạy nghề 40 41 50 50 50

- Cơ sở khác dạy nghề 91 110 147 120 120

II. Trung học chuyên nghiệp 47 43 45 47 50

III. Cao đẳng, đại học 62 72 77 77 77

Nguồn: [20, tr.345, 346].

Trong các năm phát triển nền kinh tế thị trường, công tác dạy nghề

đã có những bước chuyển không những chỉ về số lượng mà cả về chất

lượng đào tạo. Một bộ phận trường dạy nghề của địa phương đã được đầu

tư nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật, đổi mới nội dung, quy trình, phương

pháp đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, từng bước gắn đào tạo với yêu

cầu của thị trường lao động. Đặc biệt, chính quyền TP đã và đang có sự

quan tâm phát triển các trung tâm dạy nghề tại các quận, huyện nhằm mở

rộng quy mô đào tạo nghề, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá và đô thị hoá. Ngoài ra, hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp,

cao đẳng, đại học và các viện nghiên cứu tham gia đào tạo lực lượng lao

động cho TP ngày càng tăng.

78

Bảng 3.6: Giáo viên, học sinh các trường dạy nghề,

trung học chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học

Đơn vị: Người

2005 2007 2008 2009 2010

I. Công nhân kỹ thuật

- Giáo viên

- Học sinh tuyển mới 62500 77500 117000 134735 140000

II. Trung học chuyên nghiệp

- Giáo viên 3496 2912 2950 2970 3556

- Học sinh tuyển mới 65543 54844 56000 55945 75652

III. Cao đẳng, đại học

- Giáo viên 14561 16340 16520 16541 17310

- Học sinh tuyển mới 512640 640575 643500 643350 679510

Nguồn: [20. tr.345, 346].Với số liệu trong bảng 3.6 cho thấy: Hà Nội đã xây dựng được một đội

ngũ giáo viên đông đảo để phục vụ cho sự nghiệp giao dục văn hoá, đào tạo

nghề của TP. Ngoài ra, bảng số liệu trên cũng chỉ ra rằng TP đã đào tạo được

một số lượng lớn lao động có trình độ, năng lực để đáp ứng yêu cầu của thị

trường và đất nước.

+ Chăm sóc sức khoẻ nhân dân: Mạng lưới y tế của TP đã được tăng

cường cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đổi mới phương thức hoạt động nhằm

đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Các xã phường đã có trạm y

tế. Công tác bảo vệ trẻ em được quan tâm hơn. Bảo hiểm y tế không ngừng

được mở rộng và phát huy tác dụng đối với chăm sóc sức khoẻ của các tầng

lớp nhân dân (xem phụ lục 5)

+ Công tác văn hoá, thông tin: Công tác văn hoá thông tin của TP có bước

phát triển mới trong các năm qua, hệ thống phát thanh truyền hình được mở rộng

và hiện đại hoá, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân TP. Sự phát

triển của ngành du lịch cũng là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế,

GQVL, đồng thời thực hiện việc trùng tu, tôn tạo các di tích văn hoá, di tích lịch

79

sử và cách mạng tạo nên diện mạo của TP hiện đại và đậm nét dân tộc.

Ở khu vực nông thôn, 75 xã (18,7%) có nhà văn hoá xã và 266 xã

(81,3%) chưa có nhà văn hoá xã. Hệ thống thư viện tại tuyến huyện được đầu

tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nên đã nâng cao năng lực phục vụ

nhân dân. 100% xã có điểm bưu điện văn hoá xã; 95,26% số xã có Internet và

30% số thôn có Internet, có 68,26% số hộ sử dụng điện thoại, số máy điện

thoại cố định đạt 21 máy/100 dân. Tỷ lệ số xã có đài truyền thanh xã đạt

100%. Tỷ lệ số hộ có máy thu hình đạt trên 90%.

+ Thu nhập và mức sống: Đến năm 2005, trong khi GDP bình quân đầu người

của cả nước là 10,1 triệu đồng thì GDP bình quân đầu người của Hà Nội đạt 22,1 triệu

đồng/ người, cao gấp hai lần so với GDP bình quân đầu người của cả nước.

Sau khi mở rộng, Hà Nội có mức thu nhập bình quân đầu người/ tháng

là 1.297.000 đồng, đứng thứ tư trong cả nước sau Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng

và Quảng Ninh. Đồng thời, tỷ lệ hộ nghèo và mức chênh lệch giàu nghèo vẫn

còn ở mức cao (2,4% và 7,1 trong khi Tp Hồ Chí Minh chỉ là 0,3% và 6,1).

(Xem bảng 3.7)

Bảng 3.7: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng, tỷ lệ hộ nghèo

và chênh lệch giàu nghèo năm 2008Địa phương Thu nhập bình quân đầu

người 1 tháng (nghìn đồng)

Chênh lệch

giàu - nghèo

Tỷ lệhộ nghèo (%)

Cả nước 995 8,9 13,4

Hà Nội 1297 7,1 2,4

Hải Phòng 1199 7,1 6,3

Quảng Ninh 1328 8,0 6,4

Đà Nẵng 1367 6,1 3,5

TP Hồ Chí Minh 2192 6,4 0,3

Nguồn: [76, tr.615 - 623, 633, 634].GDP bình quân đầu người của Thủ đô Hà Nội năm 2009 đạt 32,4 triệu

đồng, năm 2010 đạt 37,3 triệu đồng (gấp hơn 1,62 lần trung bình cả nước và l,75

80

lần so với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng). Ở khu vực nông thôn, thu nhập của

cư dân nông thôn Hà Nội ngày càng được cải thiện. Năm 2009, thu nhập bình

quân đầu người đạt hơn 11,26 triệu đồng/người/năm. So với mức bình quân

chung của TP còn rất khiêm tốn chỉ bằng 35,5% (32,4 triệu/người/năm). Theo

chuẩn nghèo mới của TP Hà Nội, khu vực nông thôn tỷ lệ hộ nghèo còn 9,9%,

gấp 1,44 lần so bình quân chung toàn TP. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung ở các huyện

miền núi, các huyện xa trung tâm còn nhiều khó khăn. Các huyện gần nội thành

có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn các huyện ở xa trung tâm.

Đến năm 2011, thu nhập bình quân/ tháng của lao động làm công ăn

lương của Hà Nội là 3,852 triệu đồng, trong đó khu vực thành thị là 4,591 triệu

đồng và khu vực nông thôn là 2,981 triệu đồng [50, tr. 169], tương ứng với các

chỉ tiêu trên của cả nước là 3,105 - 3,629 - 2,687 triệu đồng. Như vậy, về cơ bản

đời sống thu nhập của người dân lao động đều có xu hướng tăng lên.

3.1.3. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp của Thành phố Hà Nội từ

năm 2005 đến nay

Hà Nội là một trong những địa phương có tốc độ đô thị hoá cao. Tính

chung trong 8 năm (2000 - 2007), TP đã có 2.725 dự án liên quan đến giải

phóng mặt bằng với diện tích thu hồi 13.023,23 ha và trong thực tế đã thực

hiện thu hồi và bàn giao 7.274,661 ha đất nông nghiệp thu hồi cho các chủ

đầu tư. (Xem phụ lục 4)

Những tháng đầu năm 2008, Hà Nội thu hồi khoảng 1.500 ha đất, trong

đó có hơn 900 ha đất nông nghiệp hai vụ lúa. Theo Ban chỉ đạo giải phóng

mặt bằng Hà Nội, trước khi mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội đã triển khai

2.818 dự án đầu tư liên quan đến thu hồi đất, bình quân có trên 300 dự

án/năm, liên quan đến gần 180.000 hộ dân, trong đó hơn 80% là đất nông

nghiệp và hàng nghìn lao động vùng nông thôn bị thu hồi đất nông nghiệp cần

phải giải quyết công ăn việc làm.

Trước khi Hà Nội mở rộng diện tích, trên địa bàn Hà Tây cũ có 5 khu

81

công nghiệp quy mô lớn đang được triển khai, trong đó có khu công nghiệp

Bắc Phú Cát quy mô 1.200 ha; Thạch Thất - Quốc Oai 155 ha; Phú Nghĩa 170

ha; Bắc Thường Tín 421 ha; Phụng Hiệp 174 ha. Ngoài ra, còn có hàng loạt các

dự án khu đô thị mới đang được triển khai: Quốc Oai, Tây Quốc Oai, Chương

Mỹ… Ở Thạch Thất, trong tổng số gần 2.882 ha đất bị thu hồi có tới 1.853 ha

đất nông nghiệp, liên quan tới 15.618 hộ dân. Hoài Đức có hàng nghìn ha đất

nông nghiệp đã được chuyển đổi thành đất công nghiệp, đất đô thị.

Đến năm 2009, Hà Nội có 3 khu công nghệ cao, diện tích 1.852 ha, 19

khu công nghiệp với diện tích qui hoạch 5.200 ha, đã giải phóng mặt bằng 1.300

ha và đã xây dựng cơ sở hạ tầng được 1200 ha. Có 53 cụm điểm công nghiệp,

với diện tích qui hoạch 3.635 ha, diện tích đã giải phóng mặt bằng 2.565 ha và

đã xây dựng cơ sở hạ tầng được 1.680 ha. Có 176 điểm công nghiệp làng nghề,

với diện tích qui hoạch là 1.295 ha, trong đó có 49 cụm với diện tích 470 ha đã

được xây dựng. Các làng nghề truyền thống ở nông thôn đang từng bước phục

hồi, các làng nghề mới đang hình thành và phát triển. Tính đến năm 2009, nông

thôn Hà Nội có 1.270/2.268 làng có nghề (chiếm 56%), trong đó có 272 làng

nghề truyền thống đã được công nhận (xem phụ lục 5).

Bảng 3.8: Tình hình thu hồi, bàn giao đất cho các chủ dự án tại Hà Nội

năm 2008- 2011

NămSố dự án

triển khai

Số dự án bàn

giao mặt bằng

Diện tích đất

phải thu hồi (ha)

Diện tích đất đã

bàn giao (ha)

2008 1005 429 13500 6702

2009 1032 428 13070 1987

2010 1067 200 11231 2100

2011 1090 192 10574 1223

Nguồn: Báo cáo của Ban giải phóng mặt bằng Hà Nội

Bảng 3.8 cho thấy: tại thời điểm 2011, trên địa bàn TP Hà Nội có 1.090

dự án đầu tư có liên quan tới thu hồi đất, với quy mô thu hồi đất trên

10.574ha; liên quan đến hơn 190.066 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; dự kiến

82

phải bố trí tái định cư cho hơn 17.087 hộ.

Ở Hà Nội, bên cạnh các khu công nghiệp đã được lấp đầy như Bắc

Thăng Long, Nam Thăng Long, Sài Đồng B, Nội Bài… thì Hà Nội vẫn còn

một số khu công nghiệp vẫn còn chưa được lấp đầy như KCN Quang Minh

(tỷ lệ lấp đầy được 80%), KCN Phú Nghĩa (65%). Cá biệt, KCN Đại Từ là

KCN được cấp phép từ năm 1995 với diện tích 40ha, nhưng do những bất cập

trong quản lý và triển khai mà KCN này vẫn phải để hoang hoá; KCN

Deawoo - Hanel thành lập năm 1996 nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thiện

xong công tác giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng cơ bản.

Trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, đất sản xuất nông nghiệp

bị thu hẹp, một bộ phận lớn người lao động nông nghiệp chuyển sang các lĩnh

vực công nghiệp và dịch vụ. Quá trình này tác động đến nhu cầu đào tạo, học

nghề của người lao động thuộc các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, điều này

tác động tích cực đến chất lượng lao động ở các huyện ngoại thành. Tuy

nhiên, đối với các hộ gia đình nghèo, mất việc làm nông nghiệp trong thời

gian đầu rất khó khăn, các chính sách trợ giúp từ Nhà nước, cộng đồng có vai

trò quan trọng, đặc biệt là hỗ trợ về đào tạo, dạy nghề cho người lao động để

họ có điều kiện tìm việc làm trên thị trường lao động hoặc tự tạo việc làm mới

trong các lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống, kinh

doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, việc các khu công nghiệp không được lấp đầy,

hiệu quả sử dụng thấp sẽ làm giảm số lượng việc làm, ảnh hưởng đến mục

tiêu giải quyết việc làm cho lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi.

3.2. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG

DÂN HÀ NỘI KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

3.2.1. Thực trạng việc làm lao động nông thôn Hà Nội

3.2.1.1. Về mặt số lượng

Khu vực nông thôn Hà Nội chiếm một tỷ lệ lớn so với diện tích toàn

TP nhưng dân số trung bình là năm 2005 là 3609,9 nghìn người, chỉ chiếm

83

61% dân số trung bình toàn TP, thì đến năm 2010 là 3801,4 nghìn người

(chiếm 62%) được phân bố ổn định ở các quận, huyện thuộc TP Hà Nội (xem

bảng phụ lục 6).

Tỷ lệ sinh của Hà Nội trong những năm qua luôn tăng trong giai đoạn

trước năm 2009, từ năm 2010 trở lại đây, tỷ suất sinh có giảm tuy nhiên tỷ lệ này

vẫn còn khá cao (16,8%o) trong khi tỷ lệ chết là 4,51%o. Trong đó huyện có tỷ lệ

tăng tự nhiên cao nhất là Mỹ Đức với 21,86%o và thấp nhất là Từ Liêm với

13,48%o năm 2010. Thuận lợi ở đây là đáp ứng được yêu cầu lao động cho sự

phát triển kinh tế, nhưng mặt khác thì tỷ lệ tăng dân số cao sẽ kéo theo số người

bước vào độ tuổi lao động càng tăng. Ngoài ra, phần lớn lao động khu vực nông

thôn là lao động trên 35 tuổi (chiếm 55,2%). Trong khi đặc trưng chủ yếu của lao

động trong độ tuổi này là nguy cơ thất nghiệp rất cao khi mất đất sản xuất. Do

vậy, vấn đề tạo việc làm cho lực lượng lao động này thực sự là vấn đề hết sức khó

khăn đối với TP trong những năm tới. (Xem phụ lục 7).

Theo số liệu thống kê, Hà Nội là địa phương có số giờ làm việc bình

quân/ tuần của lao động từ 15 tuổi trở lên là tương đối cao so với cả nước.

Bảng 3.9: Số giờ làm việc bình quân/ tuần của lao động

từ 15 tuổi trở lên, năm 2011Đơn vị: Giờ

Đơn vị hành chính Tổng số Thành thị Nông thôn

Trung du và miền núi phía Bắc 45,2 45,4 45,2

ĐB Sông Hồng 46,0 47,2 45,5

Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 45,2 45,9 44,9

Tây Nguyên 44,6 45,9 44,0

Đông Nam Bộ 49,0 50,1 47,5

ĐB Sông Cửu Long 43,3 46,6 42,3

Hà Nội 46,8 46,6 47,0

Cả nước 45,6 47,6 44,7

Nguồn: [9, tr. 180].

84

Số liệu ở bảng 3.9 cho thấy, số giờ làm việc bình quân/ tuần của lao động

từ 15 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn Hà Nội (47,0) là khá cao so với khu vực

nông thôn của cả nước (44,7%). Trong khi thu nhập bình quân/ tháng của lao

động làm công ăn lương của khu vực nông thôn Hà Nội là 2,981 triệu đồng và

khu vực nông thôn cả nước là 2,687 triệu đồng. Điều đó thể hiện rõ các nỗ lực

của Thành phố trong việc tạo việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông

thôn nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống cho người lao động.

Bên cạnh thực trạng về số giờ làm việc bình quân/ tuần của lao động từ

15 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn Hà Nội, bảng 3.10 còn chỉ rõ tỷ trọng lao

động chia theo nhóm giờ làm việc trong tuần/ năm của Hà Nội năm 2011.

Bảng 3.10: Tỷ trọng lao động chia theo nhóm giờ làm việc

trong tuần/ năm của Hà Nội năm 2011Đơn vị: %

Thời gian Chung Thành thị Nông thôn

1 - 9 giờ 0,4 0,6 0,3

10 - 19 giờ 1,5 1,2 1,6

20 - 29 giờ 3,2 2,2 3,8

30 - 34 giờ 4,1 2,5 5,2

35 - 39 giờ 5,3 2,6 7,0

40 - 48 giờ 47,3 59,4 39,5

49 - 59 giờ 26,9 24,2 28,6

60 giờ + 11,4 7,4 14,0

Tổng số 100 100 100

Nguồn: [9. tr.186, 189].

Bảng số liệu 3.10 cho thấy, tỷ trọng lao động ở khu vực nông thôn Hà

Nội làm việc ở mức 40 - 48 giờ là cao nhất (39,5%) trong khi đó ở khu vực

thành thị tỷ lệ này là 59,4%, mức bình quân chung của thành phố là 47,3%.

Điều đó cho thấy tình trạng việc làm đầy đủ ở khu vực nông thôn Hà Nội là

chưa cao; tỷ lệ thiếu việc làm vẫn còn là vấn đề lớn cần được giải quyết.

85

3.2.1.2. Về mặt chất lượng

Thông qua việc xem xét về chất lượng của lực lượng lao động, sẽ góp phần

cho chúng ta biết được khả năng tiếp cận được với những tiến bộ của các ngành,

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, riêng đối với khu vực nông thôn thì

tiêu chí này là hết sức quan trọng vì nâng cao được trình độ học vấn cho lực lượng

lao động ở đây cũng chính là chúng ta đang tạo những điều kiện, cơ sở để họ đáp

ứng được những đòi hỏi của người sử dụng lao động, có thể tự tìm kiếm cho mình

một công việc phù hợp.

- Về trình độ: chất lượng lao động trong nông nghiệp, nông thôn từng

bước được nâng lên. Những năm gần đây công tác đào tạo nghề cho người lao

động đã được đẩy mạnh. Ở tất cả các huyện đều có các cơ sở đào tạo nghề

công lập và nhiều cơ sở dạy nghề ngoài công lập. Tỷ lệ lao động đã qua đào

tạo chuyên môn kỹ thuật năm 2009 đạt 29%. Nông thôn Hà Nội hiện đã được

công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục THCS với 88,77 nghìn học sinh. Đến

năm 2009 có 81,2% học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học bậc trung

học (phổ thông, bổ túc, dạy nghề) 85.

Bảng 3.11: Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động

trong độ tuổi lao động ở Hà Nội năm 2011Tỷ lệ: %

Tổng số Nông thôn

Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ

Không có chuyên môn kỹ thuật 69.4 66.7 72.1 83.7 81.3 86.2

Đã được dạy nghề 5.5 8.2 2.7 4.8 7.8 1.9

Trung cấp chuyên nghiệp 5.6 4.7 6.6 4.5 4.0 5.0

Cao đẳng 2.5 1.7 3.2 2.2 1.6 2.8

Đại học trở lên 17.1 18.7 15.4 4.7 5.3 4.1

Tổng số 100 100 100 100 100 100

Nguồn: [9, tr. 131].

86

Bảng 3.11 cho thấy: đến năm 2011 ở Hà Nội, tỷ lệ lao động không có

trình độ chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông thôn vẫn còn ở mức cao

(83.7%) và có xu hướng tăng lên so với năm 2009, trong khi tỷ lệ lao động

qua dạy nghề mới chỉ đạt 4.8%, và trung cấp chuyên nghiệp là 4,5%. Điều

này đã làm cho khả năng thích nghi, tự tìm kiếm VL của người dân là thấp,

nguy cơ thất nghiệp là rất cao.

- Về vấn đề chăm sóc sức khoẻ: hiện nay, vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho

người dân của mỗi quốc gia là vấn đề có tầm quan trong đặc biệt. Mặc dù chúng ta

khẳng định vai trò của trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất trong nguồn nhân lực, song

không thể coi nhẹ yếu tố sức khoẻ. Bởi vì, nếu chúng ta thiếu sức khoẻ mà chỉ có tri

thức thì cũng không thể phát huy được vốn tri thức đó, thậm chí không thể thực

hiện được những công việc giản đơn của một con người bình thường. Hơn nữa, con

người làm việc trong thời đại ngày nay luôn chịu áp lực lớn do công việc mang lại,

nên nếu không có sức khoẻ tốt sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu của công việc

đặt ra. Do vậy, vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho người dân được coi là một trong

những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng lao động.

Trong những năm qua, Trung ương và TP không ngừng đầu tư cho lĩnh

vực này. Đến nay, số cơ sở y tế, giường bệnh và cán bộ y tế của TP không

ngừng gia tăng, đặc biệt là ở tuyến cấp xã; 100% xã xây dựng xong hệ thống

đài truyền thanh, hệ thống thông tin liên lạc, bưu điện phục vụ nhân dân; 75

xã (18,7%) có nhà văn hoá xã, 361 xã (90,02%) đã có khu thể thao và

1.793/2.149 (83,43%) thôn có nhà văn hoá và khu thể thao. Bằng nhiều nguồn

vốn đầu tư, chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi

trường nông thôn đã đạt những kết quả nhất định, 82% dân số được sử dụng

nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch trong

sinh hoạt đạt trên 30%. Công tác tuyên truyền, giáo dục toàn dân tham gia xây

dựng nếp sống văn minh được phổ biến sâu rộng dưới nhiều hình thức, các

thiết chế văn hoá cộng đồng từng bước được xây dựng đã góp phần nâng cao

87

đời sống văn hoá của người dân nông thôn.

3.2.2. Tình hình giải quyết việc làm cho nông dân sau thu hồi đấtở Hà Nội

3.2.2.1. Sự chuyển hướng hoạt động sản xuất kinh doanh và nghềnghiệp từ phía người lao động

Trong những năm qua, được sự tập trung nguồn lực về mọi mặt của TP

mà kinh tế ngoại thành đã có những sự khởi sắc. Các ngành kinh tế: công

nghiệp - xây dựng, dịch vụ và thương mại, nông nghiệp phát triển, nhờ đó tạo

điều kiện để thu hút và giải quyết được một số lượng lớn lao động, VL cho

người dân ở đây.Kết quả điều tra từ 20 xã trong 4 huyện/ quận năm 2008 của Sở Lao

động, Thương binh và Xã hội Hà Nội cho thấy: nghề nghiệp chính của lao

động vùng thu hồi đất cho thấy cả trước và sau khi thu hồi đất, lao động làm

nông lâm nghiệp vẫn là chủ yếu, trước thu hồi là 79,9% đã giảm xuống còn

60,3%. Lao động làm công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ từ9,9% đã tăng lên 21,2%, và từ 10,2% lên 18,6% đối với thương mại - dịch vụ(xem Bảng 3.12).

Bảng 3.12: Nghề nghiệp chính của lao động vùng thu hồi đất năm

2008

Trước thu hồi đất Sau thu hồi đấtSố lượng

(người)

Cơ cấu

(%)

Số lượng

(người)

Cơ cấu

(%)

1. Nông, lâm nghiệp 1.085 79,9 805 60,3

2. Công nghiệp - xây dựng 135 9,9 283 21,2

3. Thương mại - Dịch vụ 138 10,2 248 18,6

Tổng số 1.358 100,0 1.336 100.0

Nguồn: Sở Lao động, thương binh và xã hội Hà Nội.Ngoài ra, theo kết quả điều tra của tác giả tại các điểm đại diện ở Hà

Đông, huyện Hoài Đức, Gia Lâm, Đan Phượng, Thanh Oai và huyện Ba Vì

năm 2012 sau khi bị thu hồi đất, người lao động ở đây đã chuyển sang làm

88

các ngành nghề phi nông nghiệp như đi chợ, buôn bán nhỏ, xây dựng, phụ

xây, tiểu thủ công nghiệp, làm may, xe ôm, một số lao động được vào làm

trong khu CN và có nhiều lao động chưa có việc làm.

Bảng 3.13: Việc làm của lao động sau khi thu hồi đất năm 2012

Số người Tỷ lệ (%)

1. Làm ruộng trên diện tích đất còn lại 24 21,8

2. Tiểu thương, buôn bán nhỏ 25 22,7

3. Thợ thủ công 9 8,2

4. Công nhân trong khu, cụm CN 7 6,4

5. Thợ xây 9 8,2

6. Thợ may 9 8,2

7. Dịch vụ: Xe ôm, cắt tóc, cho thuê nhà... 1 0,9

8. Làm thuê công nhật 1 0,9

9. Nghề khác: xuất khẩu lao động, chăn nuôi… 25 22,7

Tổng 110 100

Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả.

Bảng 3.13 cho thấy: lao động sau khi mất đất thường chuyển sang làm

các nghề tự do là chủ yếu, số lao động làm việc trong các khu, cụm công

nghiệp là rất thấp. Trong số 110 lao động làm phi nông nghiệp chỉ có 7 lao

động làm việc trong khu, cụm công nghiệp chiếm 6,4%, số lao động mất đất

sản xuất chủ yếu vẫn làm các công việc loanh quanh tại địa phương, trong đó

buôn bán nhỏ chiếm 22,7%; tiểu TCN 8,2%; đặc biệt có đến 21,8% số lao động

quyết định làm việc trên phần ruộng đất còn lại. Vì vậy, với phần ruộng đất ít

ỏi, trình độ chuyên môn thấp kém, năng suất lao động thấp làm cho các hộ gia

đình gặp rất nhiều khó khăn trong thu nhập, bảo đảm ổn định cuộc sống.

3.2.2.2. Thu hút lực lượng lao động từ phía các doanh nghiệp

Dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, các khu công

nghiệp ở Hà Nội trong những năm qua đã có sự phát triển mạnh mẽ. Sự hình

89

thành và hoạt động của các khu công nghiệp đã tác động đến kinh tế và mở

rộng đô thị hoá ở khu vực này. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã

thu hút lao động nông thôn, nông nghiệp vào làm việc, kích thích phát triển

mạng lưới hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, đáp ứng cho

các khu công nghiệp. Vai trò của các khu công nghiệp trong tăng trưởng

kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là rất lớn, thể hiện ở tốc độ tăng

nhanh giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn các huyện khi các khu công

nghiệp đi vào hoạt động. Ngoài các khu công nghiệp lớn, các khu công

nghiệp vừa và nhỏ đang được xúc tiến triển khai tại các huyện, có vai trò

quan trọng trong khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống,

ngành nghề mới, ngành dịch vụ nông thôn để thu hút lao động, GQVL cho

nông dân trong quá trình đô thị hoá.

Bảng 3.14: Thu hồi đất nông nghiệp và nhu cầu lao động giải quyết

việc làm năm 2009 - 2010 ở Hà Nội

Số

TTĐơn vị

Số hộ nông dân bị thu hồi đất (hộ) Số lao động cần GQVL (LĐ)

Tổng sốTrong đó

Tổng sốTrong đó

Năm 2009 Năm 2010 Năm 2009 Năm 2010

1 TX Sơn Tây 3.400 1.600 1.800 6.800 3.200 3600

2 Úng Hoà 700 300 400 1.400 600 800

3 Thạch Thất 86.344 40.750 45.594 120.881 57.050 63.831

4 Hoài Đức 11.000 5.000 6.000 19.000 9.000 10.000

5 Đan Phượng 5.000 2.000 3.000 15.000 6.000 9.000

6 Phúc Thọ 4.750 2.250 2.500 9.500 4.500 5.000

7 Ba Vì 1.800 700 1.100 2.880 1.120 1.760

8 Thường Tín 3.300 1.600 1.700 2.280 1.280 1.000

9 Phú Xuyên 1.286 411 875 2.829 904 1.925

10 Từ Liêm 2.700 1.300 1.400 1.250 600 650

11 Thanh Trì 1.500 800 700 1.700 900 800

Cộng 121.780 56.711 65.069 183.520 85.154 98.366

Nguồn: [33].

90

Bảng 3.14 chỉ ra rằng: trong 2 năm (2009 - 2010) tổng số hộ nông

dân bị thu hồi đất là 121.780 hộ, với số lao động cần phải GQVL là 183.520

người. Trong khi đó, các cụm công nghiệp Hà Nội mới chỉ bố trí việc làm

cho 65 ngàn lao động so với nhu cầu (xem phụ lục 8); các khu công nghiệp

Hà Nội mới chỉ thu hút được gần 83 ngàn lao động (xem phụ lục 9). Số liệu

này bao gồm toàn bộ những người lao động được vào làm việc, tính cả

những lao động không phải thuộc đối tượng bị thu hồi đất, lao động từ các

địa phương khác di cư đến… Thực tế, số lao động bị mất đất được vào làm

việc trong các cụm, khu công nghiệp là thấp hơn nhiều (xem bảng 3.13).

Đến năm 2010, tổng số dự án đầu tư đã cấp phép vào các khu, cụm

công nghiệp của Hà Nội là 1.715 dự án, trong đó gần 300 dự án đầu tư nước

ngoài chủ yếu tại các KCN tập trung; hơn 40% số dự án đã đi vào hoạt động

sản xuất kinh doanh ổn định, thu hút hơn 100.000 lao động.

Trong quá trình CNH, HĐH và đô thị hoá, Hà Nội có sự phát triển

nhanh các cụm công nghiệp tập trung với các ngành nghề đa dạng có tác động

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành và phát triển nguồn nhân lực

có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lao động trong các ngành nghề công nghiệp

chế biến thực phẩm, đồ uống; công nghiệp dệt; sản xuất giày dép, sản phẩm

cao su, khoáng phi kim loại, chế biến lâm sản… không ngừng mở rộng quy

mô và nâng cao chất lượng. Quy mô lao động công nghiệp ngoài Nhà nước

của các khu vực ở các huyện ngoại thành đều tăng lên.

Số liệu từ phụ lục 10 cho thấy: số lao động công nghiệp không ngừng

gia tăng trong các năm qua, nó thể hiện rõ sự thay đổi cơ cấu lao động nông

thôn Hà Nội theo hướng tích cực. Đặc biệt, sự thay đổi này thể hiện rất rõ ở

những huyện, quận có các khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp

phát triển: Đông Anh, Từ Liêm, Mê Linh, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường

Tín... Kết quả trên đã tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu lao động, VL của lao

động ở khu vực nông thôn Hà Nội. Đặc biệt, khu vực kinh tế có vốn đầu tư

91

nước ngoài trong thời gian qua đã tạo ra và thu hút được một số lượng đáng

kể lao động (từ 48.094 lao động năm 2005 tăng lên 131.354 lao động năm

2011) [43, tr.56].

Bảng 3.15: Cơ cấu lao động trong tuổi lao động chia theo thành phần

kinh tế năm 2011 ở Hà Nội

Đơn vị: %

Toàn TP Nông thôn

Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ

Hộ sản xuất kinh doanh cá thể 61,4 59,9 63,1 76,7 75,6 77,9

Tập thể 0,3 0,4 0,3 0,3 0,4 0,2

Tư nhân 14,0 15,8 11,9 9,3 10,9 7,6

Nhà Nước 21,6 21,6 21,6 11,2 10,9 11,5

Vốn đầu tư nước ngoài 2,7 2,3 3,2 2,5 2,2 2,7

Tổng số 100 100 100 100 100 100

Nguồn: [9. tr. 156].

Phân tích bảng số liệu 3.15 cho thấy tỷ lệ lao động nông thôn nói chung

(bao gồm cả số lao động ở địa phương không bị thu hồi đất) làm việc trong

các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn là 11,2%; doanh nghiệp tư nhân là

9.3%; tập thể là 0,3%; doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là

2,5%; đặc biệt, lao động chủ yếu vẫn là dưới hình thức hộ gia đình (76,7%).

Nếu chỉ tính riêng số lao động nông thôn bị thu hồi đất được vào làm trong

các dự án đầu tư có sử dụng đất thu hồi thì tỷ lệ này rất thấp, chỉ chiếm 6,4%

(xem bảng 3.13). Như vậy trong doanh nghiệp FDI, kinh tế tập thể, lao động

nông thôn được sử dụng ít hơn, chủ yếu các lao động làm việc ở trong các

doanh nghiệp nhà nước, hộ gia đình.

Ngoài ra, theo bảng số liệu phụ lục 11, phần lớn lao động nông thôn Hà

Nội chủ yếu làm trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ hải sản (34,8%), tiếp đó là

các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng, đào tạo. Đây là một thực

92

tế gắn liền với đặc trưng nghề nghiệp của lao động nông thôn. Tuy nhiên, một

số ngành như: sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước và điều hoà

không khí; hoạt động làm thuê các công việc trong hộ gia đình; nghệ thuật,

vui chơi và giải trí; hoạt động kinh doanh bất động sản có tỷ lệ rất thấp (0,2%)

trong khi đây là những ngành nghề không đòi hỏi quá cao về trình độ chuyên

môn kỹ thuật, thậm chí còn có thể tạo ra được một lượng lớn về việc làm cho

lao động ở khu vực này.

Tính đến tháng 1/2013, toàn TP đã thành lập 106 cụm công nghiệp với

tổng diện tích 3.185,9ha. Trong đó, 42 cụm đã hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, lấp

đầy diện tích và hoạt động ổn định; 41 cụm đang được xây mới và thu hút đầu

tư; 23 cụm chuẩn bị được đầu tư. Các cụm công nghiệp này đã thu hút được

7.761 dự án đầu tư và sử dụng 63.926 lao động.

3.2.2.3 Hiệu quả từ hoạt động đào tạo nghề

Trong những năm qua, vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

được TP quan tâm chỉ đạo, triển khai với nhiều chương trình, giải pháp bước

đầu có hiệu quả, tạo ra sự chuyển biến tích cực. Quy mô và chất lượng dạy

nghề từng bước đáp ứng được nhu cầu công nhân kỹ thuật cho sự phát triển

kinh tế xã hội của Thủ đô.

Tính đến hết năm 2009, toàn TP có 250 cơ sở dạy nghề với đa dạng sở

hữu và cấp độ đào tạo, trong đó có 104 cơ sở dạy nghề công lập, 146 cơ sở

ngoài công lập, năm 2009 đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 134.735 người, đạt

107% kế hoạch năm, tăng 15% so với năm 2008 [82].

Thực hiện xã hội hoá công tác dạy nghề, TP đã có QĐ số 25/2010/QĐ-

UBND ngày 21 tháng 6 năm 2010 về: Ban hành quy định về chính sách

khuyến khích xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn

hoá, thể dục thể thao, môi trường trên địa bàn TP Hà Nội.

Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của TP Hà Nội

những năm đổi mới, Đảng bộ và Chính quyền TP Hà Nội luôn có sự quan tâm

93

đặc biệt đối với công tác giáo dục - đào tạo. Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội đã

ban hành kế hoạch số 150/KH-UBND về xây dựng Kế hoạch Đào tạo nghề

cho lao động nông thôn giai đoạn 2011-2015 trong đó có đối tượng là lao

động thuộc diện thu hồi đất. Kế hoạch đã đưa ra các chủ trương, mục tiêu về

đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động và GQVL khu vực nông thôn

theo các hướng:

- Đáp ứng nhu cầu học nghề của lao động nông thôn và yêu cầu

của thị trường lao động, gắn đào tạo nghề với tạo việc làm tại chỗ và

chuyển dịch cơ cấu lao động.

- Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy nghề, gắn đào tạo nghề với tạo

việc làm ổn định, tăng thu nhập của lao động nông thôn.

- Đào tạo nghề cho lao động nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao

động, cơ cấu kinh tế, xây dựng nền nông nghiệp phát triển theo hướng hiện

đại, bền vững phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn.

- Phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông

nghiệp là 21%.

- Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, xã hội, của cán bộ, công

chức xã và lao động nông thôn về vai trò của đào tạo nghề đối với việc tạo

việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn.

- Đẩy mạnh các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các

vùng, bảo đảm liên kết giữa đô thị và nông thôn. Triển khai thực hiện quy

hoạch phát triển ngành, quy hoạch vùng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Hình

thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung, phát triển nông lâm nghiệp

theo hướng sản xuất hàng hoá hiện đại. Xác định và đẩy mạnh sản xuất các

sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ ổn định. Phát triển các

làng nghề, du lịch dịch vụ, đẩy mạnh giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao

động để thu hút nhiều lao động thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động trong

94

nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh các giải pháp thu hút vốn đầu tư, phát

triển các khu công nghiệp - dịch vụ thu hút và GQVL; Lồng ghép chương

trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo mục tiêu của Quyết định 1956

với chương trình dạy nghề cho người nghèo, người dân tộc, người khuyết tật,

bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên, xuất khẩu lao động; chương trình khuyến

nông, khuyến công và với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của TP.

- Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề: Xây dựng quy hoạch phát

triển mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề và trung tâm

dạy nghề trong đó chú trọng phát triển các cơ sở dạy nghề cho lao động

nông thôn (Cơ sở dạy nghề công lập, tư thục, cơ sở dạy nghề tại các doanh

nghiệp, hợp tác xã, trang trại, nông lâm trường, cơ sở sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ và các cơ sở dạy nghề tiểu thủ công mỹ nghệ) theo nghề và cấp

trình độ đào tạo đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Thực hiện tốt các

chính sách xã hội hoá như giao đất (cho thuê đất), miễn giảm thuế... để

khuyến khích các thành phần kinh tế thành lập cơ sở dạy nghề tham gia dạy

nghề cho lao động nông thôn...

- Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý.

- Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề: Đổi mới và

phát triển chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề cho lao động nông thôn

theo yêu cầu của thị trường lao động, thường xuyên cập nhật kỹ thuật, công

nghệ mới; Huy động các nhà khoa học, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư,

người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh

doanh, các trung tâm khuyến nông - lâm - ngư nghiệp, nông dân sản xuất giỏi

tham gia xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề cho lao động

nông thôn…

Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề ngày một tăng, trong đó chủ yếu đầu

tư cho tăng cường trang thiết bị dạy và học nghề, nâng cao chất lượng đội

ngũ giáo viên, xây dựng, đổi mới giáo trình, chương trình giảng dạy nghề

95

cho học sinh. Tăng cường đầu tư kinh phí cho dạy nghề ngắn hạn nông

thôn, xây dựng và vận hành quỹ hỗ trợ ổn định đời sống lao động chuyển

đổi mục đích sử dụng đất với nguồn vốn ban đầu là 50 tỷ đồng nhằm tập

trung nguồn lực dạy nghề cho lao động mất VL do chuyển đổi mục đích sử

dụng đất đất nông nghiệp.

Tính đến cuối năm 2012, các cơ sở dạy nghề trên địa bàn TP đã tuyển

mới đào tạo cho 147.827 lượt người (trong đó bao gồm nông dân bị thu hồi

đất cũng thuộc diện ưu tiên của chương trình này), đạt 101,2% kế hoạch.

Riêng năm 2012, Sở LĐTBXH đã phối hợp với các sở, ngành liên quan trình

UBND TP phân bổ và giao chỉ tiêu dạy nghề cho lao động nông thôn và xây

dựng kế hoạch dạy nghề cho lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp. Số lao

động nông thôn được tuyển mới đào tạo nghề là 25.652 người, trong đó số

người đã hoàn thành khoá đào tạo nghề trong năm 2012 là 16.274.

Chất lượng đào tạo nghề được nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt

trên 95%, tỷ lệ học sinh có việc làm sau tốt nghiệp đạt trên 70%, nhiều

trường dạy nghề đạt 100% số học sinh ra trường có việc làm. Theo đánh giá

của người sử dụng lao động, kỹ năng nghề của lao động Thủ đô qua đào tạo

nghề trên 30% đạt khá giỏi, gần 59% đạt loại trung bình [82].

3.2.2.4. Sự hỗ trợ từ Trung ương và Thành phố Hà Nội để giải quyết

việc làmTại Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ, lần đầu tiên Chính

phủ đã có những quy định cụ thể, đặt nền móng cho việc thực hiện các chính

sách về đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất sau này. Đối

với người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải có trách nhiệm: a) Hỗ trợ

chi phí đào tạo cho những lao động nông nghiệp phải chuyển làm nghề khác do

bị thu hồi đất. Mức chi cụ thể do Uỷ ban nhân dân tỉnh, TP trực thuộc Trung

ương quy định công khai và được chuyển cho người lao động hoặc các tổ chức

trực tiếp đào tạo của địa phương và b) Nếu có nhu cầu tuyển dụng lao động

96

mới thì phải ưu tiên tuyển dụng lao động thuộc các đối tượng có đất bị thu hồi.

Trách nhiệm chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho người dân vùng chuyển

đổi đất sẽ do người được giao đất thực hiện, tuy nhiên quy định này đã được

thay đổi trong các chính sách tiếp theo. Nghị định số 197/2004/NĐ-CP của

Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã cụ thể hoá các quy định hỗ

trợ của Nhà nước đối với người bị thu hồi đất, khi có sự tách biệt từng nội dung

hỗ trợ như: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi

trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề

nghiệp cho người trong độ tuổi lao động; mức hỗ trợ và số lao động cụ thể

được hỗ trợ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở

địa phương. Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ

yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề.

Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg quy

định về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi

mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Có thể nói đây là một văn bản đề cập trực

tiếp nhất tới vấn đề dạy nghề và tạo việc làm cho lao động vùng chuyển đổi

mục đích sử dụng đất, cũng là một văn bản mang tính "nhắc nhở" các địa

phương trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công

nghiệp và khu đô thị mà không chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội của

hoạt động thu hồi đất, thậm chí gây ra nhiều bức xúc xã hội tại các khu vực

chuyển đổi đất.

Các chính sách dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ chuyển đổi nghề

nghiệp đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp tiếp tục có những thay

đổi trong Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Những quy định này đã không còn

định mức giới hạn 30% như Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, đồng thời bên

cạnh việc quy định chi tiết hơn quy trình tổ chức dạy nghề, tạo việc làm như

khi lập phương án đào tạo, chuyển đổi nghề phải lấy ý kiến của người bị thu

hồi đất, phải được phê duyệt đồng thời với các phương án bồi thường, hỗ trợ

97

và tái định cư, phương án tổ chức dạy nghề và tạo VL gồm: (i) hỗ trợ bằng

tiền và (ii) hỗ trợ bằng đất/căn hộ chung cư/đất sản xuất kinh doanh phi

nông nghiệp (Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 cũng có quy

định về việc giao đất có thu tiền để hộ gia đình sản xuất, kinh doanh phi

nông nghiệp).

Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg

ngày 27 tháng 11 năm 2009 phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông

thôn đến năm 2020 (đề án 1956/QĐ-TTg), nông dân mất đất là nhóm đối

tượng ưu tiên của đề án cùng với các nhóm đối tượng đặc thù khác (người có

công, hộ nghèo…). Đề án 1956 chỉ rõ: ... người bị thu hồi đất canh tác được

hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3

tháng) với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo

từng nghề và thời gian học nghề thực tế); hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000

đồng/ngày thực học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng

với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khoá học đối với người học

nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên.

Ngày 16-11-2012, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 52/2012/QĐ-

TTg về chính sách hỗ trợ GQVL và đào tạo nghề cho người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp: i, Hỗ trợ đào tạo nghề: Người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp có nhu cầu đào tạo, học nghề được nhận vào các cơ sở đào

tạo nghề và được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp và dạy

nghề dưới 3 tháng); ii, Hỗ trợ tạo việc làm trong nước: Người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp có nhu cầu tìm việc làm được hỗ trợ tư vấn học nghề, tư

vấn, giới thiệu việc làm miễn phí tại các Trung tâm giới thiệu việc làm trực

thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, TP trực thuộc Trung

ương; ưu tiên vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp

luật. Các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận nhiều lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp vào làm việc được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng,

98

thuế theo quy định của pháp luật. iii, Hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo

hợp đồng: Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu đi làm việc

ở nước ngoài được hỗ trợ 100% học phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến

thức cần thiết; hỗ trợ 100% chi phí khám sức khoẻ, làm hộ chiếu, thị thực và

lý lịch tư pháp trước khi đi làm việc ở ngoài theo mức quy định hiện hành của

Nhà nước, được hỗ trợ tiền ăn hàng ngày trong thời gian đi học. Bên cạnh đó,

đối tượng lao động này cũng được vay vốn với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng

Chính sách xã hội để chi trả các chi phí cần thiết để đi làm việc có thời hạn ở

nước ngoài.

Căn cứ vào các Quyết định của Chính phủ, TP Hà Nội đã đưa ra các

biện pháp nhằm thực hiện tốt công tác GQVL và coi đây là một trong những

vấn đề xã hội bức xúc của TP:

- Ngày 14/11/2006, UBND TP có Quyết định số 5117/QĐ-UBND phê

duyệt chương trình GQVL TP Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010, trong đó đã giao

cho Sở Lao động TBXH triển khai: Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề đến năm

2010; Quy hoạch, củng cố, nâng cao chất lượng các trung tâm giới thiệu việc

làm; rà soát các doanh nghiệp có chức năng giới thiệu việc làm; Quy hoạch,

xây dựng phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp và làng nghề. Kế hoạch

xã hội hoá trong lĩnh vực dạy nghề… Xây dựng và thực hiện đề án thí điểm

"Chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn", nâng cao

chất lượng lao động nông thôn.

- TP đã phê duyệt chương trình thí điểm đào tạo nghề cho lao động

nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại 5 huyện ngoại thành

giai đoạn 2005-2006, HĐND TP đã phê duyệt Đề án hỗ trợ dạy nghề cho

lao động nông thôn giai đoạn 2008-2010. TP đề ra các chính sách hỗ trợ

phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của TP; Chính sách phát

triển dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao; Đề án nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực Thủ đô. Trên cơ sở các kế hoạch, đề án, chỉ tiêu của TP

99

các sở, ngành, quận, huyện, thị xã đã xây dựng, cụ thể hoá thành các kế

hoạch triển khai và tổ chức thực hiện các nội dung trên địa bàn đạt nhiều

kết quả tốt.

Năm 2007, UBND TP Hà Nội ban hành Quyết định số 137/2007/QĐ-

UBND ngày 30/11/2007 quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn TP. Trong đó: hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và

tạo việc làm đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị

thu hồi đất, quy định "Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp... Thì được hỗ trợ bằng

tiền để tự chuyển đổi nghề nghiệp và tạo VL là 30.000 đồng/m2".

HĐND TP Hà Nội thông qua đề án "Một số giải pháp hỗ trợ đời sống,

học tập, đào tạo nghề và VL cho các hộ dân vùng chuyển đổi mục đích sử

dụng đất nông nghiệp" ngày 17.4.2008, trong đó đã đưa ra một số giải pháp

với mục tiêu để người dân có điều kiện ổn định cuộc sống bằng hoặc tốt hơn

trước khi bị thu hồi đất. Căn cứ NQ 04/2008/NQ-HĐND, UBND TP đã ban

hành quyết định số 2383/QĐ-UBND phê duyệt đề án, đồng thời quyết định

thành lập Quỹ "Hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm

cho lao động chuyển đổi mục đích sử dụng đất". Nội dung cụ thể:

- Hỗ trợ học văn hoá, học nghề:

+ Chi hỗ trợ học văn hoá cho học sinh thuộc đối tượng của quỹ hỗ trợ

không để bỏ học dở dang.

+ Chi hỗ trợ học nghề và bổ sung nghề cho lao động để chuyển đổi

nghề nghiệp, có VL.

- Hỗ trợ đời sống:

+ Chi hỗ trợ bảo hiểm y tế cho người hết tuổi lao động.

+ Chi trợ cấp khó khăn cho người già, cô đơn có hoàn cảnh đặc biệt.

- Hỗ trợ học văn hoá:

+ Mức hỗ trợ: Học phí theo quy định mức đóng học phí của UBND

TP Hà Nội cho từng cấp học phổ thông ở các trường công lập và giáo dục

100

thường xuyên theo từng thời kỳ; Tiền đóng góp cơ sở vật chất do UBND

TP Hà Nội quy định cho từng cấp học phổ thông ở các trường công lập và

giáo dục thường xuyên theo từng thời kỳ.

+ Thời gian hỗ trợ: Thời gian được hỗ trợ là số năm để học sinh theo

học đến khi tốt nghiệp PTTH nhưng không quá 03 năm kể từ lần hỗ trợ đầu

tiên (trừ trường hợp gia đình thuộc diện hộ nghèo, thời gian học phổ thông

hoặc chương trình giáo dục thường xuyên phải kéo dài hơn 03 năm thì thời

gian hỗ trợ được kéo dài đến khi tốt nghiệp THPT nhưng không quá 05 năm

kể từ lần nhận hỗ trợ đầu tiên nếu có nhu cầu).

- Hỗ trợ đào tạo nghề:

+ Hỗ trợ để chi trả học phí, học nghề theo các cấp trình độ đào tạo

nghề: Sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề ở các cơ sở dạy nghề được

Nhà nước cho phép hoặc các doanh nghiệp nhận tuyển dụng lao động lâu dài

tự tổ chức đào tạo nghề cho người được tuyển dụng.

+ Mức hỗ trợ: Tối đa không quá 06 triệu đồng/ thẻ học nghề/ khoá học

+ Thời gian hỗ trợ là số tháng thực tế để đối tượng có thể học nghề

được hỗ trợ đến khi kết thúc khoá học nghề theo từng cấp trình độ nhưng

không vượt quá thời hạn sử dụng của thẻ học nghề là 05 năm.

TP đã thực hiện lồng ghép chương trình GQVL với các chương trình kinh

tế - xã hội khác như: chương trình giảm nghèo, chương trình hỗ trợ nông dân và

người nghèo phát triển kinh tế. Đẩy mạnh sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà

nước, khuyến khích các doanh nghiệp tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại

hoá thiết bị, công nghệ tạo ra môi trường cạnh tranh nhằm phát triển sản xuất,

thu hút lao động và đổi mới chất lượng lao động cho các doanh nghiệp. Xây

dựng các chính sách ưu đãi về đầu tư, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư để khuyến khích

thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Hà Nội nhằm tạo nguồn xuất khẩu lao

động tại chỗ, đồng thời mở rộng và phát triển thị trường lao động nước ngoài đặc

biệt là các thị trường phù hợp với đặc điểm của lao động Hà Nội.

101

Trong 4 năm (2006 - 2009), toàn TP đã GQVL cho 485.083 người

(trong đó có nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp), đạt 104,49% kế hoạch. Cụ

thể: các chương trình phát triển kinh tế xã hội của TP đã tạo việc làm mới

cho 75,3% tổng số lao động được GQVL hàng năm, chương trình cho vay

vốn quỹ quốc gia, xuất khẩu lao động GQVL cho 24,7% lao động. Năm 2009,

thông qua nguồn vốn vay Quỹ Quốc gia GQVL đã được Trung ương và TP

bổ sung với nguồn vốn luân chuyển là 659,9 tỷ đồng để cho vay theo các dự

án hỗ trợ việc làm, TP đã xét duyệt: 8742 dự án, cho vay: 698,724 tỷ đồng,

GQVL cho: 84.455 lao động (bình quân mỗi năm tạo việc làm từ nguồn vốn

vay quỹ Quốc gia: 21.000 người), chiếm 24,7% tổng số lao động được GQVL

hàng năm của TP [82].

Năm 2010, thực hiện chương trình giải quyết việc làm của Thành phố

(trong đó có đối tượng ưu tiên là nông dân mất việc làm sau thu hồi đất), TP

cho vay 2500 dự án, 180 tỷ đồng, GQVL cho 30.000 lao động. Năm 2011, TP

đã phân bổ 250,5 tỷ đồng từ nguồn vốn vay của Quỹ Quốc gia GQVL cho các

quận, huyện, thị xã và các hội, đoàn thể, cho vay 1.890 dự án, với tổng số vốn

vay 251,3 tỷ đồng, GQVL cho 20.750 lao động, chiếm gần 14% tổng số lao

động được tạo việc làm trong năm. Bên cạnh đó, chương trình GQVL của TP

đã giúp 138.800 lao động tìm được việc làm, trong đó 60% số lao động có

việc làm ổn định [85]. Trong năm 2012, Hà Nội xét duyệt cho vay 1.700 dự

án vay vốn từ Quỹ quốc gia GQVL TP với số tiền 295 tỷ đồng, GQVL cho

24.500 lao động, đạt 100% kế hoạch năm.

3.3.2.5. Hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm và thông qua

xuất khẩu lao động

Để trợ giúp người lao động trong quá trình tìm kiếm việc làm, học

nghề được hiệu quả hơn thì trên cơ sở Nghị định số 72/CP ngày 13/10/1995

của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thị hành một số điều của Bộ Luật

lao động về việc làm và Thông tư số 08/LĐTB&XH - TT ngày 10/3/1997,

102

công văn số 1540/LĐTB&XH-VL của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội

hướng dẫn về tổ chức hoạt động và quy hoạch hệ thống TTDVVL, đồng thời

thực thi ý kiến chỉ đạo của UBND TP Hà Nội, Sở LĐ, TB - XH Hà Nội đã

xây dựng phương án sắp xếp lại các TTDVVL trên địa bàn Hà Nội và trên cơ

sở Luật Doanh nghiệp thì đồng thời một hệ thống trung tâm giới thiệu việc

làm tư nhân cũng được hình thành.

Thời gian qua, số người được tạo việc làm thông qua các doanh nghiệp

dịch vụ việc làm gia tăng mạnh mẽ. TP đã rà soát, quy hoạch, củng cố lại hệ

thống giới thiệu VL, đến tháng 12/2009, toàn TP có 25 đơn vị có chức năng

giới thiệu việc làm, trong đó (các Trung tâm giới thiệu việc làm: 13 đơn vị;

các doanh nghiệp có chức năng giới thiệu VL: 12 doanh nghiệp).

Năm 2009, các Trung tâm GTVL, các doanh nghiệp có chức năng

GTVL đã tổ chức tư vấn giới thiệu việc làm cho trên 82.000 người, thông tin

thị trường lao động cho gần 70.000 lượt lao động. Tổ chức thử nghiệm và đưa

vào hoạt động hiệu quả tổng đài 1080-5-3 nhằm tư vấn việc làm, học nghề và

tư vấn quan hệ lao động cho người lao động và người sử dụng lao động.

Cùng với rất nhiều đơn vị, tổ chức đã tham gia vào giải quyết vấn đề

việc làm, các TTDVVL đã cung cấp những thông tin và tư vấn cho người lao

động và người sử dụng lao động như chế độ, chính sách lao động, hướng

nghiệp, tuyển chọn lao động và đào tạo nghề, tổ chức dịch vụ giới thiệu việc

làm, cung ứng lao động và giúp họ từng bước tiếp cận với thông tin thị trường

lao động. Tính đến 31/12/2009, TP đã tổ chức được 41 phiên giao dịch việc

làm với 4.388 doanh nghiệp tham gia. Lao động được tuyển dụng qua sàn giao

dịch việc làm là 40.082 người. Để tăng cường thông tin thị trường lao động, từ

năm 2006, TP đã đưa vào hoạt động Website vieclamhanoi.net, đến hết năm

2009 đã có trên 200.000 lượt người truy cập, trong đó có gần 20.000 lao

động tìm được việc làm qua Website [82].

Để tạo thêm việc làm cho lực lượng lao động, trong đó có lực lượng

103

lao động nông thôn, đặc biệt là nông dân bị thu hồi đất nghiệp là đối tượng

được ưu tiên trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu lao động, TP đã đẩy mạnh

hoạt động xuất khẩu lao động thông qua nhiều hình thức ưu đãi như cho vay

vốn thế chấp, vay vốn để được đào tạo nghề đáp ứng cho yêu cầu của nhà

tuyển dụng, ưu tiên cho lực lượng lao động bị thu hồi đất do tác động của quá

trình CNH, HĐH và đô thị hoá. Trong 4 năm (2006-2009) TP đã đưa được

15.368 người đi xuất khẩu lao động, bình quân mỗi năm Hà Nội có 3.117

người được GQVL qua xuất khẩu lao động, chiếm trên 2% tổng số lao động

được GQVL hàng năm của TP [82].

Trong năm 2012, Hà Nội đã tổ chức 106 phiên giao dịch việc làm, qua

đó tuyển dụng được 25.000 lao động, đưa 1500 người đi xuất khẩu lao động

tại các thị trường chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Toàn TP đã

GQVL cho 135.800 người, tuy mới đạt 97% kế hoạch nhưng đây là một cố

gắng rất lớn và Hà Nội là một trong những địa phương có số lao động được

GQVL nhiều nhất trên cả nước trong năm 2012. Trung tâm Giới thiệu việc

làm Hà Nội đã chủ động, sáng tạo phối hợp với các sở, ngành liên quan triển

khai thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đúng qui định của pháp luật chính sách

BHTN, được cả người lao động và người sử dụng lao động đón nhận một

cách tích cực. Tổng số tiền chi hỗ trợ học nghề là 1,364 tỷ đồng. Số lao động

thất nghiệp được hỗ trợ học nghề là 1.040 người, tăng 3,3 lần so với năm

2011 và 31,5 lần so với năm 2010. Tuy nhiên, trong thực tế các trung tâm

dịch vụ việc làm hoạt động vẫn còn mang tính thiếu chuyên nghiệp, thiếu

minh bạch, các hội chợ lao động hoạt động không thường xuyên, còn nặng

tính phong trào, chưa thực chất; nhiều trung tâm còn mang tính chất chụp

giật, tiêu cực, thậm chí người lao động còn bị lừa đảo gây khó khăn cho người

lao động trong việc đi tìm việc làm. Hệ thống các Trung tâm giới thiệu việc

làm và các doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm thiếu sự gắn kết trong

quá trình hoạt động, đặc biệt là trong lĩnh vực trao đổi, cung cấp thông tin về

104

thị trường lao động, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác giới

thiệu việc làm còn nhiều hạn chế, trang thiết bị và cơ sở vật chất dành cho

thông tin thị trường lao động còn nghèo nàn, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu

cầu của thị trường lao động.

3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN

KHI THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA

3.3.1. Những kết quả đạt được về giải quyết việc làm cho nông dân

khi thu hồi đất ở Hà Nội

Với sự nỗ lực và bằng nhiều biện pháp khác nhau của Thành uỷ, chính

quyền TP, của địa phương, của doanh nghiệp và của bản thân người lao động,

trong những năm qua Hà Nội đã tạo ra được nhiều thành tựu trong lĩnh vực

GQVL cho người lao động nói chung và nông dân sau thu hồi đất nói riêng.

Điều đó thể hiện:

- Hà Nội đã thu hút được một số lượng đáng kể lao động địa phương

vào làm việc ở các khu, cụm công nghiệp

Trong những năm qua, các khu, cụm công nghiệp Hà Nội bố trí việc

làm cho gần 150 ngàn lao động (mục 3.3.2), trong đó có những đối tượng chịu

tác động của việc thu hồi đất. Đây tuy chưa phải là một con số lớn so với tổng

diện tích đất mà TP đã thu hồi và so với số người nông dân có nhu cầu chuyển

đổi nghề nghiệp nhưng cũng đã góp phần giải quyết được một số lượng nông

dân mất việc làm do bị thu hồi đất, từ đó góp phần ổn định chính trị - xã hội ở

địa phương thu hồi đất.

- Thành phố đã có nhiều chính sách, chương trình, dự án khác nhau

nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi và cơ hội để người nông dân bị thu hồi đất

có thể tìm việc làm mới.

Cùng với việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà

nước, những năm qua TP đã có nhiều chương trình, dự án khác nhau nhằm tạo

mọi điều kiện thuận lợi và cơ hội để người nông dân có thể tìm việc làm mới:

105

TP đã trích ra một khoản ngân sách không nhỏ cho đề án đào tạo nghề cho lao

động nông thôn, cho nông dân vay vốn để học nghề, tham gia xuất khẩu lao

động... Điều đó không chỉ thể hiện vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của Nhà

nước trong việc bảo đảm lợi ích cho nông dân khi mất hoặc thiếu tư liệu sản

xuất chủ yếu mà còn bảo đảm được sự ổn định chính trị - kinh tế - xã hội của

Thủ đô và bảo đảm an sinh xã hội đối với nông dân chịu ảnh hưởng của việc

thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

- Hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn Thành phố đã có những kết quả

nhất định góp phần giúp người lao động tìm được việc làm.

Những năm qua, lồng ghép với nhiều chương trình khác nhau của TP

và các tổ chức chính trị, xã hội và bằng công tác xã hội hoá đào tạo nghề,

người nông dân đã có nhiều cơ hội và tiếp cận được với nhiều hình thức nghề

khác nhau. Năm 2012, số lao động nông thôn được tuyển mới đào tạo nghề là

25.652 người, trong đó số người đã hoàn thành khoá đào tạo nghề trong năm

2012 là 16.274 và tính đến cuối năm 2012, các cơ sở dạy nghề trên địa bàn TP

đã tuyển mới đào tạo cho 147.827 lượt người. Kết quả trên thể hiện vai trò rất

lớn của hoạt động đào tạo nghề, góp phần giúp cho người nông dân mất đất

sản xuất nông nghiệp tìm được việc làm mới trong các ngành nghề như: may

mặc, sản xuất và lắp ráp thiết bị, chế biến thực phẩm, làng nghề thủ công

truyền thống... Những ngành nghề mới này góp phần đa dạng hoá các loại

hình nghề nghiệp và phần nào phù hợp với trình độ và năng lực hiện tại của

người nông dân.

3.3.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của hạn chế trong

giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội

Thứ nhất, số người bị thu hồi đất được thu hút vào làm việc trong các

doanh nghiệp, các khu công nghiệp còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số lao

động mất việc làm.

Theo số liệu điều tra điểm của tác giả, năm 2012, lao động sau khi mất

106

đất thường chuyển sang làm các nghề tự do là chủ yếu, số lao động làm việc

trong các khu, cụm công nghiệp là rất thấp (chỉ chiếm 6,4%), số lao động mất

đất sản xuất chủ yếu vẫn làm các công việc loanh quanh tại địa phương, trong

đó buôn bán nhỏ chiếm 22,7%; tiểu thủ công nghiệp 8,2%; đặc biệt có đến

21,8% số lao động quyết định làm việc trên phần ruộng đất còn lại (xem Bảng

3.13). Nguyên nhân chủ yếu là do rất nhiều người trong số họ ở độ tuổi cao,

trình độ văn hoá thấp, khó học nghề mới, không đáp ứng được nhu cầu lao

động chất lượng cao của các khu công nghiệp; mặt khác còn do chủ đầu tư

các dự án cũng chưa có kế hoạch cụ thể ngay từ đầu để đào tạo và tuyển dụng

lao động tại chỗ, trong khi nhiều người nông dân thiếu sự nỗ lực, lúng túng,

mải nghĩ cách chi tiêu số tiền được đền bù hơn là tìm cách học nghề mới.

Tình hình đó dẫn đến tỷ lệ lao động địa phương nơi có đất bị thu hồi làm việc

trong các khu công nghiệp rất thấp. Thí dụ, theo Sở LĐTB&XH Hà Nội, tỷ lệ

lao động địa phương vào làm việc tại khu công nghiệp Đông Anh chỉ chiếm

tỷ lệ từ 35% đến 40%.

Qua phân tích ở mục 3.3.2.1, có thể thấy, số lượng nông dân được

chuyển đổi nghề và được thu hút vào làm việc ở các khu công nghiệp còn rất

thấp. Trong khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi không ngừng gia tăng,

hiệu quả đầu tư và tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp chưa cao cũng là nhân tố

gây ra tình trạng không thực hiện được đầy đủ cam kết thu hút lao động là

nông dân sau thu hồi đất vào làm việc ở các doanh nghiệp trong các khu, cụm

công nghiệp.

Thứ hai, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn chiếm tỷ lệ cao.

Sau khi xem xét về tình trạng lao động của nông thôn được phân bổ

vào các ngành hay các thành phần kinh tế, chúng ta thấy ngoài số lượng lao

động ở khu vực này được tạo việc làm thì ở đây vẫn còn nhiều lao động bị

thất nghiệp và thiếu việc làm.

Theo kết quả điều tra tâm lý của 102 hộ dân ở huyện Ba Vì: 34% hộ

107

dân có tâm lý bình thường khi bị thu hồi đất, 10,8% hộ dân cảm thấy hài lòng

vì có tiền đền bù nhưng có đến 55,2% số hộ dân cảm thấy bất an, lo lắng vì

không có hoặc không đủ việc làm sau thu hồi đất. Vì vậy, sức ép đòi hỏi TP

vừa phải có những chính sách hỗ trợ, đền bù một cách hợp lý lại vừa phải có

những mô hình phù hợp để không chỉ bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế mà

còn bảo đảm cuộc sống ổn định cho người dân.

Năm 2011, tỷ lệ thiếu việc làm của Hà Nội là 1,22%, trong đó khu vực

thành thị chiếm 0,83% và khu vực nông thôn chiếm 1,49%, đặc biệt nam

thiếu việc làm chiếm 1,18%, nữ thiếu việc làm chiếm 1,27% (xem phụ lục

12). Trong khi tỷ lệ này tương ứng ở TP Hồ Chí Minh là: 0,37%, 0,35%,

0,48%, 0,34%, 0,40%. Điều đó cho thấy, ở Hà Nội năm 2011, cứ 1000 người

đang làm việc ở khu vực nông thôn thì có tới 15 người thiếu việc làm, và số

người thất nghiệp là nữ chiếm tỷ lệ cao hơn so với nam giới, còn TP Hồ Chí

Minh chỉ có 5 người thiếu việc làm.

Cũng trong năm này, tỷ lệ thất nghiệp của Hà Nội là 2,38%, trong đó

khu vực thành thị chiếm 3,52% và khu vực nông thôn chiếm 1,60%, nam thất

nghiệp chiếm 2,27%, nữ thất nghiệp chiếm 2,50%. Như vậy, cứ 1000 người ở

khu vực nông thôn thì có tới 16 người thất nghiệp, và số người thất nghiệp là

nữ chiếm tỷ lệ cao hơn so với nam giới. Qua số liệu trên cho thấy, thiếu việc

làm và thất nghiệp ở khu vực nông thôn Hà Nội trong thời gian qua là rất cao,

ngoài ra trong số này, nữ lao động thường là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều

hơn nam giới. Nó cho thấy khả năng thích ứng của lao động nữ trong môi

trường làm việc chưa cao, tư tưởng trọng nam, khinh nữ vẫn còn tồn tại trong

xã hội, cơ chế giám sát, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động nữ của

các tổ chức xã hội còn hoạt động chưa hiệu quả.

Ở khu vực nông thôn, độ tuổi trên 35 có tỷ lệ thất nghiệp là 5,61%, điều

này phản ánh đúng những tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến việc

làm của đối tượng này, đòi hỏi các chính sách trong thực tế phải có những ưu

108

tiên nhất định cho lực lượng lao động ở độ tuổi này. Tuy độ tuổi 15-19 tuổi

chiếm tỷ lệ thấp (3,8%), tuy nhiên độ tuổi này lại có tỷ lệ thất nghiệp là cao

(5,39%) trong tổng số lao động thất nghiệp. Nguyên nhân của hiện tượng này

là do: Không ít thanh niên nông thôn hiện nay chấp nhận học và làm những

công việc kỹ năng thấp để có trải nghiệm và lựa chọn nhiều nghề thay vì đầu

tư học những nghề nghiệp có kỹ năng cao và có tính ổn định. Đây là vấn đề

liên quan chặt chẽ tới nhận thức và định hướng nghề nghiệp của thanh niên

nông thôn nói riêng và lao động nông thôn nói chung. Do đó, tại nhiều cơ sở

sản xuất/kinh doanh nhỏ đặc biệt là những cơ sở như làm mộc, cơ khí, đồ

gốm… những nghề đòi hỏi kỹ năng lao động cao đa số đều là lao động trung

niên và người lớn tuổi, rất ít những cơ sở có lao động trẻ, hoặc nếu có thường

lại là lao động từ địa phương khác tới học nghề và làm việc. Mặt khác, do sức

hút từ cuộc sống tại các khu vực đô thị nên thanh niên cũng dễ dàng rời bỏ

khu vực nông thôn cho dù tại nhiều nơi không thiếu các cơ hội VL có thu

nhập và ổn định [9].

Trong những năm qua, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới

đã tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp của Việt Nam. Năm 2011, kinh

tế thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến

hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tính đến cuối tháng

11.2011 đã có 844 doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, văn phòng luật

sư hoàn tất thủ tục giải thể, phá sản. Số lao động thất nghiệp đăng ký hưởng bảo

hiểm thất nghiệp toàn TP năm 2011 là 16.100 người, gấp 4 lần so với năm 2010.

Riêng 6 tháng đầu năm 2012, Hà Nội có tới 7.750 doanh nghiệp phải ngừng hoạt

động do gặp khó khăn, hơn 1.000 lao động trong các khu chế xuất, khu công

nghiệp mất việc làm. Các địa phương có nhiều người mất việc làm là Phúc

Thọ (3.157 lao động), Sóc Sơn (2.244 lao động), Từ Liêm (3.157 lao động).

Ngoài ra, đây là độ tuổi mới bước vào lực lượng lao động lại trong lúc các doanh

nghiệp sa thải lao động nên độ tuổi này khó tìm kiếm việc làm.

109

Bảng 3.16: Cách thức tìm việc/ xin việc của những người đang tìm việc

trong tuổi lao động năm 2011 ở Hà Nội.

Đơn vị: %

Tổng số Nông thôn

Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ

Nộp đơn xin việc 27,5 24,3 31.8 29,6 27.6 32,3

Liên hệ/ tư vấn cơ sở dịch vụ VL 7,0 6,9 7,1 1,9 0,0 4,4

Qua bạn bè/ người thân 56,3 60,2 50,8 61,6 64,4 57,9

Đặt quảng cáo tìm việc 0,5 0,3 0,8 0,0 0,0 0,0

Qua thông báo tuyển người 6,7 5,6 8,2 4,2 4,3 4,1

Chuẩn bị để bắt đầu SXKD 0,3 0,6 0,0 0,0 0,0 0,0

Khác 1,8 2,1 1,3 2,7 3,7 1,3

Tổng số 100 100 100 100 100 100

Nguồn: [9. tr.228].

Theo số liệu ở bảng 3.16, tỷ trọng các phương thức tìm việc của

những người đang tìm kiếm việc làm ở khu vực nông thôn năm 2011 là:

Nộp đơn xin việc (29,6%), liên hệ/ tư vấn qua trung tâm dịch vụ việc làm

(1,9%), qua bạn bè/ người thân (61,6%), đặt quảng cáo tìm việc (0,0%), qua

thông báo tuyển người (4,2%), chuẩn bị để bắt đầu hợp đồng (0,0%), khác

(2,7%); trong đó số lao động không có chuyên môn kỹ thuật tìm việc làm

chủ yếu thông qua bạn bè/ người thân (64%), liên hệ/ tư vấn qua trung tâm

dịch vụ việc làm (5,7%). Đặc biệt, có sự khác nhau rất lớn trong phương

thức tìm việc làm giữa khu vực thành thị và nông thôn (ở thành thị, lao

động liên hệ/ tư vấn qua trung tâm dịch vụ việc làm chiếm 11,0%; 0,8% tìm

việc làm thông qua đặt quảng cáo tìm việc). Như vậy, vai trò của các trung

tâm dịch vụ việc làm vẫn còn thấp, mức độ sử dụng các phương tiện truyền

thông đại chúng ở khu vực nông thôn vẫn còn kém hiệu quả, phần lớn người

lao động vẫn phải tự liên hệ với người thân để có được việc làm.

110

Thứ ba, số lượng nông dân chuyển sang ngành nghề mới còn thấp,

chất lượng, tính ổn định và tính bền vững của việc làm cho nông dân sau thuhồi đất chưa cao.

Theo số liệu điều tra của tác giả năm 2012 ở Hà Nội cho thấy: đối

với lao động vùng thu hồi đất, số lao động tìm kiếm được nghề mới ổn

định chiếm tỷ lệ rất thấp (17,97%), còn lại 82,03% là không tìm kiếm

được nghề mới ổn định. So với toàn TP là 35% lao động có việc làm ổn

định, còn lại 65% người lao động đang phải làm các công việc theo thời

vụ, không ổn định. Đây thực sự là gánh nặng cho người dân bị thu hồi đất.

Những con số này tuy không phản ánh đầy đủ thái độ của những người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đối với nghề nghiệp, việc làm của

mình nhưng ở một khía cạnh nào đó nó cũng nói lên nguyện vọng của các

hộ dân bị thu hồi đất. Đa số các hộ dân mong muốn sau khi thu hồi đất

chính quyền bố trí đất ở các khu vực khác để họ tiếp tục làm nghề cũ và

có một bộ phận có ý muốn thoát ly khỏi nghề nông để chuyển nghề mới

có tính ổn định nhưng hiện tại họ không có khả năng do trình độ tay nghề,

vốn và sự tiếp cận thông tin về việc làm. Trong thực tế, quỹ đất của địa

phương là có giới hạn và trình độ học vấn, trình độ tay nghề của lao động

nông nghiệp thấp, do vậy để tạo việc làm phù hợp cho họ sau thu hồi đất

là vấn đề nan giải, trở thành áp lực ngày càng lớn đối Hà Nội.

Bảng 3.17: Cơ cấu lao động trong độ tuổi lao động ở Hà Nội năm 2011chia theo vị thế làm việc

Đơn vị: %Tổng số Nông thôn

Chung Nam Nữ Chung Nam NữChủ cơ sở 4,6 6,5 2,5 3,1 5,2 0,9

Tự làm 32,0 30,4 33,6 40,1 38,3 42,1

Lao động gia đình 14,0 8,1 20,5 18,4 10,3 27,2

Làm công ăn lương 49,5 54,9 43,4 38,3 46,1 29,8

Nguồn: [9. tr. 160].

111

Bảng số liệu 3.17 cho thấy, chất lượng việc làm của lao động nông thôn chưa

cao, số lao động làm chủ cơ sở chiếm tỷ lệ thấp (3,1%), lao động tự làm chiếm tỷ

lệ cao nhất (41,1%), còn lại là lao động gia đình và làm công ăn lương.

Bên cạnh những khó khăn mang tính khách quan thì cũng có những

nguyên nhân chủ quan thuộc về bản thân người lao động cũng gây nhiều trở

ngại trong việc tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp của họ sau thu hồi đất

nông nghiệp. Khi tìm hiểu về khả năng tự tạo việc làm của lao động sau thu

hồi đất nông nghiệp, trong 105 ý kiến trả lời thì có 14,3% cho rằng do họ có

khả năng chuyển đổi nghề nghiệp, 23,8% cho rằng do họ có khả năng nhưng

rất khó khăn và 61,9% cho rằng họ không có khả năng chuyển sang nghề mới.

Theo số liệu điều tra của tác giả năm 2012, những khó khăn mà nông dân

gặp phải để tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp là thiếu vốn sản xuất,

trình độ tay nghề thấp, thiếu thông tin về việc làm... Cụ thể: có 91 ý kiến

(chiếm 30,6%) cho rằng họ thiếu vốn để đầu tư sản xuất, 19 ý kiến (chiếm

6,4%) cho rằng trình độ học vấn và 30 ý kiến (chiếm 10,1%) cho rằng trình độ

tay nghề thấp, 43 ý kiến (chiếm 14,5%) cho rằng tuổi cao, 29 ý kiến (chiếm

9,7%) sức khoẻ yếu, 77 ý kiến (chiếm 25,9%) cho rằng họ khó tiếp cận được

thông tin lao động - việc làm, 8 ý kiến (chiếm 2,7%) gặp khó khăn khi học

nghề và có nhiều ý kiến cho rằng họ gặp khó khăn về môi trường, điều kiện

sản xuất kinh doanh,... Do đó, để GQVL cho người lao động sau thu hồi đất

nông nghiệp ngoài sự nỗ lực của chính quyền địa phương, đòi hỏi bản thân

người lao động phải thực sự nỗ lực vươn lên, tự giác nâng cao trình độ học

vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật mới có thể tìm kiếm việc làm, chuyển đổi

nghề nghiệp và nâng cao thu nhập.

Thứ tư, kết quả xuất khẩu lao động đạt thấp (chỉ chiếm 2% tổng số lao

động được giải quyết việc làm hằng năm), nguyên nhân chủ yếu là: Tâm lý kén

chọn việc làm, có thu nhập cao của lao động Hà Nội rất phổ biến, ngại làm

những công việc giản đơn, nặng nhọc và không đi những nước có thu nhập thấp;

112

các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động của Hà Nội chưa đầu tư cơ sở

vật chất, trang thiết bị và nguồn lực cho hoạt động xuất khẩu lao động.

Công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động chưa được quan tâm

đúng mức, việc kiểm tra, giám sát hoạt động xuất khẩu lao động của cơ quan

quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp chưa thường xuyên và kịp thời,

nên đã xảy ra một số hiện tượng môi giới trong trong hoạt động xuất khẩu lao

động làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và tác động xấu đến

hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.

Thứ năm, hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm chưa thực sự

hiệu quả.

Trong quá trình hoạt động, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì

các trung tâm dịch vụ việc làm vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục trong

tạo việc làm cho người lao động, trong đó có khu vực nông thôn. Những hạn

chế đó là:

+ Cơ sở vật chất của nhiều trung tâm còn nhỏ bé, trang thiết bị chưa

đáp ứng được yêu cầu của công tác dịch vụ việc làm. Hệ thống dịch vụ việc

làm, chưa có những trung tâm mạnh, chưa tạo được sự liên kết để khai thác

thế mạnh của từng trung tâm dịch vụ việc làm.

+ Trong các hoạt động chính của trung tâm dịch vụ việc làm là: dạy

nghề, cung cấp lao động cho những doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng và

tư vấn cho người lao động, người sử dụng lao động về pháp luật lao động, về

chế độ chính sách... thì hiện nay, hoạt động chủ yếu của các trung tâm này

chủ yếu vẫn là dạy nghề ngắn hạn, còn số người được trung tâm dịch vụ việc

làm giới thiệu việc làm còn thấp so với nhu cầu xã hội.

+ Đội ngũ cán bộ của các trung tâm còn thiếu về kiến thức tư vấn,

hướng nghiệp cho người lao động, kinh nghiệm về quản lý lao động, quản lý

hoạt động dịch vụ việc làm chưa đáp ứng được yêu cầu. Theo số liệu thì hiện

nay, trong 11 trung tâm dịch vụ việc làm có dạy nghề đóng trên địa bàn TP có

113

345 người, trong đó số giáo viên là 241 người trong đó mới đa phần là trình

độ đại học và cao đẳng còn lại là trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật.

+ Số trung tâm dịch vụ việc làm này vẫn tập trung chủ yếu ở những

quận nội thành. Do đó, chưa thật sự nắm bắt được nhu cầu của thị trường lao

động của khu vực ngoại thành. Đặc biệt, số lao động ở khu vực ngoại thành

muốn tìm việc, học nghề hay được tư vấn về những nội dung có liên quan đến

lao động, việc làm vẫn chưa tìm đến các trung tâm dịch vụ việc làm nhiều. Vì

thế, đối với khu vực này các trung tâm vẫn chưa thực sự trở thành một phần

của thị trường lao động.

Thứ sáu, chính sách và việc thực hiện chính sách của Nhà nước và

Thành phố trong việc GQVL cho nông dân khi thu hồi đất còn thiếu đồng bộ

và không triệt để.

Nhìn chung hệ thống chính sách về lao động việc làm ở Việt Nam đang

ngày càng hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của quá trình phát triển kinh tế xã

hội đất nước. Tuy nhiên, theo UNDP thì hầu như ở Việt Nam không có bất kỳ

nghiên cứu thực tiễn nào chứng minh hoặc lượng hoá mức độ hiệu quả của

các chính sách đối với thị trường lao động này hoặc tác động của chúng tới thị

trường lao động Việt Nam. Điều đó cho thấy, bên cạnh những ưu điểm, hệ

thống chính sách về lao động, việc làm nói chung và ở khu vực nông thôn nói

riêng của Việt Nam vẫn còn không ít những bất cập.

Hạn chế đầu tiên dễ nhận thấy trong hệ thống chính sách về lao động,

việc làm ở Việt Nam hiện nay chính là sự chồng chéo của nhiều chính sách

cũng như các chương trình, dự án có liên quan. Đây là thực trạng chung về

chính sách ở nhiều lĩnh vực khác nhau của Việt Nam và đối với lĩnh vực lao

động, việc làm cũng không phải là một ngoại lệ. Việc chồng chéo về mặt

chính sách đôi khi được thể hiện khi có quá nhiều các Bộ, ngành cùng tham

gia vào các chương trình dự án hoặc có sự chồng chéo về đối tượng thụ

hưởng, vùng dự án…

114

Báo cáo Lao động và Tiếp cận việc làm (UNDP, 3/2010) đã chỉ ra một

số hạn chế của Bộ Luật lao động hiện hành như: (i) Luật chỉ áp dụng cho các

doanh nghiệp có ít nhất 10 lao động, nên đã bỏ qua một bộ phận lớn trong nền

kinh tế, đặc biệt là khu vực phi chính thức; (ii) Lao động trong khu vực Nhà

nước có nhiều quyền lợi và được bảo vệ nhiều hơn so với khu vực ngoài quốc

doanh; (iii) Lao động tự do và lao động trong nông nghiệp gần như nằm ngoài

phạm vi tác động của Luật [11].

Luật Dạy nghề chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 đến nay, các

văn bản dưới Luật để hướng dẫn việc thực hiện các điều: 62, 72, 84, 86, 88,

89 một số mới được ban hành sau khoảng một năm, một số khác vẫn chưa

được ban hành. Điều này ít nhiều đã có những ảnh hưởng nhất định tới hiệu

quả của Luật. Bên cạnh đó, quá trình soạn thảo và ban hành Luật Dạy nghề

cũng vấp phải khá nhiều các vấn đề khi có sự chồng chéo với Luật Giáo dục,

đặc biệt là về công tác quản lý, điều hành.

Thứ bẩy, việc tổ chức đào tạo nghề cho nông dân khi thu hồi đất không

được nghiên cứu một cách chu đáo, dẫn đến nghề nghiệp được đào tạo chưa

phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, cho nên, mặc dầu người lao

động đã được đào tạo nhưng vẫn không tìm được việc làm.

Thực tế cho thấy: nhiều ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn

hiện nay chưa phù hợp với điều kiện thực tế, phần lớn các đơn vị đào tạo chủ

yếu đào tạo những ngành nghề hiện cơ sở mình đang có mà chưa hướng đến

việc đào tạo cho lao động nông thôn học những nghề gì phù hợp với sở thích,

trình độ, thời gian (có 66,30% lao động mong muốn thời gian học nghề

khoảng 3 tháng, từ 3 - 6 tháng chiếm 30,39%), năng lực của bản thân họ và

nhu cầu của xã hội nên sau khi đào tạo họ khó tìm kiếm việc làm. Chẳng hạn,

trong một khoảng thời gian rất ngắn từ 3 - 4 tháng, mà người lao động nông

thôn lại học các ngành nghề rất khó, đòi hỏi tốn rất nhiều thời gian và công

sức như điện - điện tử, gò hàn, thú y… thì làm sao tiếp cận được nghề một

115

cách thành thục và tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng không tìm được việc làm là

điều không thể tránh khỏi.

Mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề đã bao phủ khắp Thành phố tuy

nhiên phân bổ lại không đồng đều, tập trung đông ở các khu vực đô thị và

thưa thớt ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Việc thiếu các

nguồn lực đào tạo tại chỗ ít nhiều có ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo cũng

như nhu cầu đào tạo của người dân.

Số lượng lao động được đào tạo nhiều nhưng thất nghiệp vẫn cao do có

sự không tương thích giữa nội dung đào tạo, yêu cầu công việc và việc thực

hiện chính sách, quy định của công ty không thoả mãn giữa người sử dụng lao

động với lao động dẫn đến bỏ nghề, bỏ việc. Kết quả của hoạt động dạy nghề

chỉ thực sự có ý nghĩa khi lao động sau khi học nghề có thể tìm được việc làm

bằng chính nghề nghiệp đã được đào tạo. Sự không tương thích giữa nội dung

đào tạo và yêu cầu công việc thực tế chính là một trong những cản trở trong

việc gắn kết các cơ sở sử dụng lao động và cơ sở đào tạo. Sự không tương

thích này không chỉ đơn thuần là hệ thống máy móc, trang thiết bị dạy nghề

tại các cơ sở đào tạo thấp hơn so với tại các cơ sở sử dụng mà thậm chí là

ngược lại bởi các cơ sở dạy nghề đã và đang được đầu tư hoàn thiện trong khi

năng lực kỹ thuật, năng lực kinh tế của các đơn vị sản xuất, kinh doanh tại

khu vực nông thôn cũng còn rất nhiều hạn chế.

Đối với các cơ sở dạy nghề: ngành, nghề đào tạo vẫn nghèo nàn, mới

chỉ tập trung vào một số ngành so với khung ngành, nghề đào tạo nghề do Bộ

Lao động, Thương binh và Xã hội và Sở Bộ Lao động, Thương binh và Xã

hội Hà Nội đã đề ra; khả năng dự báo trong các hoạt động đào tạo nghề còn

nhiều hạn chế; việc đào tạo nghề còn chưa sát với yêu cầu của thị trường. Ví

dụ: cơ sở đào tạo nghề tại xã Tòng Bạt, huyện Ba Vì đào tạo nghề chính là

may, thêu, đan, chăn nuôi; tuy nhiên trong xã không có một xưởng may công

nghiệp nào mà chỉ có một số cửa hàng may tư nhân, ở xã lân cận cũng chỉ có

116

1 cơ sở may với quy mô nhỏ bé.

Thứ tám, các doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp thu hồi chưa thực

hiện tốt cam kết ưu tiên tiếp nhận lao động địa phương bị thu hồi đất

Hiện nay, ở Hà Nội, có một số doanh nghiệp, chủ đầu tư được giao đất

tiếp nhận lao động địa phương nhưng chưa thực sự có trách nhiệm và các dự

án triển khai trên địa bàn TP chưa tạo thêm nhiều việc làm cho người lao

động có đất nông nghiệp bị thu hồi. TP thiếu biện pháp khả thi để vận động và

khuyến khích chủ đầu tư, các doanh nghiệp, các khu công nghiệp tiếp nhận

lao động bị thu hồi đất vào đào tạo và làm việc tại đơn vị, chủ yếu là dựa trên

sự tự nguyện và tinh thần trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với xã hội.

Trên thực tế, không phải doanh nghiệp hay khu công nghiệp nào cũng ý thức

được trách nhiệm đó đối với người lao động nên có một số doanh nghiệp chưa

thực hiện đúng cam kết tuyển dụng lao động địa phương như đã hứa, có thái

độ miễn cưỡng và hết sức thụ động trong việc đào tạo hoặc tiếp nhận lao động

để đào tạo và làm việc.

Thứ chín, sự chuẩn bị của các địa phương và người dân trong GQVL

sau thu hồi đất chưa thực sự thống nhất, gây khó khăn cho người dân, nhất là

người dân nông thôn trong việc ổn định cuộc sống.

Trong thực tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1259/QĐ-TTg

ngày 26 tháng 7 năm 2011 phê duyệt Quy hoạch chung Xây dựng Thủ đô Hà

Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050; UBND TP Hà Nội đã ban hành

Quy hoạch sử dụng đất TP Hà Nội đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất

giai đoạn 2011 - 2015; Đề án "Xây dựng nông thôn mới Hà Nội giai đoạn

2010 - 2020, định hướng đến năm 2030"… để thông báo cho địa phương và

người dân nắm rõ kế hoạch sử dụng và thu hồi đất của TP từ đó có kế hoạch

đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống. Trong Dự thảo Luật đất

đai sửa đổi năm 2013 quy định: Trước khi thu hồi đất ít nhất là 30 ngày, cơ

quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý

117

do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển. So với quy định tại khoản 2 Điều

39 Luật Đất đai 2003 "Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất

nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có

thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời

gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng

mặt bằng, tái định cư" [42] thì thời gian đã được rút ngắn.

Tuy các địa phương đã có quy hoạch sử dụng đất nhưng chính quyền

và người dân vẫn chưa chủ động trong việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để

chuyển đổi nghề nghiệp khi việc thu hồi đất diễn ra. Theo điều tra của tác giả,

phần lớn người nông dân chưa có kế hoạch sử dụng tiền đền bù một cách có

hiệu quả.

Bảng 3.18: Mục đích sử dụng tiền đền bù của nông dân khi thu hồi

đất nông nghiệp

STT Mục đích sử dụng tiền đền bù Tỷ lệ (%)

1 Mua mảnh đất khác 2,2

2 Mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất 18,6

3 Xây mới, sửa chữa nhà 22,4

4 Gửi tiết kiệm 3,7

5 Học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp 2,2

6 Đầu tư cho con cái ăn học 23,9

7 Sắm sửa thiết bị phục vụ sinh hoạt gia đình 6,8

8 Mua sắm, tiêu dùng khác: trả nợ, chữa bệnh… 7,5

9 Chưa biết sử dụng vào mục đích gì 12.7

Tổng số 100

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

Theo bảng số liệu 3.18, chỉ có 44,5% số người nhận tiền đền bù vào

mục đích chuyển đổi nghề nghiệp, học nghề, tạo việc làm; đầu tư cho con

cái ăn học hoặc mua sắm thiết bị, đầu tư cho việc nâng cao hiệu quả sản

118

xuất; còn lại là để xây nhà, trả nợ, mua sắm thiết bị phục vụ sinh hoạt;

thậm chí có đến 12,7% số người trả lời chưa biết sử dụng tiền đền bù vào

mục đích gì. Điều đó cũng cho thấy chính quyền địa phương chưa có biện

pháp chuyển đổi cơ cấu lao động dần theo hướng phi nông nghiệp khi đã có

quy hoạch thu hồi đất nông nghiệp; chưa hướng dẫn người dân sử dụng tiền

đền bù vào sinh kế lâu dài.

Số liệu điều tra điển hình sau đây làm rõ thêm việc hỗ trợ GQVL cho

người nông dân bị thu hồi đất là còn rất hạn chế.

Bảng 3.19: Thực trạng hỗ trợ tìm việc làm

Tiêu chí Số lượng (người) Cơ cấu (%)

1. Tư vấn tìm viÖc lµm

- Có được tư vấn 275 21,6

- Không được tư vấn 997 78,4

2. Hỗ trợ kinh phí tìm việc

- Không được hỗ trợ 168 39,3

- Được hỗ trợ 1 phần 259 60,7

- Được hỗ trợ toàn bộ 0 0,0

Tổng số người trả lời 1.272 100,0

Nguồn: Sở Lao động Thương binh - Xã hội Hà Nội.

Theo các số liệu trong bảng 3.19, việc tư vấn cho người dân tìm việc

mới thực hiện chưa tốt, số người được tư vấn mới chiếm 21,6% vì thế những

người nông dân với lối sống khép kín, ít giao tiếp, ít hiểu biết chung về xã hội

đã rất khó khăn trong việc chuyển đổi nghề nghiệp cho phù hợp với bản thân

và gia đình mình. Tỷ lệ hỗ trợ kinh phí tìm việc có khả quan hơn (60,7%),

nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu, vì còn 39,3% người dân không nhận được

sự hỗ trợ tìm việc hay chuyển đổi nghề mới.

Để giải quyết một cách hiệu quả nhất vấn đề tạo việc làm cho nông

dân khi thu hồi đất nói riêng và khu vực nông thôn nói chung thì ngoài những

119

thuận lợi về cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế - xã hội, TP còn phải tập

trung một nguồn lực tài chính lớn cho công tác này. Mặc dù đây là một khu

vực hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn cho sự phát triển ổn định và bền

vững của TP nhưng sự quan tâm, đầu tư của TP cho nó vẫn chưa tương xứng

với tiềm năng và thế mạnh của khu vực này, việc đầu tư còn dàn trải. Chính

điều này làm cho hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn chưa đáp ứng được yêu

cầu phát triển, chưa tạo lập được môi trường thuận lợi để thu hút được các

nhà đầu tư vào khu vực nông nghiệp và nông thôn.

Chúng ta biết rằng, để tạo được việc làm cho người lao động thì cần

thiết phải có vai trò của Nhà nước, mà cụ thể ở đây là vai trò chỉ đạo của

TP. Tuy nhiên, công tác này trong thời gian qua của TP chưa thực sự đáp

ứng được yêu cầu. Hiện nay, TP chưa có một con số thống kê đầy đủ về số

người lao động bị mất việc làm do thu hồi đất cũng như dự báo một cách

chính xác về khả năng tăng lên của số lao động này. Chưa xây dựng được

một kế hoạch đồng bộ trong việc giải quyết việc làm giữa các cơ quan.

Những hạn chế trên đã làm cho số lao động được tạo việc làm của khu vực

này trong thời gian qua còn thấp, chất lượng và hiệu quả nghề nghiệp

chuyển đổi chưa cao, đòi hỏi trong thời gian tới Thành phố cần có các giải

pháp mang tính đồng bộ, hiệu quả trong công tác giải quyết việc làm cho

nông dân sau thu hồi đất.

120

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

CHO NÔNG DÂN KHI THU HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH THU HỒI ĐẤT VÀ QUAN ĐIỂM GIẢI QUYẾT

VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN HÀ NỘI KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

4.1.1. Dự báo tình hình thu hồi đất và nhu cầu giải quyết việc làm

cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội đến năm 2020

Thời gian qua, bên cạnh những kết quả mà TP đạt được về tạo việc làm

cho lực lượng lao động, trong đó có khu vực nông thôn đã góp phần vào sự

phát triển ổn định của khu vực này nói riêng và cả TP nói chung. Hiện nay,

cùng với tốc độ CNH, HĐH và đô thị hoá diễn ra nhanh thì nguồn cung về lao

động cũng cao hơn nhiều so với cầu về lao động và có xu hướng tăng nhanh

trong những năm tiếp theo. Theo UBND TP Hà Nội, số người trong độ tuổi

lao động trên địa bàn TP năm 2011 là khoảng 4,338 triệu người, dự báo đến

năm 2015 là 4,667 triệu người, bình quân tăng hàng năm khoảng 90.000

người. Theo tính toán, bình quân mỗi năm TP có khoảng 180.000-200.000 lao

động chưa có việc làm, cầu lao động hàng năm dao động khoảng 175.000-

280.000 người. Điều này làm cho quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động

mất cân đối, một bộ phận không nhỏ lao động sẽ bị thất nghiệp.

Theo quy hoạch sử dụng đất TP Hà Nội đến năm 2020, kế hoạch sử

dụng đất giai đoạn 2010 - 2015, trong giai đoạn 2010 đến năm 2015 diện tích

đất nông nghiệp của TP sẽ giảm khoảng 11,6 nghìn ha để chuyển sang các

mục đích phi nông nghiệp, và sẽ tiếp tục giảm 25.218.9 ha đến năm 2020,

làm cho diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội chỉ còn 151.779,9 ha. Như vậy,

trong những năm tới, diện tích đất nông nghiệp của TP Hà Nội sẽ giảm hơn

36.000 ha. Căn cứ theo tính toán của Bộ Lao động - thương binh và xã hội là

mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi thì sẽ làm cho 13 người bị mất việc làm thì

121

có nghĩa trong thời gian tới Hà Nội sẽ có khoảng 468.000 người nông dân bị

mất việc làm do thu hồi đất. Điều này sẽ tác động rất lớn đến cán cân cung -

cầu về việc làm và tạo ra sức ép lớn cho TP trong việc GQVL cho người dân

khi bị thu hồi đất nông nghiệp.

Với định hướng về GQVL và an sinh xã hội ở Hà Nội được Chính phủ

và TP xác định: GQVL, ưu tiên tạo việc làm mới có chất lượng, năng suất và

hiệu quả cao; phấn đấu trong tổng số lao động làm việc, có 30% lao động làm

việc trong các lĩnh vực công nghệ cao, dịch vụ trình độ, chất lượng cao; 10%

lao động trong các lĩnh vực sáng tạo như khoa học và công nghệ, thiết kế, tư

vấn, sáng tác văn học - nghệ thuật… Trung bình hàng năm GQVL cho khoảng

140.000 - 150.000 lượt người thời kỳ 2011 - 2020 và khoảng 120.000 -

130.000 lượt người thời kỳ 2021 - 2030; giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp khu vực

đô thị và tăng hệ số toàn dụng lao động ở khu vực nông thôn; tỷ lệ thất nghiệp

khu vực đô thị ở mức 4,0 - 4,5% năm 2020 và ở mức 3,0 - 3,5% năm 2030.

Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân; từng bước

rút ngắn khoảng cách về điều kiện sống giữa khu vực nội thành và các huyện

ngoại thành; khuyến khích người dân làm giàu theo pháp luật.

Xây dựng hệ thống an sinh xã hội hiệu quả, đa dạng, ngày càng mở

rộng phù hợp với tiềm năng, đặc điểm, yêu cầu và trình độ phát triển của Hà

Nội; tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình giảm nghèo và hỗ trợ các

đối tượng yếu thế trong xã hội; phát triển mạnh và đa dạng hoá hệ thống bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế toàn dân; thực hiện tốt

chính sách bình đẳng giới, chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người có công và

chính sách bảo trợ xã hội.

Đẩy mạnh phòng chống các tệ nạn xã hội; giảm thiểu các tệ nạn xã hội,

ma tuý; xây dựng xã/phường lành mạnh, không có tệ nạn xã hội; duy trì trật

tự, an ninh, an toàn xã hội [72].

Trong giai đoạn 2011-2015, TP ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân

122

lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động, chất lượng việc làm và giá

trị lao động, bảo đảm phát triển thị trường lao động khách quan, lành mạnh,

ổn định, tạo ra nhiều việc làm, khuyến khích các hình thức tạo việc làm tại

chỗ, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Mở rộng quy mô, chất lượng công tác đào

tạo nghề bảo đảm hợp lý về cơ cấu, ngành nghề và phù hợp với nhu cầu của

thị trường lao động. Đồng thời chuyển đổi cơ cấu lao động phù hợp và đáp

ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Giai đoạn (2011 - 2015) TP GQVL cho

705.000 người (có bao gồm đối tượng là nông dân bị thu hồi đất nông

nghiệp). Trong đó, GQVL trong nước là 682.000 người; đi xuất khẩu lao

động là 23.000 người.

4.1.2. Quan điểm về giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi

đất nông nghiệp ở Hà Nội

4.1.2.1. Bảo đảm việc làm ổn định, hợp lý, bền vững, có thu nhập để

nâng cao và cải thiện đời sống cho người nông dân sau thu hồi đất là một

nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đôTrong quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH, việc thu hồi đất để xây dựng

các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,

nhu cầu mở mang các chương trình công cộng của Thủ đô sẽ còn diễn ra với

quy mô lớn và tốc độ nhanh trong những năm tới. Quá trình này sẽ góp phần

quan trọng trong việc phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ,

nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, các trung tâm thương mại và dịch vụ; là yếu tố quan trọng duy trì tăng

trưởng kinh tế ở mức cao, tạo nhiều việc làm ở khu vực chính thức và phi

chính thức, với chất lượng việc làm và giá trị lao động ngày càng cao.

Vì thế, GQVL, thu nhập và đời sống của nông dân sau thu hồi đất vừa

là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài trong kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại ở Hà

Nội. Đây chính là thực hiện một cách sinh động chủ trương nhất quán của

123

Đảng và Nhà nước ta là gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội

theo nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là các vấn đề xã hội bức

xúc trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại.

4.1.2.2. Thành phố tạo môi trường và thực hiện điều tiết vĩ mô để bảo

đảm việc làm, thu nhập và đời sống cho nông dân sau thu hồi đất

Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng bao

gồm việc từng bước hình thành thị trường lao động và việc làm. Thực tiễn

thấy rằng, những khó khăn phức tạp trong quá trình thu hồi đất thời gian

qua là ở chỗ chúng ta chưa thống nhất và quán triệt đầy đủ nguyên tắc thị

trường trong hỗ trợ đào tạo nghề, GQVL. Do chưa quán triệt nguyên tắc

thị trường nên nhiều lúc, nhiều nơi quá nhấn mạnh đến vai trò nhà nước

trong GQVL và thu nhập cho người có đất bị thu hồi, còn bản thân người

có đất bị thu hồi thiếu chủ động trong việc tìm việc làm, thiếu kế hoạch

trong việc sử dụng tiền đền bù để có thu nhập và đời sống ổn định, lâu

dài. Vì thế, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa nên GQVL, thu nhập và đời sống cho người dân có đất

bị thu phải được thực hiện cơ chế kinh tế thị trường, nguyên tắc pháp luật

và chính sách phù hợp.

4.1.2.3. Phải coi việc bảo đảm việc làm, thu nhập và đời sống nông

dân sau thu hồi đất là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị - xã hội, của

các doanh nghiệp và của mọi người dân có liên quan; phát huy tính chủ

động của người dân trong học nghề, tự tạo việc làm và tham gia thị trường

lao động

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá tất yếu dẫn đến việc một

bộ phận lớn nông dân sẽ mất việc làm trong nông nghiệp. Đây vừa là một cơ

hội, vừa là một thách thức rất lớn đối với TP trong quá trình phát triển. Cơ hội

124

ở chỗ chúng ta có điều kiện chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp, sang

công nghiệp và dịch vụ. Thách thức, bởi lẽ đây là vấn đề cực kỳ khó khăn,

nan giải để chuyển người nông dân thành thị dân, chuyển từ lao động giản

đơn thành lao động phức tạp.

Đứng trước cơ hội và thách thức này, nếu chúng ta không có nhận thức

đúng thì có thể sẽ dễ dẫn đến các sai lầm trong giải quyết các vấn đề. Hoặc là

sẽ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá với bất cứ giá nào, bỏ mặc

nông dân lâm vào cảnh bần cùng, thất nghiệp, nghèo đói; hoặc là kìm hãm

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá.

Các mục tiêu phát triển, các giải pháp thực hiện công nghiệp hoá, đô

thị hoá cần được thảo luận một cách nghiêm túc tại các đại hội Đảng bộ các

cấp. Các cấp uỷ đảng cần xem xét kỹ, đánh giá một cách khách quan, toàn

diện những mặt được và hạn chế trong việc thực hiện công nghiệp hoá, đô thị

hoá, nhất là kiểm tra, đôn đốc, chăm lo GQVL, thu nhập và đời sống cho

người dân; bảo đảm để các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về

công nghiệp hoá, đô thị hoá thấm nhuần trong cuộc sống, đem lại lợi ích thiết

thực và bền vững cho mọi tầng lớp nhân dân.

Đối với người nông dân, họ cần phải nâng cao tính chủ động trong

việc tìm việc làm, sử dụng tiền đền bù để chuyển đổi nghề nghiệp, tìm

kiếm việc làm nhằm có thu nhập ổn định; cùng nhà nước để giải quyết

những yêu cầu bức xúc về việc làm, thu nhập, và sớm ổn định đời sống của

bản thân và gia đình.

4.1.2.4. Thực hiện đa dạng hoá việc làm và chú ý việc làm tại chỗ,

nhất là trong nông nghiệp, nông thôn

Tạo việc làm tại chỗ có một ý nghĩa quan trọng không chỉ với vấn đề

lao động việc làm cho nông dân sau thu hồi đất mà còn với sự phát triển nói

chung của khu vực nông thôn và của cả quốc gia. Trên thế giới, tạo việc làm

125

phi nông nghiệp tại các vùng nông thôn là một trong những giải pháp chính

giúp thay đổi bộ mặt nông thôn tại nhiều quốc gia. Đầu tư vào nông nghiệp,

nông thôn được cải thiện cũng có nghĩa làm gia tăng cơ hội việc làm trên cả

hai lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Khi việc làm tại khu vực nông

thôn cũng như nông nghiệp được cải thiện cũng đồng nghĩa với áp lực phải

cải thiện về cầu lao động, thu nhập, điều kiện làm việc tại các khu vực công

nghiệp, dịch vụ có sử dụng lao động của khu vực nông thôn sẽ tăng lên.

Do đặc thù của lao động nông thôn là phần lớn lao động chưa qua

đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn cũng như những kỹ năng

trong sản xuất, vì vậy, để đáp ứng nhu cầu giải quyết lao động dư thừa và

tạo thêm việc làm cho nông dân khi thu hồi đất đòi hỏi chúng ta bên cạnh

việc phát triển những ngành công nghệ cao thì cũng phải phát triển những

ngành ở trình độ kỹ thuật trung bình. Đây là một trong những phương thức

tạo việc làm một cách hiệu quả và ổn định cho số lao động này theo

phương châm "ly nông bất ly hương" nhằm tránh sức ép về việc làm cho

khu vực thành thị.

4.1.2.5. Giải quyết việc làm có trọng tâm, trọng điểm cho những

người có nhu cầu việc làm; các biện pháp giải quyết việc làm cần phải đồng

bộ, toàn diện

Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá tạo ra được nhiều việc làm mới

cho người lao động, nhưng bên cạnh đó cũng có một bộ phận dân cư bị mất

việc làm. Vì vậy, quan điểm GQVL cho những đối tượng thực sự cần việc

làm và các đối tượng chính sách được đặt lên hàng đầu để tạo công bằng xã

hội cao.

Ngoài ra, khi xây dựng các biện pháp GQVL cần toàn diện, đồng bộ về

chính trị - kinh tế - xã hội, về y tế, giáo dục, dân số - kế hoạch hoá gia đình

cũng như về tài chính, tín dụng và xây dựng cơ sở hạ tầng...

126

4.2. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN KHI THU

HỒI ĐẤT Ở HÀ NỘI

4.2.1. Khuyến khích phát triển đa dạng các loại hình tổ chức sản

xuất kinh doanh để giải quyết việc làm

4.2.1.1. Tạo điều kiện phát triển và mở rộng các doanh nghiệp vừa

và nhỏ để thu hút lao động

Để nông thôn thực sự phát triển bền vững theo hướng CNH-HĐH,

trước hết phải mở rộng sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là

các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), nơi tạo ra thu nhập cao và ổn

định. Thực tế cho thấy các loại hình kinh tế này có khả năng áp dụng khoa

học kỹ thuật tốt hơn và có tiềm lực kinh tế để sẵn sàng đầu tư khi cần thiết.

DNVVN tạo điều kiện và thúc đẩy khả năng sáng tạo và làm chủ của lao

động nông thôn.

Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về

mặt vốn, lao động hay doanh thu. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56 năm

2009 ngày 30/6/2009 của Chính phủ, qui định số lượng lao động trung bình

hàng năm từ 10 người trở xuống được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến

dưới 200 người lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ và từ 200 đến 300

người lao động thì được coi là doanh nghiệp vừa.

Trong báo cáo phân tích mang tên "Tài trợ tương lai" vừa được Ernst &

Young công bố thì các DNVVN tạo ra 50% VL cho các nước thành viên

nhóm kinh tế G20. Trong khi đó ở Việt Nam, theo số liệu thống kê chưa đầy

đủ, DNVVN chiếm khoảng 95% tổng số các doanh nghiệp, sử dụng khoảng

50% lực lượng lao động và đóng góp 40% GDP cho nền kinh tế

Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, lượng vốn trung bình cho 1

chỗ làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chỉ 35 triệu đồng, công ty TNHH là

45 triệu đồng; trong khi lượng vốn bỏ ra để tạo 1 chỗ làm việc tại doanh

127

nghiệp Nhà nước lên tới 87,5 triệu đồng. Điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng

vốn ở khu vực DNVVN cũng rất khả quan. Khu vực DNVVN còn góp phần

quan trọng thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề mới.

Ở khu vực nông thôn, sự phát triển của DNVVN là kết quả của phát

triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội nông thôn. Đồng thời,

phát triển DNVVN còn là yêu cầu cấp bách để GQVL, cải thiện đời sống

nông dân nông thôn. Hiện nay, bình quân một doanh nghiệp vừa và nhỏ nông

thôn sử dụng 30 lao động. Quy mô sử dụng lao động của các doanh nghiệp

vừa và nhỏ nông thôn không lớn, nhưng với ưu thế về số lượng lớn doanh

nghiệp nên khả năng GQVL cho người lao động là rất lớn. Ngoài ra, DNVVN

còn là khu vực năng động và thích ứng nhanh với những thay đổi của thị

trường, góp phần giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền thống. Ở nước ta

DNVVN nông thôn đã GQVL cho khoảng 1.215 triệu người, chiếm khoảng

3,85% tổng số lao động làm việc của nông thôn, trong đó 71,43% lao động

thường xuyên và 28,57% lao động thời vụ.

Kỹ năng lao động của lao động nông nghiệp thấp, gây khó khăn trong

việc đáp ứng các yêu cầu công việc, do đó việc nâng cao kỹ năng của người

lao động không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân họ mà còn phụ thuộc vào

chính những yêu cầu của công việc, nói cách khác là phụ thuộc vào các chủ

cơ sở sản xuất kinh doanh, chủ doanh nghiệp. Quy mô của các cơ sở sản xuất

kinh doanh, doanh nghiệp ở khu vực nông thôn thường thuộc vào nhóm nhỏ

và siêu nhỏ với rất nhiều những hạn chế về khoa học kỹ thuật, thị trường. Thế

mạnh của rất nhiều các doanh nghiệp/cơ sở sản xuất kinh doanh ở nông thôn

hiện nay không phải dựa vào máy móc, khoa học kỹ thuật hay kỹ năng lao

động ở một trình độ cao mà chủ yếu lại dựa vào lực lượng lao động đông và

giá rẻ. Vì vậy, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn là giải

pháp hữu hiệu để GQVL cho nông dân bị thu hồi đất.

128

Trong những năm qua, số lượng các DNVVN ở khu vực nông thôn có

xu hướng tăng lên do TP đã quan tâm phát triển cơ sở hạ tầng và xây dựng

các khu, cụm công nghiệp nên đã thu hút các doanh nghiệp về đầu tư ở khu

vực này. Các doanh nghiệp thuộc khu vực này đã thu hút nhiều lao động, tạo

nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống

dân cư. Các cơ sở kinh tế tư nhân đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ

vừa tạo việc làm cho mình, cho những người thân trong gia đình, làm giàu

cho bản thân, giảm tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn.

Đến năm 2009, khu vực nông thôn có 30 doanh nghiệp nông, lâm

nghiệp, chủ yếu là các nhà máy chế biến nông lâm sản, sản xuất thức ăn chăn

nuôi. Các doanh nghiệp là các đầu mối tiêu thụ một lượng đáng kể nông sản,

nguyên liệu sản xuất ở nông thôn, đồng thời tham gia tích cực giải quyết lao

động việc làm nông thôn. 90. Tuy nhiên tăng trưởng ở khu vực doanh

nghiệp chủ yếu ở quy mô nhỏ thậm chí siêu nhỏ chính vì thế khả năng tạo

nhiều việc làm và việc làm mang tính bền vững chưa cao.

Với mục tiêu từ năm 2011 - 2015; số DNVVN và mới thành lập dự

kiến tăng 7%/năm; tạo thêm khoảng 700.000 chỗ làm mới; đóng góp ngân

sách Nhà nước khoảng trên 30%/năm [89]. Trong những năm tới, TP Hà Nội

cần tập trung vào một số vấn đề:

- Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển, huy động và khai thác các nguồn lực

hỗ trợ cho DNVVN trên địa bàn TP.

- Đẩy mạnh các chương trình đổi mới ứng dụng công nghệ.

- Thúc đẩy các liên kết kinh tế, liên kết ngành. Tạo môi trường liên kết

bốn nhà nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN.

- Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chương trình hành động trợ giúp

phát triển DNVVN trên địa bàn TP: công tác hỗ trợ thông tin và tư vấn doanh

nghiệp; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tham mưu, đề xuất các giải

pháp tháo dỡ khó khăn...

129

4.2.1.2. Khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh ở các khu, cụm

công nghiệp nhằm thu hút được nhiều lao động địa phương

Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội vừa được Chính phủ phê duyệt đang

tạo cơ hội đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn Hà Nội. Hà

Nội sẽ hình thành các khu công nghệ cao, cụm, KCN (8.000 ha). Phía Bắc

bao gồm Sóc Sơn, Mê Linh, Đông Anh, Gia Lâm, Long Biên, Từ Liêm

khoảng 3.200 ha với mục tiêu ưu tiên phát triển công nghiệp điện tử - công

nghệ thông tin, cơ khí, sản xuất ôtô, công nghiệp vật liệu mới, hoá dược - mỹ

phẩm, dệt may. Phía Nam bao gồm Thường Tín, Phú Xuyên khoảng 1.500 ha:

ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sinh học phục vụ nông nghiệp (nông

nghiệp công nghệ cao), chế biến nông sản công nghệ hiện đại với nguyên liệu

đầu vào từ vùng phát triển nông nghiệp thuộc các tỉnh phía nam Hà Nội, phát

triển công nghiệp hỗ trợ (dệt may, da giày, cơ khí chế tạo, điện tử tin học, sản

xuất và lắp ráp ôtô…). Phía Tây bao gồm Hoà Lạc, Xuân Mai, Miếu Môn

khoảng 1.800 ha: ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, công

nghiệp sinh học phục vụ nông nghiệp, hoá dược - mỹ phẩm, công nghệ điện

tử, cơ khí chính xác, công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano, công nghệ năng

lượng mới, vật liệu xây dựng, nội thất cao cấp… Các thị trấn khoảng 1.400 -

1.500 ha: ưu tiên phát triển công nghiệp sinh thái, chế biến nông sản thực

phẩm chất lượng cao [85].

Sự phát triển của các khu công nghiệp không chỉ góp phần thúc đẩy

kinh tế phát triển mà còn góp phần quan trọng trong việc GQVL cho người

lao động. Chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang mô hình phi nông nghiệp là

cần thiết và mô hình khu công nghiệp là một lựa chọn hợp lý. Thực tế, trong

các lựa chọn chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phi nông

nghiệp phần lớn người dân nông thôn đều mong muốn phát triển các khu công

nghiệp vì mô hình này sẽ mang lại nhiều cơ hội việc làm hơn cho của người

dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và con cái của họ.

130

Trong những năm tới, để phát huy vai trò của các khu, cụm công nghiệp

trong phát triển kinh tế và GQVL, TP cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:

- Phát triển công nghiệp thành phố Hà Nội cần chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế và dựa trên lợi thế so sánh về nguồn lực, kết hợp chặt chẽ sản xuất

với thị trường, gắn với hai hành lang và một vành đai kinh tế.

- Phát triển các ngành công nghiệp chất lượng cao, công nghệ cao gắn

với chiến lược phát triển kinh tế tri thức, phát triển bền vững.

- Phát triển công nghiệp phải gắn với việc di dời các cơ sở sản xuất

không phù hợp với quy hoạch và gây ô nhiễm môi trường tại các khu dân cư.

- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về công nghiệp. Thực hiện

cải cách hành chính theo hướng tập trung giải quyết tháo gỡ khó khăn cho

doanh nghiệp, tạo lập môi trường bình đẳng, thông thoáng cho hoạt động sản

xuất kinh doanh.

- Tăng cường công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch. Xây

dựng chương trình hợp tác liên doanh, liên kết với các đơn vị trong và ngoài

nước, nhằm mở ra cơ hội mới cho công nghiệp Hà Nội trong việc thu hút các

nguồn vốn đầu tư phát triển.

- Phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ phù hợp quy hoạch để giải

quyết mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp vì trong tương lai, nó sẽ góp phần

GQVL, tạo thu nhập cho lao động khu vực này trong quá trình CNH, HĐH và

đô thị hoá.

- Có cơ chế khuyến khích và yêu cầu các doanh nghiệp sử dụng đất thu

hồi phải cam kết, có trách nhiệm ưu tiên trong tuyển chọn lao động và sử dụng

số lao động này khi học nghề xong. Đồng thời, cần có chế tài xử phạt đối với

các doanh nghiệp không thực hiện các cam kết trên vì GQVL không chỉ là

trách nhiệm của tất cả các ngành, các doanh nghiệp, các cá nhân và của cả xã

hội mà còn đặc biệt là trách nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi

của nông dân.

131

4.2.1.3. Đẩy mạnh phát triển làng nghề và ngành nghề truyền thống

để giải quyết việc làm

Sự phục hồi và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, làng

nghề truyền thống ngoài vai trò GQVL, bảo đảm thu nhập cho người lao động

trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá còn tác động đến phát triển lực

lượng lao động chuyên môn kỹ thuật ở các huyện ngoại thành. Phát triển làng

nghề góp phần làm tăng lên lực lượng lao động có tay nghề, có trình độ

chuyên môn kỹ thuật. Đây là những ngành nghề mang tính xã hội cao, truyền

nghề, dạy nghề hướng vào bảo đảm tạo VL ổn định, tăng thu nhập cho người

lao động, mức sống cho một bộ phận lớn dân cư ở nông thôn, đặc biệt là lao

động tại khu vực Nhà nước thu hồi đất cho đô thị hoá, công nghiệp hoá.

Phát triển làng nghề có tác dụng rõ rệt đối với quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông thôn. Sự lan toả của các làng nghề đã mở rộng quy mô và địa

bàn sản xuất, thu hút được nhiều lao động, kéo theo sự phát triển của nhiều

ngành nghề khác như thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin liên lạc, cung

cấp điện nước… và ngược lại, những ngành nghề này lại hỗ trợ trực tiếp cho

sự phát triển của làng nghề. Đến nay, nhiều làng nghề đã góp phần tăng tỷ

trọng ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Những

năm gần đây, hoạt động ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở

nông thôn Hà Nội đã thu hút được số lao động tham gia sản xuất trong các

làng có nghề là 626.557 người với 166.393 hộ sản xuất, 2.063 công ty cổ

phần, 4.562 công ty TNHH, 1.466 Doanh nghiệp tư nhân, 164 Hợp tác xã và

50 Hội, Hiệp hội, trong đó số lao động tại chỗ là 412.500 người (chiếm

64,93% tổng số lao động trong làng và chiếm 41,32% tổng số lao động sản

xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên toàn TP), và số lao động từ các

nơi khác đến làm thuê là 214.057 người. Số lao động tại chỗ của các làng

nghề tập trung ở các nhóm ngành như: Mây tre đan, mũ lá, thêu ren, sơn mài,

khảm trai, điêu khắc, dát quỳ vàng bạc, gốm sứ...

132

Hà Nội là địa phương có số làng nghề đứng đầu cả nước với trên 1.000

làng nghề, song việc đào tạo lao động vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Rất

nhiều làng nghề truyền thống có yếu tố văn hoá, nghệ thuật cao như nón

Chuông, đèn lồng Vác (Thanh Oai), nhạc cụ dân tộc Đào Xá (Ứng Hoà)...

chưa được quan tâm nghiên cứu để có hướng đào tạo lao động phù hợp.

Nhiều người trong số đó tuổi cao đã qua đời, song các thế hệ sau lại chưa thể

tiếp thu được những tinh hoa của các lớp người đi trước. Trong khi đó, thực tế

sản xuất gặp nhiều khó khăn bởi thị trường, giá cả khiến thợ bỏ nghề hoặc

không chú tâm nhiều vào nâng cao tay nghề. Điều đó cho thấy, đào tạo nghề

cho lao động tại các làng nghề, đặc biệt là các nghề thủ công mỹ nghệ đang

trở nên cần thiết không chỉ để nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn mà

còn góp phần lưu giữ tinh hoa văn hoá dân tộc. Tại các làng nghề, việc dạy

nghề mới chỉ dừng lại ở việc truyền nghề theo kiểu kèm cặp nhỏ lẻ, chủ yếu

theo quy mô gia đình, ít làng nghề tổ chức được các lớp dạy nghề bài bản,

chưa thu hút được các nghệ nhân cao tuổi vào dạy, cơ sở vật chất, phương

tiện dạy nghề trong các gia đình còn đơn giản và thiếu.

Với mục tiêu được TP xác định: phát triển làng nghề nhằm tạo việc

làm ổn định cho khoảng 800 ngàn đến 1 triệu lao động nông thôn, trong đó

tạo việc làm mới cho khoảng 200 ngàn lao động; phấn đấu thu nhập bình

quân đầu người đạt 25 - 30 triệu đồng/ năm vào năm 2015, 35 - 40 triệu

đồng/năm vào năm 2020 và 50 - 60 triệu đồng/năm vào năm 2030 [88], TP,

làng nghề và người lao động nên làm tốt các việc sau:

- Bảo tồn, khôi phục và phát triển lại các làng nghề, nghề truyền thống.

Đa dạng hoá, thương mại hoá sản phẩm, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh

tranh mạnh trên thị trường; mở rộng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu.

- Khuyến khích và có biện pháp ưu đãi về vật chất, tinh thần đối với

các nghệ nhân có uy tín để thông qua họ có thể giữ gìn, phát huy được các

ngành nghề truyền thống của địa phương.

133

- Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nghề theo hình thức truyền

nghề, nhân cấy nghề; xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc biệt để các nghệ

nhân và thợ giỏi tham gia đào tạo.

- Hỗ trợ các làng nghề tìm kiếm thị trường nguyên liệu và thị trường

tiêu thụ sản phẩm: quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, tăng cường liên kết

với các tỉnh, thành trong cả nước trong việc cung cấp đầu vào cho sản xuất;

gắn kết các làng nghề với hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, tham

gia các hội chợ triển lãm; phối hợp với các Trung tâm xúc tiến thương mại,

thương vụ để quảng bá, giới thiệu và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài…

- Kết hợp phát triển du lịch với chấn hưng các làng nghề, ngành nghề

truyền thống bằng cách xây dựng các tour du lịch đến các làng nghề, giới

thiệu và quảng bá các sản phẩm truyền thống đối với du khách quốc tế.

- Tăng cường ưu đãi về vốn đầu tư, ưu đãi tín dụng đối với các ngành

nghề, chủ cơ sở sản xuất sản phẩm mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ tiên

tiến vào sản xuất trong một số công đoạn nhất định nhằm giảm nhẹ sức lao

động, nâng cao năng suất và tạo thêm nhiều việc làm cho lao động…

4.2.1.4. Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, du lịch, dịch vụ và

kinh tế hộ gia đình

Theo số liệu thống kê đến năm 2010, toàn TP có 3.561 trang trại; diện

tích bình quân 1 trang trại là 2,58 ha. Trong đó có 1.664 trang trại chăn nuôi,

566 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, 127 trang trại trồng cây lâu năm, 72 trang

trại trồng cây hàng năm và 1.132 trang trại tổng hợp. Các huyện có số lượng

trang trại nhiều là Chương Mỹ, Thường Tín, Thanh Oai, Hoài Đức, Phú

Xuyên, Quốc Oai, Phú Thọ, Thanh Trì, Đông Anh [85].

Năm 2009, các trang trại sử dụng 8.259 ha đất (đất nông nghiệp

2.706,2 ha, đất lâm nghiệp 675,4 ha, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản

4.600,9 ha và đất khác 276,4 ha), trung bình mỗi trang trại sử dụng 2,58 ha

đất. Các trang trại GQVL thường xuyên cho 17.370 lao động, bình quân

134

mỗi trang trại sử dụng 5,4 lao động, trong đó lao động của chủ trang trại

2,6 người/trang trại, còn lại là lao động thuê [85].

Trang trại ngày càng phát triển đa dạng, ở một số địa phương đã xuất

hiện mô hình trang trại kết hợp với du lịch sinh thái hoạt động khá hiệu quả.

Vì vậy, trong thời gian tới mô hình này cần được nhân rộng ra nhiều địa

phương khác trong TP. Ngoài ra, các mô hình trang trại chăn nuôi cũng phát

triển khá hiệu quả như CP Gruup, Proconco... đây là mô hình trang trại khá

hiệu quả cần được khuyến khích và hỗ trợ phát triển.

Ngoài ra, sự phát triển của các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị tại các

huyện ngoại thành ra đời đã tác động đến việc tăng quy mô và nâng cao chất

lượng lao động trong các ngành dịch vụ. Các dịch vụ khách sạn, nhà hàng,

thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, tín dụng, dịch vụ cá nhân… hoạt động

sôi nổi, kéo theo sự phát triển nhu cầu đào tạo lao động trong các lĩnh vực này;

đồng thời tạo ra việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống của một bộ

phận lớn dân cư và hộ gia đình ơ khu vực lân cận và đặc biệt là tạo việc làm

cho đối tượng là nông dân bị mất việc làm khi thu hồi đất nông nghiệp.

Bên cạnh đó, kinh tế hộ gia đình có vị trí hết sức quan trọng, là một mô

hình kinh tế mang lại hiệu quả cao, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao

động. Các thành viên kinh tế hộ gia đình là những người có quan hệ hôn nhân

hoặc huyết thống, người chủ quản lý của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ

hộ. Chủ hộ điều hành toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và chịu trách

nhiệm về các hoạt động đó. Hiện nay việc phát triển kinh tế hộ gia đình là giải

pháp tốt để tạo ra nhiều việc làm tại chỗ, phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi trình

độ, tận dụng được các nguồn lực tại chỗ như: đất đai, tài nguyên, nguồn vốn

nhàn rỗi, kinh nghiệm quản lý và tận dụng được nguồn lao động dư thừa đặc

biệt là lao động nữ.

Giải pháp đề ra đối với các loại hình kinh tế này trong thời gian tới là:

+ Xây dựng các trung tâm dịch vụ chất lượng cao; đa dạng hoá, nâng

135

cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ, chú trọng các sản phẩm dịch vụ cao.

+ Tập trung chỉ đạo phát triển các dịch vụ mang tính liên ngành có khả

năng tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác, các dịch vụ phục vụ trực

tiếp cho sản xuất kinh doanh và đối ngoại

+ Tiếp tục đầu tư hiện đại hoá cơ sở vật chất, đa dạng hoá các loại hình,

nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế

trọng điểm của Thủ đô.

+ Khuyến khích phát triển các dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng sống

của người dân và khách du lịch Thủ đô. Đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ xuất

khẩu và tăng cường xuất khẩu dịch vụ; ưu tiên phát triển các dịch vụ phục vụ

phát triển nông nghiệp và nông thôn.

+ TP có chính sách khuyến khích phát triển các mối liên kết giữa hộ

nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành

hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế trang trại có quy mô

phù hợp, hướng đến sản xuất hàng hoá lớn.

+ Thực hiện các giải pháp phát triển nhanh các ngành dịch vụ trên địa

bàn để thu hút lao động như: du lịch, kinh doanh ngân hàng, tín dụng, bảo

hiểm, dịch vụ tư vấn, kinh doanh bất động sản...

4.2.2. Nâng cao trình độ, tính chủ động của nông dân để họ tìm

kiếm được việc làm

4.2.2.1. Phát triển và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề cho

người lao động

Một trong những đặc điểm của lao động nông nghiệp là trình độ học vấn

và tay nghề thấp. Phần lớn họ chỉ mới tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở,

chưa được trải qua một lớp đào tạo nghề nào. Điều này đã trở thành rào cản lớn

đối với người lao động nông nghiệp sau thu hồi đất trong việc tự tìm kiếm việc

làm, chuyển đổi nghề nghiệp và hoà nhập cuộc sống mới. Chính vì vậy, TP và

các cấp, các ngành cần phải có giải pháp nhằm nâng cao trình độ học vấn và

136

tay nghề cho đối tượng này.

Để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo nghề cho nông dân sau thu

hồi đất, trong những năm tới TP cần tập trung vào thực hiện các biện pháp:

+ TP cần tiến hành điều tra trình độ học vấn của người lao động bị thu

hồi đất, đồng thời TP khuyến khích, vận động các doanh nghiệp, các nhà hảo

tâm, các tổ chức nước ngoài tham gia xây dựng Quỹ hỗ trợ ổn định đời sống,

học tập, đào tạo nghề và việc làm đối với các hộ dân thuộc diện thu hồi đất

nông nghiệp.

+ Từng địa phương xác định số lao động bị ảnh hưởng do thu hồi đất

nông nghiệp để có kế hoạch đào tạo, sử dụng: số hộ gia đình bị thu hồi đất

nông nghiệp chia theo diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi, lao động chia theo

độ tuổi trình độ, giới tính, tình trạng việc làm, nhu cầu đào tạo lao động và

nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trên địa bàn...

+ Trong quá trình thực hiện các dự án có thu hồi đất nông nghiệp, địa

phương cần bảo đảm có một cơ sở đào tạo nghề để thu hút người lao động và

con em họ vào học nghề. Nội dung đào tạo lao động cần chú ý đến sự hiểu

biết của học viên về Luật pháp, Luật Lao động, quan hệ lao động, kỷ luật lao

động,… Cần đưa cả kỹ năng sống vào chương trình giảng dạy, giúp họ có

được tác phong làm việc nghiêm túc, tuân thủ kỷ luật lao động và có khả năng

làm việc nhóm.

+ TP gắn kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực lao động với mục

tiêu phát triển, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và đào tạo nghề theo đơn đặt

hàng của doanh nghiệp và theo nhu cầu xã hội. Vận dụng bài học kinh nghiệm

của tỉnh Lào Cai là: tránh việc "cái cần thì không dạy, cái dạy thì không cần".

Lào Cai đã tiến hành điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề của các hộ nông dân

có nhu cầu học nghề. Song song với việc khảo sát nhu cầu của các hộ nông

dân, Sở LĐ-TB&XH Lào Cai cũng tiến hành khảo sát nhu cầu tuyển dụng của

các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Với kết quả khảo sát này, một số hộ được

137

học nghề nông nghiệp gắn với nhu cầu thiết thân của họ. Số khác với nhu cầu

chuyển đổi nghề nghiệp, Lào Cai đã tổ chức dạy nghề theo nhu cầu của những

doanh nghiệp trên địa bàn. Với cách làm như vậy, tỉnh Lào Cai đã giải quyết

được hai vấn đề. Thứ nhất, không gây lãng phí về thời gian của người dân

cũng như tiền bạc của Nhà nước. Thứ hai, đó chính là hiệu quả dạy nghề, giải

quyết được việc làm cho người dân sau học nghề. Vì vậy, các cơ sở dạy nghề

cần đổi mới chương trình, nội dung giảng dạy ở các cơ sở dạy nghề phù hợp

với điều kiện, đặc điểm của người lao động nông nghiệp để họ có thể chuyển

đổi nghề nghiệp dễ dàng và thích ứng với sự thay đổi của môi trường.

+ Tăng cường sự liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp. Kết

quả từ mô hình dạy nghề với các tập đoàn, tổng công ty cho thấy: các tập

đoàn, tổng công ty đã hoàn thành 38 lớp dạy nghề với 1.140 người, cung

cấp lao động cho Tập đoàn Dệt - May, Điện lực, tiếp tục triển khai các hợp

đồng đặt hàng dạy nghề năm 2010 cho 5.810 người và triển khai đặt hằng

năm 2011 cho 4.730 người trình độ Trung cấp, Cao đẳng nghề có địa chỉ

đầu ra cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân tộc thiểu số

và lao động bị thu hồi đất có khó khăn về kinh tế. Vì vậy, TP cần khuyến

khích các doanh nghiệp và các trường dạy nghề chủ động xây dựng kế

hoạch đào tạo đối với các nghề mới. Đồng thời, TP cần đẩy mạnh hoạt

động đào tạo nghề theo hướng tăng nhanh về quy mô và nâng cao chất

lượng, trong đó tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực

quan trọng của TP như: du lịch, thương mại, vận tải, kho bãi, điện tử, điện

lạnh, viễn thông, công nghệ thông tin...

+ Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy

phù hợp với công nghệ hiện đại, tiếp cận với thiết bị mà các cơ sở sản xuất

đang sử dụng cho các cơ sở dạy nghề. Ngoài việc đào tạo về tay nghề, các nội

dung liên quan tới ý thức kỷ luật, tác phong công việc, quyền lợi và trách

nhiệm của người lao động cũng dần được đưa vào hoạt động đào tạo.

138

+ Không chỉ đào tạo nghề cho những nơi đã đền bù giải toả mà TP phải

chủ động có kế hoạch đào tạo đối với những vùng dự kiến chuyển mục đích

sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp trong tương lai.

4.2.2.2. Nâng cao tính chủ động của nông dân về tự tạo, tìm kiếm

việc làm, nâng cao thu nhập cho bản thân và gia đình sau khi thu hồi

đất nông nghiệpTâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước đã làm giảm đi

tính tích cực, chủ động của người lao động bị thu hồi đất trong chuyển đổi

nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn

cho các cấp chính quyền trong việc GQVL cho người lao động. Nếu các

cấp chính quyền cố gắng, tích cực, năng động triển khai chính sách GQVL

nhưng bản thân người lao động thiếu tích cực, chủ động thì cũng không thể

mang lại hiệu quả cao. Để thực hiện tốt giải pháp này cần:

Thứ nhất, các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể thường xuyên vận

động, giáo dục lao động bị thu hồi đất thấy được tính đúng đắn trong các chủ

trương, chính sách phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng các công trình

công cộng... mục đích là để phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống tốt hơn cho

nhân dân, trong đó có bản thân người lao động nhường đất.

Thứ hai, các cơ quan, tổ chức như Sở LĐ-TB&XH, Hội Nông Dân,

Hội Phụ nữ… cần có các giải pháp có tính định hướng để hướng dẫn cho các

hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp sử dụng tiền đền bù, tiền hỗ trợ vào đúng

mục đích như học nghề, đầu tư kinh doanh... khuyến khích người lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp tích cực, chủ động tự tìm kiếm việc làm thông qua

các sàn giao dịch việc làm, qua bạn bè, người thân và qua các phương tiện

thông tin đại chúng.

Thứ ba, người dân cần tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển

sang phát triển sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng tiến bộ khoa

học tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích theo phương hướng:

139

+ Trong sản xuất nông nghiệp cần tập trung, đẩy mạnh dồn điền, đổi

thửa. Nông dân nâng cao việc học tập, có kiến thức sản xuất nông nghiệp theo

hướng thâm canh, hiện đại, mang lại thu nhập cao từ nông nghiệp, luân canh

cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, để ứng dụng các loại giống mới và điều

chỉnh cơ cấu mùa vụ hợp lý.

+ Kết hợp giữa nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất, dịch vụ trong nông

nghiệp để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp hàng hoá có năng suất, chất lượng,

an toàn sinh học, có khả năng cạnh tranh và đào tạo đủ về số lượng nguồn nhân

lực có chất lượng cao cho phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cho

thủ đô Hà Nội.

+ Ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng, vật nuôi, đặc

biệt mở rộng việc ứng dụng rộng rãi các loại giống cho sản phẩm chất

lượng cao như: Sản xuất giống lúa và ngô có chất lượng cao; Sản xuất rau

thương phẩm an toàn; Nhân giống hoa cao cấp: hoa lan, hồng, cúc, loa

kèn.v.v; Phát triển sản xuất và dịch vụ cây cảnh, cá cảnh ; Nhân giống cây

ăn quả sạch bệnh và sản xuất cây ăn quả đặc sản; Chăn nuôi lợn siêu nạc;

bò thịt chất lượng cao. Sản xuất thuỷ sản và thuỷ đặc sản.

+ Ứng dụng thể nghiệm và triển khai các quy trình công nghệ dự kiến

được áp dụng như: sử dụng phân bón hữu cơ; kỹ thuật tưới phun mưa, phun

sương, tưới kết hợp với dinh dưỡng; sử dụng các loại dinh dưỡng tổng hợp;

điều hoà nhiệt độ, ánh sáng.v.v.

Thứ tư, đối với những lao động không còn đất sản xuất phải chuyển đổi

sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Lao động cần nâng cao ý thức đào tạo,

hướng nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ. Người lao động được hưởng lợi từ

nguồn vốn vay từ quỹ hỗ trợ GQVL, ổn định đời sống phải thấy rằng đây là

vốn cho vay chứ không phải là chia cho mọi người, vì thế phải bảo đảm dụng

nguồn vốn này một cách hiệu quả, là cơ sở để cho họ tạo việc làm, phát triển

140

kinh tế, nâng cao thu nhập cho bản thân đồng thời có thể hỗ trợ cho người

khác cùng phát triển.

4.2.3. Phát triển và mở rộng thị trường lao động

4.2.3.1. Phổ biến rộng rãi thông tin về việc làm để người lao động

nông thôn tiếp cận kịp thời nhu cầu về việc làm trong xã hội

Nông dân đang rất thiếu thông tin về các thị trường mới và tiềm năng

về việc làm, lại hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ tài chính. Đây là

trở ngại cho việc tăng cường và mở rộng cơ hội việc làm tại nông thôn. Phần

lớn người học nghề không nắm được thị trường lao động, không biết nhu cầu

của người sử dụng dẫn đến không định hướng được tương lai của mình.

Theo điều tra của tác giả, 25,9% số người trả lời cho rằng họ khó

tiếp cận được thông tin lao động - việc làm. Do vậy, phát triển thị trường

lao động nông thôn là giải pháp quan trọng để từng bước hình thành và

phát triển thị trường lao động, qua đó giúp người dân có nhiều cơ hội tiếp

cận thông tin, tìm kiếm được việc làm.

Với mục tiêu: Hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống thông tin thị trường

lao động; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động; nâng tỷ lệ

lao động tìm được việc làm thông qua hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm

lên khoảng 30%; hiện đại hoá và chuẩn hoá hoạt động giao dịch việc làm, sàn

giao dịch việc làm trở thành hoạt động hàng ngày tại 2 trung tâm giới thiệu

việc làm vào năm 2015 [87], trong những năm tới Hà Nội cần tập trung vào

một số vấn đề sau:

- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động: Để phát triển thị trường lao

động cần thiết phải bảo đảm tốc độ cao trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

cơ cấu lao động. Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nghề nông

nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp thực chất là quá trình tăng

cường mức cầu lao động chuyên môn kỹ thuật trên thị trường lao động từ đó

141

có thể tạo ra một khối lượng lớn việc làm cho người lao động.

- Hoàn thiện các chính sách hành chính để các chính sách này thực sự

tạo môi trường linh hoạt phát triển thị trường lao động như: chính sách nhà ở,

chính sách cư trú, bảo đảm quyền tự do di chuyển lao động, tự do tìm việc

làm của người lao động, chính sách đào tạo và đào tạo lại người lao động, tự

do thoả thuận về tiền lương, thời gian làm việc...

- Phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động: Phát triển thị

trường lao động không thể thiếu được hệ thống thông tin thị trường lao động,

là cơ sở để ra các chính sách điều chính thị trường lao động: điều chỉnh cung -

cầu, tiền lương, đào tạo, tạo việc làm mới... Phát triển hệ thống thông tin thị

trường lao động nông thôn cần thực hiện các công việc như:

+ Hình thành bộ máy, cơ chế thu thập thông tin thị trường lao động: có

sự tham gia của phòng thống kê, phòng lao động của các huyện, các trung tâm

giới thiệu việc làm trên địa bàn huyện...

+ Trang bị các phương tiện để xử lý, thu thập thông tin, hình thành

ngân hàng thông tin thị trường lao động.

+ Hình thành cơ chế cung ứng thông tin thị trường lao động tới các cơ

quan, tổ chức, chính quyền, doanh nghiệp...

+ Cơ sở dữ liệu thông tin thị trường lao động phải bảo đảm tính đầy đủ,

xác thực, kịp thời, phân tích và dự báo thị trường lao động. Một số chỉ tiêu cần

thu thập như: dân số, dân số trong độ tuổi lao động, cơ cấu lực lượng lao động,

lao động đang làm việc, cơ cấu lao động đang làm việc, chỗ làm việc trống, chỗ

làm việc mới, số lượng lao động cần tuyển dụng, số lượng lao động thiếu việc

làm, tiền lương...

+ Thường xuyên tổ chức các phiên chợ việc làm, đặc biệt là mở rộng

về khu vực nông thôn để tạo điều kiện cho người lao động, người sử dụng lao

động, các trung tâm giới thiệu việc làm, các cơ sở đào tạo nghề trực tiếp gặp

gỡ, tiếp xúc trao đổi thông tin nhu cầu lao động - việc làm, thông qua đó đáp

142

ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh

nghiệp được giao đất. Đồng thời giúp người lao động tìm được việc làm, hoặc

có thể có định hướng học nghề trong thời gian tới.

4.2.3.2. Phát triển mạnh các trung tâm dịch vụ việc làm theo hướng

nâng cao chất lượng hoạt động để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao

động có thể tìm được việc làm

Phần lớn người học nghề không nắm được thị trường lao động,

không biết nhu cầu của người sử dụng dẫn đến không định hướng được

tương lai của mình... Vì vậy, trung tâm dịch vụ việc làm còn thực hiện chức

năng tư vấn nghề nghiệp, giúp người lao động nhận thức được về những

nhân tố quyết định quá trình lựa chọn nghề nghiệp, cung cấp thông tin và

các trợ giúp để người lao động lựa chọn được nghề nghiệp thích hợp, đem

lại hiệu quả công việc và thu nhập cao cho từng người lao động.

Với phương châm GQVL là trách nhiệm của tất cả mọi người, của các

cấp, các ngành. Chính vì vậy, TP đã cung cấp những cơ sở pháp lý để tồn tại

song song hai hệ thống cung cấp dịch vụ việc làm: trung tâm dịch vụ việc làm

của nhà nước, các đoàn thể, hội và của tư nhân. Nhờ vậy, các trung tâm này

đã thu hút một lượng không nhỏ lao động vào đây học nghề, trang bị về trình

độ chuyên môn kỹ thuật; bảo đảm hoạt động tư vấn hướng nghiệp và cung

cấp thông tin cho người lao động và người sử dụng lao động về những yêu

cầu của nhau như yêu cầu về chất lượng, độ tuổi, số lượng và mức lương đối

với bên cầu về việc làm còn yêu cầu của bên cung về lao động là điều kiện

làm việc, mức lương, công việc, làm công việc gì... nếu khi họ thống nhất

được thì có nghĩa là việc làm đã xuất hiện.

Để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm dịch vụ

việc làm, trong thời gian tới TP cần triển khai đồng bộ các giải pháp, trong đó

cần tập trung những trọng tâm sau:

- Tăng cường số lượng, chất lượng và trình độ chuyên nghiệp hoá của

143

các trung tâm dịch vụ việc làm. Hình thành hệ thống trung tâm dịch vụ việc

làm đủ mạnh để thực hiện môi giới công ăn việc làm, tạo cơ hội để người tìm

kiếm việc làm và người sử dụng lao động gặp nhau, nhằm thiết lập những mối

quan hệ việc làm, lưu ý đến tình hình những chỗ làm việc trống, sự thích hợp

của người làm việc, mong muốn thay đổi công việc của người lao động, giúp

doanh nghiệp trên địa bàn tìm được lao động thích hợp.

- Phát triển mạng lưới các trung tâm dịch vụ việc làm ở các huyện

ngoại thành, nơi thị trường sức lao động phát triển nhanh, và ngày càng mạnh.

Đồng thời nối mạng thông tin giữa các trung tâm. Chính điều này làm giảm

chi phí trực tiếp (chi phí đi lại) và chi phí cơ hội (thời gian lao động) của

người nghèo, phá bỏ một trong những rào cản cơ hội tiếp xúc dịch vụ việc

làm của người nghèo.

- Sở LĐTBXH chủ trì và quản lý tốt trang thông tin chính thức về dịch

vụ việc làm của TP, tạo thuận lợi cho mọi người có khả năng tiếp cận với

thông tin một cách nhanh nhất, tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại. Ngoài ra

cần coi trọng các Hội chợ lao động việc làm thường xuyên và định kỳ, với

quy mô lớn, mở rộng đến các địa phương lân cận.

4.2.3.3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm

Theo số liệu của Cục quản lý lao động ngoài nước - Bộ LĐTB- XH thì

trong những năm vừa qua chúng ta đã có được trên 400.000 lao động đang

làm việc ở nhiều thị trường khác nhau như: Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc,

Nhật Bản…và một số thị trường khác [95]. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì

chúng ta vẫn chưa thực sự đáp ứng được cả về số lượng cũng như chất lượng

của lực lượng lao động được ra làm việc ở nước ngoài.

Với mục tiêu giai đoạn 2013 - 2015 Hà Nội đưa 1.200 lao động được

ưu tiên đào tạo (trong đó có đối tượng là lao động bị thu đất nông nghiệp) có

đủ điều kiện và có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng [87],

vì vậy TP cần tập trung vào thực hiện một số giải pháp sau:

144

- TP phải tiếp tục ban hành những chính sách hỗ trợ, khuyến khích

doanh nghiệp xuất khẩu lao động tập trung vào đào tạo tay nghề, ngoại ngữ,

cũng như chưa có tác phong lao động công nghiệp cho người lao động nông

thôn nhờ đó bảo đảm giải quyết được nhiều việc làm cho lao động qua con

đường này.

- TP cần khuyến khích đủ mạnh để các doanh nghiệp, xã phường giới

thiệu và tuyển chọn lao động Hà Nội đi xuất khẩu lao động. Nguồn kinh phí

này do Quỹ hỗ trợ việc làm địa phương thanh toán trên cơ sở hợp đồng đào

tạo và danh sách lao động đã được xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu

lao động.

- Tăng cường tuyên truyền nhằm đổi mới nhận thức về tầm quan trọng

trong công tác xuất khẩu lao động trong các ngành, các cấp và người lao

động, tạo sự chuyển biến cơ bản trong hoạt động này. Chủ động thông tin thị

trường lao động ngoài nước, chế độ, chính sách, chuẩn bị nguồn lực lao động

đủ điều kiện về tay nghề, ngoại ngữ, sức khoẻ, chính trị, kỷ luật... để tham gia

chương trình xuất khẩu lao động của TP.

- Tiếp tục đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu lao động: cung ứng lao

động, chuyên gia, hợp tác liên doanh, nhận thầu công trình... nghiên cứu thí

điểm hình thức xuất khẩu lao động giữa Hà Nội và một số vùng và Thủ đô các

nước. Giữ vững những thị trường đã có và nhiều tiềm năng: Đài Loan, Hàn

Quốc, Nhật Bản,... và khuyến khích các doanh nhiệp chủ động tiếp cận các thị

trường mới: Phần Lan, Trung Đông, Malaixia...

- Đổi mới việc chuẩn bị nguồn lực cho xuất khẩu lao động theo hướng

chủ động nắm nhu cầu đi xuất khẩu lao động qua đăng ký, cải cách các thủ

tục hành chính để giảm tối đa chi phí cho người lao động.

- Trong thời gian tới TP nên có kế hoạch tiến hành chấn chỉnh, sắp

xếp, qui hoạch các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động. Đặc

biệt là cung cấp mặt bằng để các doanh nghiệp tiến hành công tác đào tạo,

145

định hướng cho đội ngũ lao động từ 3 đến 4 tháng trước khi xuất cảnh

theo qui định.

- Hỗ trợ người lao động học nghề, học ngoại ngữ, hiểu biết phong tục

tập quán, pháp luật của người Việt Nam và nước tiếp nhận lao động để đị làm

việc ở nước ngoài.

- Hỗ trợ đào tạo lao động trình độ cao về kỹ năng nghề đáp ứng yêu

cầu của nước tiếp nhận lao động.

Thông qua đó khẳng định được chủ trương của TP: tạo ngày càng

nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn và nông

dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp; góp phần tạo ra sự phát triển mạnh mẽ,

toàn diện, ổn định và bền vững trên cả những lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị

và xã hội của Thủ đô trong những năm tới.

4.2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong

công tác giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất

4.2.4.1. Nâng cao năng lực, vai trò lãnh đạo, quản lý Nhà nước đối

với việc thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm

Thông qua chương trình mục tiêu quốc gia GQVL mà trong đó là

nguồn vốn vay từ quỹ Quốc gia GQVL, đồng vốn ưu đãi của Ngân hàng

Chính sách xã hội chuyển tải đến đúng đối tượng cùng với việc giúp họ sử

dụng vốn hiệu quả đã đem lại lợi ích thiết thực cho bà con nên người dân rất

phấn khởi. Thực tế nông dân ven đô trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp

chuyển sang mục đích khác có sự xáo trộn nhất định, nhất là các hộ nghèo và

cận nghèo. Giúp nông dân chuyển đổi nghề nghiệp, có cuộc sống ổn định là

một thách thức lớn vì nhu cầu vay vốn, GQVL ở các địa phương này thường

cao và bức xúc hơn các huyện thuần nông. Tuy nhiên, Ngân hàng Chính sách

xã hội chỉ là đơn vị thực thi việc giải ngân tới các địa phương nên tính chủ

động chưa cao. Vì vậy, để nguồn vốn ưu đãi đến với nông hộ nhanh hơn,

thuận lợi hơn, TP nên có cơ chế xem xét lại việc phân bổ vốn chính sách cho

146

các quận, huyện trên cơ sở thực tế hoạt động, kiểm tra, giám sát đồng vốn của

Ngân hàng Chính sách xã hội. Đơn vị nào giải ngân tốt, đồng vốn phát huy

hiệu quả, hạn chế nợ xấu, phát sinh… và địa phương có nhiều dự án thu hồi

đất trọng điểm sẽ được cấp vốn ưu đãi cho nông dân một cách hữu hiệu. Như

vậy, đây là một giải pháp cần thiết để tạo việc làm cho lao động ngoại thành

trong quá trình đô thị hoá do người lao động ở đây thiếu về vốn, trang thiết bị

kỹ thuật nên có nguồn vốn này hỗ trợ, người lao động có thể phát triển sản

xuất, tự tạo việc làm cho mình bằng nhiều hình thức khác nhau: chăn nuôi gia

súc, gia cầm, mở hàng kinh doanh nhỏ về thương mại hoặc dịch vụ... Hoặc

thông qua nguồn vốn vay này mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ sản xuất tư

nhân gia đình có thể đầu tư sản xuất hay phát triển một ngành nghề mới, sản

phẩm mới qua đó bảo đảm tạo thêm việc làm.

Bên cạnh việc hỗ trợ tiền, TP cần tăng nguồn lực đầu tư xây dựng hạ

tầng cơ sở nông thôn vùng chuyển đổi đất để hỗ trợ tái định cư, dạy nghề và

hỗ trợ người lao động di chuyển tham gia vào thị trường lao động. Tăng

cường vốn cho vay từ quỹ quốc gia về việc làm. Ưu tiên cho lao động vùng bị

thu hồi đất tham gia các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trọng

điểm của TP và chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm thời kỳ 2011 -

2015, tập trung hỗ trợ người lao động trong đào tạo nghề, vay vốn với lãi suất

ưu đãi, ưu tiên và hỗ trợ lao động ở khu vực này được đào tạo nghề để xuất

khẩu lao động.

4.2.4.2. Thường xuyên tổ chức đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội

của các chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho

nông dân khi thu hồi đất để không ngừng hoàn thiện các chính sách đóBên cạnh quá trình triển khai, thực hiện thì việc thường xuyên tổ chức

đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của các chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề

nghiệp, GQVL cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp là rất cần thiết

và quan trọng để từ đó đúc rút kinh nghiệm cho những năm tới đạt kết quả

147

cao hơn. Trên thực tế, những quy định hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, GQVL

đã được tích cực triển khai tới từng hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp, song

hiệu quả của nó chưa cao, chưa có tính bền vững. Nguyên nhân cơ bản đó là

chính quyền chưa chuẩn bị tốt những điều kiện cần thiết cho người dân có đất

sản xuất bị thu hồi chuyển đổi nghề nghiệp đặc biệt là chính sách đào tạo

nghề và lựa chọn nghề nghiệp chưa phù hợp với đặc điểm của lao động nông

nghiệp và điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương. Đây là vấn đề cần

phải được tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm làm bài học cho những năm

tiếp theo, cụ thể:

- Tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và cụ thể hoá những quy

chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án thu hồi đất, sử dụng Quỹ GQVL

của Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn

thể xã hội. Tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi để người dân tham gia đóng góp ý

kiến xây dựng cũng như tố cáo những cán bộ nhũng nhiễu nhân dân.

- Mở các khoá đào tạo, bồi dưỡng, các lớp tập huấn về chuyên môn

nghiệp vụ và tăng cường giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ

cán bộ địa phương. Đồng thời, cần có những quy định cụ thể về hành chính để

xử lý những trường hợp nhũng nhiễu nhân dân. Những trường hợp vượt quá

phạm vi điều chỉnh của những quy định hành chính có vi phạm pháp luật thì

cần kiên quyết xử lý.

- Đề nghị chính quyền và các tổ chức xã hội cấp cơ sở vùng bị thu hồi

đất trong chương trình hoạt động của mình tăng cường công tác tuyên truyền

vận động nhân dân nhằm nâng cao nhận thức của người dân về dân số, kế

hoạch hoá gia đình, tác phong lao động, định hướng nghề nghiệp cũng như

chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của TP.

4.2.4.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động quy hoạch và kế hoạch sử dụng đấtMột trong những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc

làm cho nông dân khi thu hồi đất nông nghiệp là Nhà nước và Thành phố cần

148

có các giải pháp hướng dẫn người nông dân sử dụng có hiệu quả diện tích đất

nông nghiệp không bị thu hồi; sử dụng có hiệu quả các dự án đã thu hồi đất

của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị.

- Đối với diện tích đất nông nghiệp của nông dân chưa bị thu hồi,

Thành phố cần tập trung vào các giải pháp:

+ Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất Thành phố Hà Nội đến năm 2020

được phê duyệt, thực hiện quy hoạch phân vùng định hướng sản xuất những

vùng sản xuất ổn định với các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp. Tạo sự tập

trung chuyên canh những nông sản mũi nhọn, đồng thời tạo điều kiện đa canh

trong nhóm nông sản, nhằm khai thác tận dụng mọi lợi thế, tạo sự hỗ trợ lẫn

nhau, bảo đảm cho sự ổn định bền vững phát triển ngành nông nghiệp nói

riêng và kinh tế - xã hội toàn thành phố nói chung.

+ Đào tạo người dân có kiến thức sản xuất nông nghiệp theo hướng

thâm canh, hiện đại, mang lại thu nhập từ thuần nông có chất lượng và giá trị.

+ Phát triển nông nghiệp sạch với công nghệ cao, mở rộng ứng dụng

công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học vào sản xuất nông phẩm sạch. Tập

trung sản xuất giống cây trồng vật nuôi chất lượng cao, giảm diện tích trồng

lúa, cây lương thực tăng diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây đặc sản, dược liệu.

Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản chất lượng cao an toàn.

+ Tăng mức đầu tư cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, triển khai

xây dựng các chương trình giống cây tròng, vât nuôi, bảo đảm đủ giống tốt

cung cấp cho sản xuất nông nghiệp.

+ Thu hút các nhà khoa học trong hợp tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật

vào sản xuất; Tăng dần hàm lượng khoa học trong giá trị nông sản, từng bước

thực hiện cơ khí hóa và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp…

+ Khuyến khích nông dân mạnh dạn đầu tư áp dụng khoa học công

nghệ cao trong sản xuất, nhằm tăng hàm lượng khoa học trong kết cấu sản

phẩm, giảm đầu tư đầu vào vật tư nông nghiệp, góp phần giảm giá thành sản

149

xuất. Có chính sách tín dụng cho nông dân vay vốn để đầu tư vào sản xuất

theo hướng công nghệ cao, đặc biệt cho vay đầu tư ứng dụng cơ giới hóa

trong sản xuất nông nghiệp và làm nhà kính, nhà lưới, ứng dụng hệ thống tưới

nhỏ giọt và công nghệ sau thu hoạch...

- Đối với công các quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất:

+ Nhà nước và chính quyền địa phương cần xây dựng những quy hoạch

sử dụng đất, chuyển đổi đất, quy hoạch phát triển các khu công nghiệp khu đô

thị một cách dài hạn để địa phương và người nông dân sớm có kế hoạch

chuyển dịch cơ cấu lao động sớm hơn, dài hạn hơn và bền vững hơn.

+ Thành phố hỗ trợ kinh phí cho các xã xây dựng, bổ sung các quy

hoạch: Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất

nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp, TTCN, dịch vụ; Quy hoạch phát triển cơ

sở hạ tầng kinh tế- xã hội - môi trường; Quy hoạch phát triển các khu dân cư

mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh bảo tồn được

bản sắc văn hoá tốt đẹp.

+ Các quy hoạch cần được niêm yết công khai để toàn dân được biết. Ở

các xã cần thành lập ban giám sát thực hiện quy hoạch. Thành phần ban giám

sát thực hiện quy hoạch gồm lãnh đạo Đảng uỷ, UBND, lãnh đạo các tổ chức

chính trị xã hội, các trưởng thôn và một số đại diện nhân dân.

+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về công tác quy hoạch và vận động

nhân dân thực hiện đúng các quy hoạch đã được phê duyệt.

+ Hoàn thành cơ bản việc lấp đầy các khu công nghiệp tập trung đã

hình thành; tiếp tục xây dựng một số khu công nghiệp quy mô lớn ở các

huyện ngoại thành bằng nguồn vốn đầu tư trong nước.

- Gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với kế hoạch đào tạo nghề và

sử dụng lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp;

chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện

quy hoạch, kế hoạch đồng bộ với quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài

150

hàng rào khu công nghiệp, hạ tầng xã hội (y tế, văn hoá, giáo dục...), quy

hoạch xây dựng đô thị và khu dân cư nông thôn. Các địa phương cần căn cứ

vào diện tích đất thu hồi hỗ trợ một khoản tiền đào tạo nghề cho người có đất

bị thu hồi; nghiên cứu giải pháp giúp người nông dân sử dụng những khoản

tiền này một cách có hiệu quả, giúp người lao động có được nghề nghiệp

chuyên môn cần thiết để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, có cơ hội để

được tuyển dụng làm việc lâu dài. Ngoài ra, TP cần phân cấp, tăng cường

trách nhiệm cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về lao động;

quỹ hỗ trợ GQVL; thực hiện công khai, dân chủ, minh bạch về chính sách,

chế độ đối với người lao động và người sử dụng lao động.

4.2.5. Thực hiện liên kết kinh tế để phát triển sản xuất, thu hút

lao động

Liên kết kinh tế là tất yếu khách quan trong sản xuất hàng hoá. Trong

nông nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây xuất hiện một số mô hình

liên kết kinh tế có hiệu quả giữa công ty, doanh nghiệp với nông dân trong

qua trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay, chúng ta thường

nói đến liến kết 4 nhà "Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh

nghiệp". Có ý kiến thêm Ngân hàng, tư thương... Sự liên kết này cho phép

thống nhất phối hợp giữa lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn

với các ngành sản xuất khác có năng suất lao động, công nghệ cao hơn thuộc

các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ để khai thác các nguồn lực về nguyên

liệu, lao động nhờ đó mà những việc làm mới được tạo ra.

Liên kết kinh tế - thực chất là "phương thức hợp đồng" cho phép thoả

mãn được ba yêu cầu về cung cấp vốn, công nghệ, và tạo thị trường cho hộ

nông dân sản xuất nhỏ, nhờ đó tạo ra và duy trì được khả năng tái sản xuất mở

rộng của hộ nông dân và đóng góp tái sản xuất mở rộng cho cả doanh nghiệp.

Lúc này những hộ nông dân là những vệ tinh có mối quan hệ gắn bó với các

doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm, có nhiệm vụ trở thành nơi cung cấp

151

nguyên liệu, lao động phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm.

Trong sự liên kết này, doanh nghiệp đầu tư vốn, hướng dẫn kỹ thuật

cho hộ nông dân trong việc canh tác hoặc nuôi trồng một số cây, con nào đấy.

Sau đó, tổ chức thu mua sản phẩm ở một mức giá hợp lý để bảo đảm lợi ích

cho cả hai bên. Còn hộ nông dân chính là nơi cung cấp sản phẩm cũng như

bảo đảm cả về số lượng lao động làm việc cho mô hình liên kết này.

Như vậy, khi lợi ích của các bên được thoả mãn sẽ góp phần tạo việc

làm cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và cả lực lượng lao động làm việc

trong các xí nghiệp chế biến sản phẩm.

Để liên kết kinh tế có hiệu quả, sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm

hàng hoá có sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập, phải thực hiện theo một

lộ trình hợp lý. Lộ trình đó phải bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ theo một

tuần tự nhất định, xuất phát từ yêu cầu của thị trường mà bố trí sản xuất, chế

biến tiêu thụ nông sản. Từ đó đòi hỏi phải có kế hoạch tương đối lâu dài về

sản xuất các loại nông sản hàng hoá theo yêu cầu của thị trường. Muốn vậy,

đòi hỏi các hộ gia đình phải bảo đảm làm sao có những sản phẩm nông nghiệp

phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, có chất lượng để cung cấp cho các

đơn vị chế biến, đồng thời tạo thêm việc làm mới trong cả lĩnh vực nông

nghiệp và cả những chỗ làm mới được tạo ra từ các doanh nghiệp chế biến

các sản phẩm từ nông nghiệp, nông thôn.

Bên cạnh đó, cần đưa ra những quy hoạch phát triển vùng sản xuất và

quy hoạch cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống. Sau đó, dựa vào

quy hoạch, các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu

thụ sản phẩm. Và chỉ khi chủ động được thị trường, các doanh nghiệp mới ký

hợp đồng tiêu thụ nông sản với nông dân. Tuy nhiên để phát triển được sự

liên kết này thì ngoài sự chủ động trong việc tìm tòi về thị trường, về xây

dựng vùng nguyên liệu của những doanh nghiệp cũng như sự bảo đảm là một

cơ sở cung cấp sản phẩm của hộ nông dân thì cần thiết phải có những chính

152

sách vĩ mô của Nhà nước để phát huy hơn nữa mô hình liên kết này: chính

sách về khoa học, công nghệ, đầu tư, cho vay vốn...

Vì vậy, TP cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với những doanh

nghiệp làm ăn và có ký kết hợp đồng với hộ nông dân về tiêu thụ sản phẩm.

Khi đó, sẽ kêu gọi được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này qua đó

vừa thúc đẩy sự phát triển của kinh tế ngoại thành vừa tạo được nhiều việc

làm cho người lao động; người lao động ở khu vực nông thôn vẫn có thể sản

xuất nông nghiệp nhưng với những yêu cầu cao hơn về quy mô sản xuất, về

trình độ tay nghề… hay cũng có thể chuyển đổi sang làm việc trong lĩnh vực

công nghiệp và dịch vụ, nhưng với tư cách là vệ tinh, là những chân rết cho

các doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất đó chính là nó vẫn góp

phần to lớn vào tạo ra việc làm tại chỗ, làm cho người lao động có việc làm

đầy đủ. Hơn nữa nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quy mô sản xuất

nhỏ bé ở khu vực nông thôn.

153

KẾT LUẬN

Với mục tiêu xây dựng TP Hà nội thực sự trở thành trung tâm kinh tế -

văn hoá - chính trị của cả nước, là một đô thị hiện đại - xã hội lành mạnh, gắn

tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, tạo công ăn việc làm, ổn định đời

sống dân cư, từng bước nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho nhân

dân là một trong những mục tiêu quan trọng trong định hướng phát triển kinh

tế - xã hội của TP. Dựa trên những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm cho

nông dân khi thu hồi đất ở Hà nội, luận án đưa ra kết luận cơ bản như sau:

1. Việc làm là tất cả những hoạt động mang lại thu nhập hợp pháp dưới

nhiều hình thức khác nhau cho người lao động. Việc làm bền vững là các hoạt

động có thu nhập hợp pháp, tương xứng với lao động đã bỏ ra và ổn định

được đời sống của người lao động, có nơi làm việc an toàn, được bảo đảm về

mặt xã hội, có triển vọng phát triển cá nhân và gia đình, có cơ hội bình đẳng

và được đối xử bình đẳng.

Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất là những hoạt động mà người

nông dân sau khi thu hồi đất có thể tiếp cận và sử dụng chúng để tạo ra nguồn

thu nhập hợp pháp cho bản thân và gia đình.

2. GQVL cho nông dân khi thu hồi đất là quá trình tạo lập môi trường

pháp lý, điều kiện kinh tế xã hội cần thiết, xây dựng và thực thi các chính sách

hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, phát triển sản xuất

kinh doanh hàng hóa và dịch vụ nhằm bảo đảm thu nhập hợp pháp, ổn định

cuộc sống lâu dài cho nông dân khi thu hồi đất.

3. Những kết quả và hạn chế chủ yếu trong giải quyết việc làm cho

nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội.

Kết quả: Xây dựng được chương trình giải quyết việc làm cho lao

động của TP trong đó có chú trọng lao động nông nghiệp bị thu hồi đất,

154

bằng nhiều biện pháp khác nhau của TP đã có nhiều nông dân tìm kiếm

được việc làm khi bị thu hồi đất nông nghiệp góp phần ổn định kinh tế -

chính trị - xã hội, bảo đảm thu nhập hợp pháp, ổn định đời sống cho nông

dân; Hà Nội đã thu hút được một số lượng đáng kể lao động địa phương

vào làm việc ở các khu, cụm công nghiệp; TP đã có nhiều chính sách,

chương trình, dự án khác nhau nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi và cơ hội

để người nông dân bị thu hồi đất có thể tìm việc làm mới; hoạt động đào

tạo nghề trên địa bàn TP đã có những kết quả nhất định góp phần giúp

nguời lao động tìm được việc làm.

Hạn chế: (1). Số người bị thu hồi đất được thu hút vào làm việc trong

các doanh nghiệp, các khu công nghiệp còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số

lao động mất việc làm; (2). Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn chiếm

tỷ lệ cao; (3). Số lượng nông dân chuyển sang ngành nghề mới còn thấp, chất

lượng, tính ổn định và tính bền vững của VL cho nông dân sau thu hồi đất

chưa cao; (4). Kết quả xuất khẩu lao động đạt thấp; (5). Hoạt động của các

trung tâm dịch vụ việc làm chưa thực sự hiệu quả; (6). Chính sách và việc

thực hiện chính sách của Nhà nước và TP trong việc GQVL cho nông dân khi

thu hồi đất còn thiếu đồng bộ và không triệt để; (7). Việc tổ chức đào tạo nghề

cho nông dân khi thu hồi đất không được nghiên cứu một cách chu đáo, dẫn

đến nghề nghiệp được đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường lao

động, cho nên, mặc dầu người lao động đã được đào tạo nhưng vẫn không tìm

được việc làm; (8). Các doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp thu hồi chưa

thực hiện tốt cam kết ưu tiên tiếp nhận lao động địa phương bị thu hồi đất;

(9). Sự chuẩn bị của các địa phương và người dân trong GQVL sau thu hồi

đất chưa thực sự thống nhất, gây khó khăn cho người dân, nhất là người dân

nông thôn trong việc ổn định cuộc sống.

4. Quan điểm giải quyết việc làm cho nông dân thu hồi đất: (1). Bảo

155

đảm việc làm ổn định, hợp lý, bền vững, có thu nhập để nâng cao và cải thiện

đời sống cho người nông dân sau thu hồi đất là một nhiệm vụ quan trọng

trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô; (2). TP tạo môi trường

và thực hiện điều tiết vĩ mô để bảo đảm việc làm, thu nhập và đời sống cho

nông dân sau thu hồi đất; (3). Phải coi việc bảo đảm việc làm, thu nhập và đời

sống nông dân sau thu hồi đất là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị - xã

hội, của các doanh nghiệp và của mọi người dân có liên quan; phát huy tính

chủ động của người dân trong học nghề, tự tạo việc làm và tham gia thị

trường lao động; (4). Thực hiện đa dạng hoá việc làm và chú ý việc làm tại

chỗ, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn; (5). Giải quyết việc làm có trọng

tâm, trọng điểm cho những người có nhu cầu việc làm; các biện pháp giải

quyết việc làm cần phải đồng bộ, toàn diện.

5. Để giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất nông nghiệp,

cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: (1). Khuyến khích phát triển đa dạng

các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh để giải quyết việc làm: Tạo điều

kiện phát triển và mở rộng các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao

động; Khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh ở các khu, cụm công

nghiệp nhằm thu hút được nhiều lao động địa phương; Đẩy mạnh phát

triển làng nghề và ngành nghề truyền thống để giải quyết việc làm;

Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, du lịch, dịch vụ và kinh tế hộ

gia đình; (2). Nâng cao trình độ, tính chủ động của nông dân để họ tìm

kiếm được việc làm: Phát triển và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo

nghề cho người lao động; Nâng cao tính chủ động của nông dân về tự

tạo, tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập cho bản thân và gia đình sau

khi thu hồi đất nông nghiệp; (3). Phát triển và mở rộng thị trường lao

động: Phổ biến rộng rãi thông tin về việc làm để người lao động nông

thôn tiếp cận kịp thời nhu cầu về việc làm trong xã hội; Phát triển mạnh

156

các trung tâm dịch vụ việc làm theo hướng nâng cao chất lượng hoạt

động để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có thể tìm được việc

làm; Đẩy mạnh xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm; (4). Giải pháp

nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong công tác giải quyết việc

làm cho nông dân khi thu hồi đất: Nâng cao năng lực, vai trò lãnh đạo,

quản lý Nhà nước đối với việc thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm;

Thường xuyên tổ chức đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của các chính

sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho nông dân khi

thu hồi đất để không ngừng hoàn thiện các chính sách đó; Nâng cao hiệu

quả hoạt động quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất (5). Thực hiện liên kết

kinh tế để phát triển sản xuất, thu hút lao động./.

157

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Phạm Thị Thủy (2010), "Giải quyết việc làm, thu nhập cho người dân bị

thu hồi đất: kinh nghiệm của một số nền kinh tế Châu Á”, Tạp chí

Những vấn đề Kinh tế - Chính trị thế giới, Số 7, tr. 46 - 50.

2. Phạm Thị Thủy (2010) "Giải bài toán việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

ở ngoại thành Hà Nội", Tạp chí Lao động và Xã hội, Số 391, tr. 9, 10, 13.

3. Phạm Thị Thủy (2012), "Một số quan điểm trong giải quyết việc làm cho

nong dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở Thành phố Hà Nội", Tạp chí Giáo

dục Lý luận, Số 190, tr. 69- 72.

4. Phạm Thị Thủy (2012), "Bảo đảm lợi ích kinh tế lâu dài cho nông dân bị

thu hồi đất phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước",

Tạp chí Công nghiệp, Kỳ 1, tháng 12, tr. 20-21.

5. Phạm Thị Thủy (2013), "Giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi

đất ở một số địa phương và những bài học kinh nghiệm", Tạp chí Kinh

tế và quản lý, Số 5, tr. 42-45.

158

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố Hà Nội, (2005), Báo cáo tình

hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư năm 2005 và

Kế hoạch nhiệm vụ công tác năm 2006.

2. Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố Hà Nội, (2008), Báo cáo tình

hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư năm 2008 và

Kế hoạch nhiệm vụ công tác năm 2009, Hà Nội.

3. Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố Hà Nội, (2009), Báo cáo tình

hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư năm 2009 và

Kế hoạch nhiệm vụ công tác năm 2010, Hà Nội.

4. Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố Hà Nội, (2010), Báo cáo tình

hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư năm 2010 và

Kế hoạch nhiệm vụ công tác năm 2011, Hà Nội.

5. Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố Hà Nội, (2011), Báo cáo tình

hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư năm 2011 và

Kế hoạch nhiệm vụ công tác năm 2012, Hà Nội.

6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2005), Niên giám thống kê lao

động thương binh và xã hội, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2005), Đánh giá việc thực hiện

chiến lược việc làm giai đoạn 2001- 2005 và xây dựng chiến lược

việc làm trong thời kỳ Đại hội X (2006 - 2010), Hà Nội.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài Chính, 2008, Hướng dẫn

quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước, Hà Nội.

9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2011), Báo cáo điều tra lao động

và việc làm năm 2011, Hà Nội.

159

10.Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2011), Tổng hợp báo cáo về tình

hình lao động - việc làm ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng

đất nông nghiệp, Hà Nội.

11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2011), Báo cáo: Sưu tầm, tập hợp,

hệ thống hóa các tài liệu, các chính sách hiện hành về lao động - việc

làm ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, Hà Nội.

12.Các Mác và Ph.Ănghen, (1993), Các Mác và Ph.Ănghen toàn tập, tập 23,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Trần Đình Chín, (2012), Việc làm cho người lao động ở các tỉnh duyên

hải trung bộ hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị -

hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

14. Nguyễn Sinh Cúc, (2003), "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn

đề đặt ra" Tạp chí Con số và sự kiện (8).

15. Cục Thống kê Hà Nội, (2006), Niên giám thống kê Hà Nội 2001 - 2005,

Công ty TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

16. Cục Thống kê Hà Nội, (2007), Niên giám thống kê Hà Nội 2006, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

17. Cục Thống kê Hà Nội, (2008), Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

18. Cục Thống kê Hà Nội, (2009), Niên giám thống kê Hà Nội 2008, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

19. Cục Thống kê Hà Nội, (2010), Niên giám thống kê Hà Nội 2009, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

20. Cục Thống kê Hà Nội, (2011), Niên giám thống kê Hà Nội 2010, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

21. Cục Thống kê Hà Nội, (2012), Niên giám thống kê Hà Nội 2011, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

160

22. Trần Ngọc Diễn, (2002), Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tạo việc

làm cho lao động ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Đại học

kinh tế quốc dân, Hà Nội.

23. Nguyễn Hữu Dũng, "Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá

trình đô thị hoá công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí

Lao động - Xã hội (246, 247) 32, 33, 34, 35.

24. Nguyễn Ngọc Dũng, (2005), "Một số vấn đề xã hội trong xây dựng và

phát triển các khu công nghiệp ở Việt nam", Kinh tế và dự báo,

(3), 25, 26,

25.Đảng Cộng Sản Việt Nam, (1996), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc

Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng Sản Việt Nam, (2001), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc

Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Lê Xuân Đăng, (2003), "Giải quyết VL cho nông dân sau thu hồi đất để giải

phóng mặt bằng ở Vĩnh Phúc", Lao động và xã hội, (224+225), 30, 31.

28. Đoàn Thị Hải, (2005), Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, Hà Nội.

29. Hà Thị Hằng, (2010), Việc làm cho người lao động sau thu hồi đất trong

quá trình đô thị hóa ở thành phố Huế, Huế.

30. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội, (2012), Kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội Thành phố Hà Nội 5 năm 2011-2015, Hà Nội.

31. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội, (2012), Nghị quyết về nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội năm 2013 của thành phố Hà Nội, Hà Nội.

32.Trần Thị Lan, (2012), "Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở

thành phố Hà Nội", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (1 + 2),

89, 90, 91, 92.

161

33.Trần Thị Lan, (2012), Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông

dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội,

Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

34. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

35. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, (2012), Đánh giá

thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông

nghiệp và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất

đất, Hà Nội.

36. Nguyễn Hoàng Long, (2003), "Giải quyết việc làm trong thời kỳ đẩy nhanh

tốc độ đô thị hoá ở Đà Nẵng", Lao động và xã hội, (218), 16, 17.

37. Hồng Minh, (2005), "Hà Nội giải quyết việc làm cho lao động khu vực

chuyển đổi mục đích sử dụng đất", Lao động và xã hội, (270), 22, 23.

38.Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa, (2009), Vấn đề hậu giải phóng

mặt bằng ở Hà Nội, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

39. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Ngọc Bắc, Hoàng Xuân Nghĩa, Nguyễn Thanh

Bình, (2010), Giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - hệ lụy và phương

hướng giải quyết, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Nhường, (2010), Chính sách an sinh xã hội đối với người

nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các cụm công nghiệp

(nghiên cứu tại Bắc Ninh), Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh tế

quốc dân, Hà Nội.

41. Trần Thị Minh Ngọc, (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm

2010, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Đất đai, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162

43. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Lao động, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Lao động, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Lê Du Phong, (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị

thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích Quốc

gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46.Vũ Thị Ngọc Phùng, (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động

- Xã hội, Hà Nội.

47. Đỗ Đức Quân, (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông

thôn vùng đồng bằng Bắc bộ trong quá trình xây dựng, phát triển

các khu công nghiệp (Qua khảo sát các tinh Vĩnh Phúc, Hải

Dương, Ninh Bình), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Nguyễn Thế Quang, (2006), "Hà Nội với các biện pháp trợ giúp phát triển

doanh nghiệp nhỏ và vừa", Lao động và xã hội, (283), 23, 24, 25.

49. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, Phòng Lao động - Việc

làm, (2006), Báo cáo tổng hợp kết quả giải quyết việc làm của

Thành phố Hà Nội 2001 - 2005, Hà Nội.

50. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương, (2004), Báo cáo

thực hiện đề tài: Nghiên cứu thực trạng và các giải pháp giải quyết

việc làm cho lao động sau khi bàn giao đất cho các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp và các khu đô thị mới trên địa bàn tỉnh

Hải Dương, Hải Dương.

51. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, (2010), Báo cáo khảo sát lập căn cứ xây

dựng các khu - cụm công nghiệp vừa và nhỏ, Hà Nội.

52. EF. Schumacher, (1994), Những nguồn lực, Nxb Lao động, Hà Nội.

53. David. Slandes, (2001), Sự giàu nghèo của các dân tộc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

163

54.J.M.Keynes, (1996), Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

55. Phạm Đức Thành, (2002), "Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp

chí Kinh tế và Phát triển, (64).

56. Vũ Đình Thắng, (2002), "Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn",

Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (3), 21, 22.

57. Thành uỷ Hà Nội, (2001), Chương trình 09 về giải quyết một số vấn đề xã

hội bức xúc giai đoạn 2001 - 2005, Hà Nội.

58. Thành uỷ Hà Nội, (2001), Chương trình 12 về phát triển kinh tế ngoại

thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn 2001 - 2005, Hà Nội.

59. Thành uỷ Hà Nội, (2006), Chương trình 05 về phát triển kinh tế ngoại

thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn 2006 - 2010, Hà Nội.

60.Nguyễn Tiệp, (2004), "Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn:

Các giải pháp tạo thêm việc làm", Lao động và Công đoàn, (309).

61. Nguyễn Tiệp, (2005), "Tạo việc làm ở nước ta - Từ chính sách đến thực

tiễn", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (94).

62. Nguyễn Tiệp, (2005), Đào tạo nguồn nhân lực ở các huyện ngoại thành

Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

63. Nguyễn Tiệp, (2006), "Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết

các vấn đề xã hội tại Hà Nội", Tạp chí Lao động và xã hội, (289),

39, 40, 41.

64. Nguyễn Tiệp, (2008), Xây dựng một số mô hình tạo việc làm đối với

lao động bị mất VL tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng

đất, Hà Nội.

65. Nguyễn Bằng Toàn, (2008), Việc làm của người có đất bị thu hồi để phát

triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An, Hà Nội.

66.Tổ chức lao động quốc tế, Bộ lao động, thương binh và xã hội, (2011),

Báo cáo nghiên cứu về việc làm nông thôn Việt Nam, Hà Nội.

164

67.Tổng Cục Thống kê, 2010, Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

68.Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng, (2010), Giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

69.Thủ tướng Chính phủ, (2006), Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg quy định về giải

pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi

mục đích sử dụng đất nông nghiệp, Hà Nội.

70.Thủ tướng Chính phủ, (2009), Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn

đến năm 2020, Hà Nội.

71.Thủ tướng Chính phủ, (2012), QĐ số 52/2012/ QĐ-TTg về chính sách hỗ

trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp, Hà Nội.

72. Thủ tướng Chính phủ, (2012), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thành

phố Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.

73.Bùi Thanh Thủy, (2005), Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải

Dương hiện nay, Hà Nội.

74.Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, (2005), Thực trạng thu nhập, đời sống,

việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công

nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu

cầu công cộng và lợi ích quốc gia, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp

Nhà nước, Hà Nội.

75.Văn Phòng Hỗ trợ Tư vấn Phản biện và Giám định Xã hội, (2009), Báo

cáo nghiên cứu về việc làm nông thôn tại Việt Nam, Hà nội.

76.Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2006), Chương trình giải quyết việc

làm Thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội.

77. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2008), Đề án hỗ trợ dạy nghề cho

lao động nông thôn giai đoạn 2008-2010, Hà Nội.

165

78. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2008), Quyết định thành lập Quỹ hỗ

trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho lao

động chuyển đổi mục đích sử dụng đất, Hà Nội.

79. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2008), Quy chế quản lý và sử dụng

nguồn vốn cho vay của Quỹ giải quyết việc làm thành phố ủy thác

qua Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Hà Nội,

Hà Nội.

80. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2010), Quy định về chính sách

khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy

nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường trên địa bàn thành

phố Hà Nội, Hà Nội.

81. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2011), Quy hoạch đào tạo nghề cho

lao động nông thôn giai đoạn 2011 - 2015, Hà Nội.

82. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2011), Chương trình giải quyết việc

làm của thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015, Hà Nội.

83.Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2011), Kế hoạch đào tạo nghề cho

lao động nông thôn giai đoạn 2011 - 2015, Hà Nội.

84. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2011), Đề án Đào tạo nghề cho lao

động nông thôn đến năm 2020, Hà Nội.

85.Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, Đề án Xây dựng nông thôn mới Hà

Nội giai đoạn 2010 - 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.

86. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2012), Chương trình số 154/UBND-

CT về việc phát triển làng nghề kết hợp du lịch giai đoạn 2012 -

2015, Hà Nội.

87. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2012), Chương trình mục tiêu quốc

gia việc làm và dạy nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn

2013 - 2015, Hà Nội.

166

88.Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2012), Quyết định phê duyệt phát

triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng

đến năm 2030, Hà Nội.

89. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2012), Quyết định phê duyệt phát

triển công nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030, Hà Nội.

90. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2012), Quyết định phê duyệt kế

hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Thành phố Hà Nội giai

đoạn 2011 - 2015, Hà Nội.

91.http://laodong.com.vn/ Hà Nội năm 2011, Giải quyết việc làm cho gần

139.000 người/ ngày 10/01/2012.

92.http://vietbao.vn/Chinh-tri, Hà Nội tìm cách hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất

93.http://www.tin247.com/vnmedia, Phải có cơ chế tạo việc làm cho nông dân

bị thu hồi đất.

94. http://www.molisa.gov.vn, Đà Nẵng nỗ lực chuyển đổi ngành nghề, giải

quyết việc làm cho lao động diện giao đất.

95. http://hoptaclaodong.vn/ Tổng quan xuất khẩu lao động Việt Nam.

167

PHỤ LỤC

168

PHỤ LỤC 1 - BẢN ĐỒ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

169

PHỤ LỤC 2

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

(ĐỐI TƯỢNG : CÁC HỘ NÔNG DÂN THUỘC DIỆN THU HỒI ĐẤT)

THÔNG TIN GHI TRÊN PHIẾU ĐIỀU TRA ĐƯỢC GIỮ KÍN

HUYỆN/QUẬN/THỊ XÃ/THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH: ________________________________________________________________

XÃ/PHƯỜNG/THỊ TRẤN:________________________________________________________________________________________

HỌ VÀ TÊN CHỦ HỘ:___________________________________________________________________________________________

ĐỊA CHỈ CỦA HỘ ______________________________________________________________________________________________

TỔNG SỐ NGƯỜI TRONG HỘ: người.

SỐ NGƯỜI TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG (Từ 15 đến 55 đối với nữ; 15 đến 60 đối với nam)_____________________

Số người có trình độ: 12/12………..; 9/12……….; không đi học……

NỘI DUNG ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

I. Diện tích từng loại đất bị thu hồi (m2)

Tiêu chí Tổng số

1 Tổng diện tích đất gia đình có trước khi bị thu hồi

2 Tổng diện tích đất bị thu hồi ? m2

II. Mức độ hợp lý của giá đất đền bù (Đánh dấu x vào 1 phương án trả lời)

Rất hợp lý hợp lý Không hợp lý

+ Đất nông nghiệp

+ Đất lâm nghiệp

+ Đất phi nông nghiệp

III. Tình hình nghề nghiệp

Đặc điểm về việc làm của ông (bà) trước khi thu hồi đất là:

a. Làm việc theo mùa vụ/ từng đợt: b. Làm việc suốt trong năm:

170

1. Ngoài nghề nghiệp chính của lao động trong gia đình trước khi thu hồi đất

là làm ruộng, gia đình có làm thêm các công việc khác để tăng thu nhập

không?

Trả lời: Có…………… Không……………….

Nếu có, xin ông/bà trả lời câu hỏi: Gia đình ông/ bà làm nghề nào trong các

phương án dưới đây?

(Đánh dấu x vào phương án trả lời và cho biết cụ thể số người)

Số người

Buôn bán nhỏ

Làm nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp

Làm thuê công nhật

Làm việc khác

2. Sau khi thu hồi đất, gia đình ông/bà có làm công việc gì?

(Đánh dấu x vào phương án trả lời và cho biết cụ thể số người)

Số người

1. Làm ruộng trên diện tích còn lại không bị thu hồi

2. Tiểu thương, buôn bán nhỏ

3. Làm nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp

4. Dịch vụ: Xe ôm, cắt tóc, cho thuê nhà,…

5. Thợ xây

6. Thợ may

7. Công nhân trong khu, cụm công nghiệp

9. Làm thuê công nhật

10. Nghề khác

11. Chưa biết làm nghề gì

171

Nếu trả lời phương án 1, xin ông/bà cho biết: gia đình ông/ bà có mong muốn

được chính quyền địa phương hướng dẫn đầu tư, sản xuất; chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi… nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao hơn trước không?

Trả lời: Có…………… Không……………….

3. Ông/bà mong muốn sẽ đi tìm việc làm mới ở:

(Đánh dấu x vào phương án trả lời và cho biết cụ thể số người)

Dấu x

Ở địa phương nơi cư trú

Vào trung tâm Thành phố

Địa phương khác

Xuất khẩu lao động

Trong khu, cụm công nghiệp

4. Ông (bà) cho biết ý kiến cá nhân về khả năng tự tạo việc làm, khả năng

tìm kiếm việc làm hoặc khả năng chuyển đổi nghề của bản thân?

1. Có khả năng:

2. Có khả năng nhưng rất khó khăn:

3. Không có khả năng:

5. Theo ông (bà), những khó khăn để tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm

hoặc chuyển đổi nghề là:

1. Trình độ học vấn: 2. Trình độ tay nghề:

3. Tuổi tác: 4. Sức khoẻ:

5. Vốn, tiền bạc:

6. Khó tiếp cận được thông tin lao động - việc làm:

7. Khó khăn trong việc đi học nghề:

8. Tâm lý mặc cảm:

9. Khó khăn khác: ................................................................................

172

IV. Sử dụng tiền đền bù

1. Gia đình sử dụng tiền đền bù, hỗ trợ vào mục đích gì ?

STT Trả lời

1 Mua mảnh đất khác

2 Mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất

3 Xây mới, sửa chữa nhà

4 Gửi tiết kiệm

5 Học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp

6 Đầu tư cho con cái ăn học

7 Sắm sửa thiết bị phục vụ sinh hoạt gia đình

8 Mua sắm, tiêu dùng khác: trả nợ, chữa bệnh…

9 Chưa biết sử dụng vào mục đích gì

3. Cuộc sống hiện nay

Khi chuẩn bị thu hồi đất, ông/ bà thấy tâm lý của gia đình mình như thế nào?

(Chọn 1 phương án trả lời)

Dấu x

Bình thường

Hài lòng vì có tiền đền bù

Lo lắng

V. Những ý kiến đề xuất của người dân

1. Trong các phương án hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp dưới đây, nếu được

lựa chọn thì ông/bà sẽ lựa chọn phương án nào ?

Dấu x

Nhận tiền hỗ trợ sau đó tự đi học

Được Nhà nước hoặc chủ đầu tư tổ chức đào tạo và bố trí việc làm

Không cần hỗ trợ

173

2. Trong các phương án GQVL được đưa ra dưới đây, nếu được lựa chọn thì

ông/bà sẽ lựa chọn phương án nào ?

(Đánh dấu x vào phương án trả lời)

Dấu x

Góp vốn cổ phần, tham gia học nghề và được tiếp nhận vào làm việc

dài hạn tại dự án thu hồi quyền sử dụng đất

Nhận tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất, tiền hỗ trợ và tự tìm, tạo

việc làm

Nhận tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất, tiền hỗ trợ và một diện

tích đất để làm dịch vụ

Nhận tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất, tiền hỗ trợ để đầu tư thâm

canh trên phần diện tích còn lại

Phương án khác: xuất khẩu lao động, di cư đi nơi khác…

3. Ngoài những thông tin và ý kiến trên, Gia đình còn những mong muốn hay

nguyện vọng khác

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

Xin chân thành cảm ơn.

174

PHỤ LỤC 3

HIỆN TRẠNG Y TẾ KHU VỰC NÔNG THÔN HÀ NỘI - 2009

TT Chỉ tiêu ĐVT Số lượng

I Trạm xá xã

1 Số trạm xá xã đã đạt chuẩn QG Trạm 330

2 Số trạm xá xã chưa đạt chuẩn QG Trạm 88

Số phòng bệnh Phòng 1596

Số giường bệnh Giường 2293

Số cán bộ y tế Người 2969

* Số cán bộ ngành Y Người 2596

Bác sỹ Người 427

Y sỹ Người 1095

Y tá, hộ lý, kỹ thuật viên Người 1121

* Số cán bộ ngành Dược Người 143

Dược sỹ cao cấp Người 6

Dược sỹ Người 109

Dược tá Người 70

II Cơ sở y tế tư nhân

1 Số cơ sở Cơ sở 1782

2 Số người hành nghề Người 2384

III Một số chỉ tiêu

1 Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức BHYT % 36.17

2 Tỷ lệ trẻ em được tiêm đủ các loại vacxin % 99.34

3 Tỷ lệ trẻ em SDD trong độ tuổi % 15.36

4 Tỷ lệ sinh tự nhiên % 2.65

5 Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên % 11.16

Nguồn: Đề án xây dựng nông thôn mới TP Hà Nội giai đoạn 2010-2020,

định hướng đến năm 2030.

175

PHỤ LỤC 4

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN THU HỒI ĐẤT Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Năm

Số dự án Diện tích (ha)

Tổng số Số dự án

bàn giao

Tổng diện tích

đất thu hồi

Tổng diện tích đất

đã bàn giao

2000 139 64 853,63 349,16

2001 351 159 1474,6 733,401

2002 417 194 2772 836

2003 429 260 2656 1424

2004 417 161 2205 876

2005 429 274 1123 1481

2006 216 179 1008 774,4

2007 327 185 931 800,7

Tổng 2725 1476 13023,23 7274,661

Nguồn: Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng TP Hà Nội.

176

PHỤ LỤC 5

HIỆN TRẠNG QUY HOẠCH KHU CÔNG NGHIỆP CỤM CÔNG NGHIỆP,

CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ CỦA HÀ NỘI - 2009

Loại hình

Số lượng Diện tích (ha)

Quy

hoạch

Đang

thực

hiện

Diện

tích

quy

hoạch

Diện tích triển khai thực hiện

Tổng sốDiện tích

đã giải

phóng

mặt bằng

Đã xây

dựng

hạ tầng

Diện

tích

triển

khai

% diện

tích so

với quy

hoạch

Khu công nghệ cao 3 3 1.852 1.852 100 800 300

Khu công nghiệp 19 12 5.229 2.109 40 1.300 1.200

Cụm công nghiệp 53 44 3.635 2.565 70 1.800 1.680

Cụm CN làng nghề 176 49 1.295 470 36 - 470

Nguồn: Đề án xây dựng nông thôn mới TP Hà Nội giai đoạn 2010-2020,

định hướng đến năm 2030.

177

PHỤ LỤC 6

DÂN SỐ KHU VỰC NÔNG THÔN PHÂN THEO HUYỆN Ở HÀ NỘI

Đơn vị tính: 1000 người2005 2008 2009 2010 2011

Dân

số

Dân

số

Tỷ lệ

(%)

Dân

số

Dân

số

Tỷ lệ

(%)

Dân

số

Tỷ lệ

(%)

Dân

số

Tỷ lệ

(%)

Sóc Sơn 263.9 275.1 98 281.2 275.1 98 281.2 99 292.1 -

Đông Anh 277.2 302.7 92 312.1 302.7 92 312.1 93 327.4 -

Gia lâm 178.0 191.6 85 198.7 191.6 85 198.7 86 206.5 -

Từ Liêm 273.0 334.8 94 367.8 334.8 94 367.8 93 418.1 -

Thanh Trì 152.2 174.0 91 184.0 174.0 91 184.0 93 191.4 -

Mê Linh - 171.7 90.5 173.8 171.7 90.5 173.8 90 179.4 -

Hà Đông 114.6 121.8 55 - 121.8 55 - - - -

Sơn Tây 74.7 77.4 62.1 58.7 77.4 62.1 58.7 48.9 66.2 -

Ba vì 229.4 231.7 94.3 234.3 231.7 94.3 234.3 94.8 239.8 -

Phúc Thọ 149.4 151.7 95.5 153.2 151.7 95.5 153.2 95.5 156.5 -

Đan

Phượng

126.2 130.7 93.7 135.3 130.7 93.7 135.3 95.3 136.3 -

Hoài Đức 177.5 185.1 97.6 188.6 185.1 97.6 188.6 97.4 194.1 -

Quốc Oai 143.4 148.3 92.1 148.8 148.3 92.1 148.8 92.4 153.7 -

Thạch Thất 163.5 168.2 96.4 172.3 168.2 96.4 172.3 96.8 177.8 -

Chương

Mỹ

244.3 252.7 87.7 253.9 252.7 87.7 253.9 87.6 261.3 -

Thanh Oai 155.8 158.4 96 161.8 158.4 96 161.8 96.5 168.1 -

Thường Tín 202.7 210.4 97 213.9 210.4 97 213.9 97 220.2 -

Phú Xuyên 166.3 165.9 91.5 166.8 165.9 91.5 166.8 91.9 168.8 -

Ứng Hoà 171.8 168.2 92.1 169.0 168.2 92.1 169.0 93 172.1 -

Mỹ Đức 162.3 163.3 96 164.3 163.3 96 164.3 96.2 168.9 -

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2011, tr 30, 31

178

PHỤ LỤC 7

CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG HÀ NỘI

NĂM 2011

Tỷ lệ: %

Tổng số Nông thôn

Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ

Tổng số 100 100 100 100 100 100

15-19 tuổi 2,8 3,0 2,5 3,8 4,1 3,4

20-24 tuổi 10,9 10,3 11,5 12,6 12,6 12,7

25-29 tuổi 15,8 14,9 16,9 15,3 14,8 15,8

30-34 tuổi 14,2 13,6 14,8 13,1 12,7 13,5

35-39 tuổi 14,7 14,2 15,4 14,4 13,8 15,0

40-44 tuổi 12,3 11,6 12,9 12,0 11,2 12,9

45-49 tuổi 12,9 12,7 13,2 13,0 12,7 13,4

50-54 tuổi 12,7 12,5 12,8 12,2 11,2 13,3

55-59 tuổi 3,8 7,2 - 3,6 6,9 -

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động và VL năm 2011, tr.100.

179

PHỤ LỤC 8

SỐ LƯỢNG, QUY MÔ CÁC CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

TT Tên các cụm công nghiệp

tập trung

Số xí

nghiệp

(cái)

Diện

tích

(ha)

Lao động

(người)

Ngành Công nghiệp

chính

1Cụm Minh Khai - Vĩnh

Tuy23 81 17.000

Dệt- Cơ khí - Thực

phẩm - Vật liệu xây

dựng

2Cụm Trương Định -

Đuôi Cá13 32 5.000

Thực phẩm - Cơ khí

3Cụm Văn Điển - Pháp

Vân14 39 6.000

Cơ khí - Hóa chất -

Vật liệu xây dựng

4 Cụm Thượng Đình 29 76 18.00 Cơ khí- Hoá chất

5Cụm Cầu Diễn - Nghĩa

Đô8 27 1.950

Vật liệu xây dựng -

Thực phẩm

6Cụm Gia Lâm -Yên

Viên21 38 5.000

Cơ khí - Hóa chất -

Vật liệu xây dựng

7 Cụm Đông Anh 22 68 8.300 Cơ kim khí - VLXD

8 Cụm Chèm 5 14 2.310Vật liệu xây dựng -

Dệt

9 Cụm Cầu Bươu 5 4 1.390 Cơ khí - Hóa chất

Tổng số 140 379 64.950

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Báo cáo khảo sát lập căn cứ xây

dựng các khu - cụm công nghiệp vừa và nhỏ.

180

PHỤ LỤC 9

BIỂU TỔNG HỢP 8 KHU CÔNG NGHIỆP ĐANG HOẠT ĐỘNG

TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI.

(Tính đến hết năm 2009)

Số

TTTên khu công nghiệp

Diện tích

(ha)

Số doanh

nghiệp

Số Lao động

được thu

hút (người)

Tỷ lệ

lấp đầy

1 KCN Bắc Thăng Long 274 84 44.758 100%

2 KCN Nội Bài 115 40 7.694 90%

3 KCN Sài Đồng B 45 24 9.000 100%

4 KCN Hà Nội - Đài Tư 40 33 969 70%

5 KCN Nam Thăng Long 30 28 450 100%

6 KCN Thạch Thất - Quốc Oai 155 61 1.050 90%

7 KCN Phú nghĩa 170 35 3.350 65%

8 KCN Quang Minh I 407 138 16.110 80%

Tổng cộng 1,236 443 83.381 -

Nguồn: Ban quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Hà Nội.

181

PHỤ LỤC 10

LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC

PHÂN THEO QUẬN, HUYỆN

(Đơn vị: Người

2005 2007 2008 2009 2010 2011

Sóc Sơn 7155 8901 9732 9882 9910 9908

Đông Anh 15828 20688 22816 23681 23788 24269

Gia lâm 14889 15988 17338 17528 17572 16870

Từ Liêm 9353 13912 15168 15862 16360 15655

Thanh Trì 8120 11724 13284 13610 13963 13557

Mê Linh 6922 11628 11936 13193 13071 14046

Hà Đông 10452 14481 13085 13405 13718 12387

Sơn Tây 2860 4167 4283 5143 5369 5719

Ba vì 7592 10054 9768 9854 9871 9145

Phúc Thọ 8950 13027 12256 11984 12088 11133

Đan Phượng 8190 10335 10111 10608 10758 11724

Hoài Đức 23502 22140 15453 16145 16293 17180

Quốc Oai 15262 18887 17572 16338 16532 13977

Thạch Thất 13900 16620 10686 11279 11445 16309

Chương Mỹ 23259 28974 35830 35460 35722 30988

Thanh Oai 19560 23642 27933 28933 29114 26850

Thường Tín 20340 23884 27216 27954 28118 38688

Phú Xuyên 22763 27755 16959 20468 20484 21541

Ứng Hoà 12615 14925 13244 13354 13555 13720

Mỹ Đức 7554 9177 9659 10153 10192 10404

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2011, tr. 152.

182

PHỤ LỤC 11

CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN

HÀ NỘI CHIA THEO NGÀNH KINH TẾ - 2011

Tỷ lệ: %

Toàn TP Nông thôn

Chung Nam Nữ Chung Nam NữTổng số 100 100 100 100 100 100

Nông, lâm, thuỷ sản 22,8 18,2 27,8 34,8 27,9 42,2

Khai khoáng 0,2 0,3 0,1 0,1 0,2 0,0

Công nghiệp chế biến, chế tạo 20,0 21,0 19,0 23,5 25,3 21,5

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước và

điều hoà không khí0,5 0,7 0,2 0,2 0,3 0,1

Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác

thải, nước thải0,5 0,6 0,5 0,5 0,5 0,4

Xây dựng 8,6 13,7 2,9 9,9 16,4 2,8

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ôtô, mô tô, xe máy

và xe có động cơ khác16,1 13,2 19,3 13,6 10,7 16,9

Vận tải kho bãi 4,8 7,9 1,4 3,3 5,8 0,7

Dịch vụ lưu trú và ăn uống 4,2 3,3 5,3 2,3 2,1 2,5

Thông tin và truyền thông 2,0 2,3 1,7 0,6 0,7 0,6

Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 1,6 1,4 1,9 0,3 0,3 0,3

Hoạt động kinh doanh bất động sản 0,6 0,6 0,5 0,2 0,2 0,1

Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 1,5 1,8 1,3 0,4 0,5 0,2

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 0,9 1,0 0,8 0,6 0,7 0,5

Hoạt động của ĐCS, tổ chức CT-XH, QLNN,

ANQP, BĐXH bắt buộc5,0 6,7 3,2 2,5 3,8 1,1

Giáo dục và đào tạo 5,5 2,9 8,4 4,1 1,6 6,9

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 1,7 1,2 2,2 0,9 0,6 1,2

Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 0,6 0,6 0,6 0,2 0,2 0,2

Hoạt động dịch vụ khác 2,4 2,6 2,3 1,8 2,3 1,3

Hoạt động làm thuê các công việc trong hộ gia

đình0,3 0,0 0,7 0,2 0,0 0,4

Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế 0,1 0,0 0,1 0,0 0,0 0,0

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động và VL năm 2011, tr. 149.

183

PHỤ LỤC 12

TỶ LỆ THẤT NGHIỆP CHIA THEO NHÓM TUỔI Ở HÀ NỘI - 2011

Tỷ lệ: %

Tổng số Thành Thị Nông thôn

Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ

Tổng số 2.38 2.27 2.50 3.52 3.18 3.90 1.60 1.64 1.56

15-19 tuổi 7,00 8,16 5,47 13,71 14,78 12,28 5,39 6,57 3,84

20-24 tuổi 6,22 6,36 6,10 10,31 10,35 10,27 4,38 4,79 3,93

25-29 tuổi 2,78 2,53 3,01 4,41 4,34 4,48 1,55 1,26 1,85

30-34 tuổi 1,27 0,84 1,71 1,96 1,03 2,89 0,70 0,68 0,71

35-39 tuổi 1,01 1,71 1,31 1,69 1,01 2,40 0,51 0,49 0,53

40-44 tuổi 1,27 0,96 1,58 1,98 1,72 2,27 0,76 0,38 1,12

45-49 tuổi 1,19 1,15 1,22 2,08 2,02 2,16 0,58 0,55 0,60

50-54 tuổi 2,42 2,22 2,64 3,53 3,12 4,06 1,59 1,42 1,75

55-59 tuổi 3,33 3,33 - 4,86 4,86 - 2,17 2,17 -

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động và VL năm 2011. tr.21.