Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THẾ TÙNG
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THẾ TÙNG
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62.22.03.08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN QUỐC PHẨM
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN OÁNH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả
Vũ Thế Tùng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến luận án 5
1.2. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu đã công bố và hướng
nghiên cứu của luận án 25
Chương 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 28
2.1. Một số khái niệm cơ bản của luận án 28
2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội 37
2.3. Quan điểm của các đảng cộng sản về tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới 46
Chương 3: TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI 63
3.1. Bối cảnh tác động đến nhận thức mới về tính phổ biến và tính đặc thù
của chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới 63
3.2. Tính phổ biến của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới
thời kỳ cải cách, đổi mới 68
3.3. Tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới
hiện nay 105
Chương 4: Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY 120
4.1. Ý nghĩa thời đại của việc quán triệt, vận dụng những giá trị phổ biến
và đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay 120
4.2. Ý nghĩa đối với Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội 133
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
USD : Đô la Mỹ
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1848, chủ nghĩa Mác ra đời đánh dấu một bước chuyển biến quan
trọng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa xã hội (CNXH)
từ không tưởng trở thành khoa học. Dựa trên quan niệm duy vật lịch sử,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo khoa học về sự xuất hiện của
một hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa với những quy luật có tính phổ biến, làm cơ sở cho các nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản (CNCS), đồng thời cũng chỉ rõ, việc vận
dụng những quy luật phổ biến đó phải luôn đặt trên “mảnh đất hiện thực”, phù
hợp với điều kiện đặc thù của từng quốc gia.
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ lý luận
trở thành hiện thực, những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học
được vận dụng trên đất nước Liên Xô và đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Đặc biệt, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành
một hệ thống thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển
đều vận dụng những quy luật phổ biến mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra và
giành được những thành tựu hết sức rực rỡ trên các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, an ninh - quốc phòng… Riêng Liên
Xô đã vươn lên trở thành siêu cường trên thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối
với phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, là trụ cột
giữ gìn hòa bình cho sự phát triển chung của nhân loại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các nước xã hội chủ
nghĩa cũng mắc phải những hạn chế trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đó là: tuyệt đối hóa quy luật phổ biến, coi nhẹ quy luật đặc thù; coi
kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là
vấn đề có tính nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế; những
sáng tạo, tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cách riêng được
cho là “chủ nghĩa xét lại”, “chệch hướng”, “xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Điều này dẫn đến vận dụng giáo điều mô hình Xô viết cho các nước xã hội
2
chủ nghĩa, làm suy giảm sự sáng tạo trong việc tìm tòi con đường phát
triển…, và, khi mô hình Xô viết không phù hợp với thực tế, rơi vào khủng
hoảng đã dẫn đến sự khủng hoảng của toàn bộ hệ thống.
Trước thực tế đó, Liên Xô và các nước Đông Âu tiến hành công cuộc cải
tổ. Tuy nhiên, do dần xa rời những nguyên lý phổ biến của CNXH khoa học, công
cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu đã thất bại vào cuối thập niên 80, đầu thập niên
90 thế kỷ XX. Các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba
tiến hành cải cách, đổi mới, giữ vững nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội
khoa học, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến với
tính đặc thù, hình thành con đường phát triển riêng, đưa đất nước vượt qua khó
khăn, từng bước giành được những thành công trên con đường đi lên CNXH.
Đến nay, việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới là một vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp thiết, giúp các nước xã hội chủ nghĩa thấy rõ những quy luật phổ biến và
đặc thù đang được vận dụng trong điều kiện hiện nay; quán triệt sâu sắc bài
học về sự kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng
chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể mỗi nước; tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển
lý luận, hoàn thiện hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới…
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay sẽ giúp chúng
ta kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục vận dụng sáng tạo những quy luật
phổ biến kết hợp với tính đặc thù trong xây dựng xã hội mới. Đồng thời, tham
khảo những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản
trên thế giới để bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội; tăng cường
đấu tranh chống biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong Đảng; phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, tạo
ra sự đồng thuận xã hội cùng hướng tới mục tiêu chung là xây dựng nước Việt
Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
3
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay” làm đề
tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu: trên cơ sở nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới, luận án rút ra ý nghĩa đối với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ đó
xác định hướng nghiên cứu của luận án;
- Làm rõ lý luận chung về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức
về chủ nghĩa xã hội;
- Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới;
- Rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế
giới và Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: luận án tập trung nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về CNXH ở 4 nước: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba.
Thời gian: từ khi các nước này tiến hành cải cách, đổi mới đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm của các đảng cộng sản, các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo ở các
nước xã hội chủ nghĩa.
Luận án cũng tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
ở trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề của luận án.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp cụ thể như: logic - lịch
sử, phân tích, tổng hợp, so sánh…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về tính phổ biến
và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội;
Hai là, phân tích làm rõ những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới.
Ba là, luận án chỉ ra ý nghĩa của việc nghiên cứu tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới đối với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề về tính phổ biến và
tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Từ đó,
cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức
về chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể làm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy những
chuyên đề: xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; chủ nghĩa xã hội hiện thực và các mô hình chủ nghĩa xã hội trên
thế giới hiện nay… trong chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các
chuyên ngành liên quan khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên
thế giới
Nguyễn An Ninh, Về triển vọng chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI [72]. Trong công trình này, tác giả luận giải về triển vọng phát
triển của chủ nghĩa xã hội trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI đầy
biến động, chỉ rõ rằng đó là một xu thế phát triển tất yếu của toàn thể nhân
loại trong thời đại ngày nay. Với cách đặt vấn đề đi từ phương pháp luận
nhận thức về triển vọng của chủ nghĩa xã hội đến phân tích một số yếu tố cơ
bản tác động đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội và tiến trình phát triển của
chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, tác giả đã cung cấp
cách nhìn biện chứng về xu hướng phát triển khách quan của chủ nghĩa xã
hội trong tương lai để từ đó phân tích những nhiệm vụ đặt ra cho Đảng Cộng
sản và giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình.
Nguyễn Ngọc Long, Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai
của chủ nghĩa xã hội hiện thực [59]. Trong công trình này, tác giả đã phân
tích sự hình thành và phát triển của CNXH hiện thực thời kỳ trước cải cách,
cải tổ, đổi mới, trong đó tập trung phân tích, đánh giá về chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước Đông Âu với thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm. Cũng trong công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích về
công cuộc cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; công
6
cuộc đổi mới trên con đường “quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa” ở Việt Nam; về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa
Cuba, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên. Khi đánh giá về công cuộc cải cách, đổi mới, tác giả đã chỉ rõ, các nước
xã hội chủ nghĩa đã vận dụng những quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác -
Lênin một cách sáng tạo trên tinh thần nhận thức mới. Đồng thời, tác giả cũng
phân tích những nét đặc thù, sáng tạo của các nước trong quá trình xây dựng
xã hội mới. Từ sự phân tích trên, tác giả đưa ra những dự báo về tương lai của
chủ nghĩa xã hội, trong đó, khẳng định quá độ đi lên CNXH là xu thế khách
quan của thời đại, đồng thời, cũng khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Trịnh Quốc Tuấn, Về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc -
những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi mới ở nước ta [103]. Đây
là công trình tập hợp nhiều bài nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau về
chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Các tác giả tập trung vào bốn
nhóm nội dung lớn như: chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc là gì;
một số quan điểm lý luận về thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa; thể chế chính trị
xã hội chủ nghĩa; lý luận về xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa;
tập trung làm rõ quá trình đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc
về CNXH và xây dựng CNXH kể từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI
(1978); phân tích quá trình hình thành, đặc trưng của CNXH mang đặc sắc
Trung Quốc, lộ trình, bước đi trong quá trình cải cách, mở cửa nhằm hướng
tới thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
Đỗ Tiến Sâm, Trung Quốc với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa [90]. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tính phổ biến
và tính đặc thù trong nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Trung
Quốc. Những nội dung chủ yếu được tác giả phân tích như: hoàn thiện chế độ
đại biểu nhân dân và hệ thống pháp luật; cải cách bộ máy hành chính nhà
7
nước và thực hiện hành chính theo pháp luật; cải cách, hoàn thiện thể chế tư
pháp và thực hiện tư pháp công bằng. Tác giả cũng chỉ rõ, để xây dựng nhà
nước pháp quyền có hiệu quả thì một nhiệm vụ quan trọng là phải cải cách,
hoàn thiện phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền và nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đỗ Tiến Sâm, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình hình
thành và phát triển [91]. Tác giả đã phân tích quá trình nhận thức của các thế
hệ lãnh đạo Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội, từ thế hệ lãnh đạo thứ nhất do
Mao Trạch Đông làm đại biểu, đến thế hệ lãnh đạo thứ tư do Hồ Cẩm Đào
làm đại biểu. Tác giả chỉ rõ hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc bao gồm: “Lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”
và quan điểm phát triển khoa học”. Tác giả cũng nêu rõ một số nội dung cơ
bản của lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc biểu hiện trên các mặt như:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ sự phân tích đó, tác giả đi tới một số kết
luận: CNXH đặc sắc Trung Quốc là sản phẩm của sự kết hợp giữa những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể Trung Quốc; chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là một mô hình CNXH hiện thực, tuy mang
tính đặc thù nhưng cũng có những giá trị phổ biến nhất định. Từ đó tác giả chỉ
ra “Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng, có thể tham khảo
những kinh nghiệm phổ biến từ sự phát triển CNXH đặc sắc Trung Quốc”.
Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Quyết, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc [76]. Các tác giả đã phân tích tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội thông qua mô hình “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc” với các đặc trưng cơ bản như: sự lãnh đạo của đảng cộng sản, lấy chế
độ công hữu làm chủ thể, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa… Tuy
nhiên, bên cạnh những nét phổ biến, nhận thức về CNXH hiện nay còn có
nhiều nét đặc thù phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội của
chủ nghĩa Mác - Lênin để phù hợp với “mảnh đất hiện thực” ở Trung Quốc.
8
Trương Duy Hòa, Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế của
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI [40].
Cuốn sách tập trung phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về
chủ nghĩa xã hội của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, với các đặc điểm cơ
bản như: vấn đề xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước và củng cố hệ thống
chính trị, vấn đề hòa hợp dân tộc, vấn đề mở rộng dân chủ và nâng cao vai trò
của đảng cầm quyền, vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng chính trị của một số nước
tại Lào…Đồng thời, tác giả phân tích triển vọng về chính trị đối nội và đối
ngoại của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2011 - 2020. Về mặt
kinh tế, trong cuốn sách, tác giả đã tổng quan hai kỳ kế hoạch 5 năm từ 2001 -
2010 ở Lào, dự báo về những triển vọng kinh tế nổi bật của Lào đến 2020 và
phân tích tác động của tình hình chính trị - kinh tế của Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào đối với Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
Lê Hữu Nghĩa, Trương Thị Thông, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn
Giang, Xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào [71]. Các tác giả đã làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảng cộng sản cầm quyền và xây dựng
đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lào; phân tích về thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
về đảng và xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam và Lào; đưa ra những dự báo xu hướng phát triển và tác
động tới xây dựng đảng cầm quyền, những quan điểm chỉ đạo và những giải
pháp lớn xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào.
9
Vũ Trung Mỹ, Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng tới
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững [69]. Tác giả đã
khái quát chặng đường phát triển của Cuba từ năm 1961 đến nay; phân tích
những kết quả chính trong việc thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng
Cộng sản Cuba, đồng thời, chỉ ra định hướng của Đại hội VII đối với sự phát
triển của cách mạng Cuba trong thời gian tới nhằm hướng tới mục tiêu xây
dựng nước Cuba XHCN thịnh vượng và bền vững.
Đinh Công Tuấn, Mô hình phát triển Bắc Âu [105]. Cuốn sách gồm 3
chương: ở chương 1, tác giả phân tích những vấn đề tổng quan về mô hình
Bắc Âu như nguồn gốc ra đời, nội dung và đặc trưng cơ bản và sự phát triển
của mô hình Bắc Âu; ở chương 2, tác giả phân tích đi sâu phân tích mô hình
phát triển của các nước Bắc Âu điển hình như: Thụy Điển, Phần Lan, Đan
Mạch, Na Uy, trong đó, nêu bật tính phổ biến của các mô hình này như: coi
trọng phân phối, thực hiện tốt các chính sách xã hội “hệ thống giáo dục miễn
phí”, “hệ thống chăm sóc sức khỏe gia đình và trẻ em”, “hệ thống bảo hiểm
xã hội cho người lao động” và nhiều chính sách ưu việt khác; ở chương 3, tác
giả phân tích tính đặc thù của các nước trong mô hình phát triển Bắc Âu, đánh
giá những thành công và hạn chế của mô hình này và dự báo triển vọng của
mô hình Bắc Âu trong những thập kỷ tới.
Phạm Quý Long, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong thập
niên đầu thế kỷ XXI [60]. Trong cuốn sách, tác giả đã khái quát những nét cơ
bản của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, những đặc điểm của khu
vực Đông Bắc Á thập niên đầu thế kỷ XXI; đánh giá sự phát triển của Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh,
đối ngoại, văn hóa - xã hội. Từ đó, khái quát về hình ảnh một đất nước Triều
Tiên trong suốt quá trình phát triển từ 1945 đến thập niên đầu thế kỷ XXI, với
nhiều nét đặc thù, nhiều vấn đề còn đặt ra trong quá trình phát triển.
10
Tạ Ngọc Tấn, Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa
xã hội [94]. Cuốn sách là tập hợp 28 công trình nghiên cứu của các học giả
Nga với những quan điểm, đánh giá, bình luận liên quan đến chủ nghĩa xã
hội. Nội dung cuốn sách đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, song tập
trung chính vào một số vấn đề cơ bản như: thứ nhất: nguyên nhân sụp đổ của
mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết, trong đó, các tác giả tập trung nhấn mạnh
những nguyên nhân chủ quan; thứ hai: nhìn nhận, đánh giá và khẳng định tính
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, các tác giả cũng thống nhất rằng,
“chủ nghĩa Mác không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”,
vì vậy, cần vận dụng và luôn luôn phát triển trong thực tế; thứ ba: các trào lưu
chủ nghĩa xã hội mới; thứ tư: về triển vọng và tương lai của chủ nghĩa xã hội,
các tác giả cho rằng, dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức nhưng
triển vọng của chủ nghĩa xã hội là khả quan và CNXH là xu hướng đi tới của
nhân loại.
Nguyễn An Ninh, Về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của khu
vực Mỹ Latinh hiện nay [74]. Tác giả phân tích bối cảnh Mỹ Latinh trong
những thập niên gần đây, khái quát nội dung cơ bản của mô hình “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI”, khái quát quá trình hiện thực hóa “chủ nghĩa xã hội thế
kỷ XXI” ở khu vực này. Tác giả cũng phân tích những vấn đề có tính phổ
biến của mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, đồng thời, chỉ rõ những nét
đặc thù, những đóng góp mới đối với nhận thức về chủ nghĩa xã hội; những
vấn đề đặt ra từ mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” đối với quá trình xây
dụng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bùi Thị Ngọc Lan, Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ Latinh -
thực trạng và triển vọng [51]. Tác giả phân tích những đặc điểm có tính phổ
biến của mô hình chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Mỹ Latinh như: “công hữu
hóa những ngành kinh tế chiến lược”, mở rộng dân chủ, xây dựng hệ thống
công xã nhân dân nhằm “bảo đảm cho nhân dân là chủ thể tối thượng của
11
quyền lực nhà nước”, chú trọng phát triển và thực hiện các chính sách xã hội
như: xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và đảm bảo chất lượng sống của
nhân dân, chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo, xóa nạn mù chữ, nâng cao
dân trí; khôi phục và thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong khu vực. Đồng
thời, tác giả cũng chỉ ra một số nét đặc thù trong mô hình này như: lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với tư tưởng tiến bộ của cách mạng Simon
Bolivar và tinh thần nhân đạo của Thiên Chúa giáo làm nền tảng tư tưởng;
giành chính quyền thông qua con đường tranh cử dân chủ, sửa đổi hiến pháp
nhằm từng bước phá bỏ bộ máy nhà nước cũ…
Nguyễn An Ninh, Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay [75]. Trong công trình này, tác giả
trình bày những nhận thức về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong đó, làm rõ quan niệm về mô
hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nhận thức và
thực hiện trước đây về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; những
nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Về tính phổ biến của mô hình chủ nghĩa xã hội, tác giả đã khái quát 7
điểm tương đồng thể hiện tính phổ biến, đó là: Các nước kiên định mục tiêu
xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải cách, đổi mới từ sự khủng hoảng của một
mô hình đã không còn phù hợp; quá trình cải cách, đổi mới của các nước đều
bắt đầu từ sự điều chỉnh quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; hầu hết các
nước đều coi lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là nền tảng lý luận cho quá
trình đổi mới quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; các mô hình đều mang
dấu ấn từ “mảnh đất hiện thực” và chấp nhận sự khác biệt trong quan niệm về
chủ nghĩa xã hội; đa số mô hình mới qua thể nghiệm đã được thực tiễn xác
nhận và đạt được thành công nhất định; các mô hình đều phải đối diện với
một số vấn đề thực tiễn và lý luận khá giống nhau; nhận thức về đặc trưng của
mô hình chủ nghĩa xã hội thường xuyên được cải cách, đổi mới ở các nước.
12
Cùng với 7 điểm tương đồng về mô hình, tác giả cũng đã phân tích 7 điểm
tương đồng về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội như vấn đề về vai trò của
đảng cộng sản, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội, về xây dựng nền kinh tế thị
trường, về công nghiệp hóa, về quan hệ sản xuất theo tư duy mới…
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tính
phổ biến, tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đào Duy Tùng, Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam [106]. Tác giả khái quát về lịch sử hình thành, phát triển của
nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, phân tích và so sánh giữa
tư duy cũ và tư duy đổi mới về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tác giả cũng phân tích quá trình vận dụng và phát triển những quy luật phổ
biến kết hợp với những yếu tố đặc thù của Việt Nam để xây dựng mô hình xã
hội xã hội chủ nghĩa với 6 đặc trưng cơ bản được trình bày trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Tác giả
cũng phân tích những khó khăn, phức tạp và nỗ lực của Đảng ta trong quá
trình đổi mới tư duy, thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với cách mạng
nước ta trong tình hình mới.
Nguyễn Văn Oánh, Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
[78]. Trong công trình này, tác giả chỉ ra một số điểm phổ biến và đặc thù về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là: con đường đi lên
CNXH gắn bó mật thiết với củng cố nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
chủ quyền quốc gia; quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, với cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN; quá trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế cùng với đảm
bảo tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; nhân dân lao
động ở vị trí trung tâm của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một
chế độ dân chủ, nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân do Đảng
13
Cộng sản lãnh đạo trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hòa nhập
với quá trình phát triển của nhân loại trên tinh thần hòa bình, hợp tác và hữu
nghị; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định con đường phát triển của
nước ta theo đúng định hướng XHCN. Tác giả cũng chỉ ra rằng, cùng với việc
áp dụng những nguyên lý phổ biến của CNXH cần có sự nghiên cứu, tìm tòi,
vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của
nước ta, không ngừng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để từng bước
hình dung ngày càng sáng tỏ về CNXH và con đường xây dựng CNXH ở
nước ta.
Nguyễn Văn Oánh, Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa [77]. Tác
giả đã phân tích tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội thông qua việc làm rõ khái
niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” theo nghĩa rộng, tức là, sự định hướng
mục tiêu và con đường phát triển của đất nước theo quy luật khách quan được
chủ nghĩa Mác chỉ ra: loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội và
CNCS. Theo nghĩa hẹp hơn, định hướng xã hội chủ nghĩa “là con đường phát
triển không tư bản”, đây là khái niệm được đặt ra với các “nước kinh tế lạc
hậu”, “kém phát triển”, “các nước đang phát triển” trong bối cảnh nhân loại
đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNCS trên phạm vi
toàn thế giới và các nước này đã giành được chính quyền về tay nhân dân và do
đảng mácxít lêninnít lãnh đạo. Từ đó, tác giả phân tích, làm rõ cơ sở khoa học
của “định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định tính đúng đắn và niềm tin vào
sự thành công của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nguyễn Duy Quý, Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [85]. Trong công trình này, tác giả
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội thể hiện qua những đặc trưng của xã hội XHCN. Đồng thời, tác
giả cũng phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thể hiện trong sáu đặc trưng
14
của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được trình bày trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991).
Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Khánh Bật, Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác -
Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [102].
Công trình bao gồm 2 nội dung lớn: Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin,
chủ nghĩa xã hội; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Thông qua hai nội
dung này, các tác giả đã phân tích những quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa Mác - Lênin, CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trên cơ sở
tập trung chọn lọc những quan điểm, tư tưởng của Người từ bộ sách Hồ Chí
Minh, toàn tập. Từ góc độ lý luận, các tác giả đã phân tích quá trình vận dụng
của Đảng ta trong việc xây dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng
như vận dụng những nguyên lý khoa học để hiện thực hóa mô hình đó.
Phạm Đình Đảng, Tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã
hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [15]. Tác giả đã phân
tích, làm rõ lý luận mác xít về tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa
xã hội; thực tiễn vận động và xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trong tính thống nhất và tính đa dạng. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích
tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chỉ rõ định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn
đề hợp quy luật khách quan của sự phát triển Việt Nam. Tác giả cũng phân
tích thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đồng thời, chỉ ra những phương hướng và 3 giải pháp chủ yếu đảm bảo tính
thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Dương Phú Hiệp, Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam [39]. Trong công trình này, tác giả khái quát lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ, đặc biệt là hình thức quá độ gián tiếp.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đã phân tích sâu sắc tính đặc thù của con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là, từ một nước “nông nghiệp lạc hậu
15
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”, từ đó, tác giả phân tích những nhiệm vụ quan trọng trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó, “nhiệm vụ quan trọng
nhất… là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”.
Nguyễn Quốc Phẩm, Đại hội X tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta [80]. Bài viết đã phân tích và làm rõ một số nhận
thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta qua 20 năm đổi
mới. Nhận thức này đã được Đại hội X của Đảng làm sáng tỏ với việc bổ
sung và phát triển một số đặc trưng mới về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng so với Cương lĩnh năm 1991, đó là đặc trưng: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng; đồng thời, Đại hội X cũng làm rõ hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam với 8 phương hướng cơ bản. Những đặc trưng và
phương hướng được Đại hội X nêu ra vừa thể hiện việc vận dụng những quy
luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn đổi mới của đất nước, vừa
thể hiện đặc thù của cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Đức Bình, Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam [8]. Tác giả đi sâu đánh giá về tình hình đất nước từ khi đổi
mới đến những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó khẳng định mục tiêu và kiên định
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tác giả chỉ rõ những
phương hướng và nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong giai đoạn tới.
Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới ở Việt Nam - thực tiễn và nhận thức lý
luận [84]. Trong công trình này, tác giả đã phân tích, so sánh làm sáng tỏ một
số vấn đề về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về CNXH giai đoạn
trước và sau đổi mới. Trước đổi mới, tác giả tập trung làm rõ những nhận
thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH trong điều kiện miền
16
Bắc tiến hành cách mạng XHCN và miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Tác giả cũng phân tích những nhận thức về CNXH và thời
kỳ quá độ lên CNXH sau ngày đất nước thống nhất (30-4-1975), nhận thức đó
được thể hiện rõ trong đường lối chung được thông quan tại Đại hội IV của
Đảng với việc vận dụng những nguyên lý có tính phổ biến của CNXH vào
thực tiễn nước ta. Tuy nhiên, do chủ quan, nóng vội mà việc nhận thức và vận
dụng những quy luật này có những sai lầm dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Tác giả đã phân tích những thành tựu nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên CNXH thời kỳ sau đổi mới, làm rõ sự đổi mới trong
tư duy chính trị; tư duy kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; những chặng
đường và bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH; vấn đề về lợi ích của nhân
dân; về công tác xây dựng Đảng…
Trịnh Quốc Tuấn, Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta [104]. Tác giả đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH. Đồng thời,
tác giả đi sâu phân tích đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng được trình bày trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Tác giả cho rằng, những đặc trưng này là mô
hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bởi vì đó là một kết cấu tổng thể của xã hội
ta trong thời kỳ quá độ, dựa trên sự thống nhất cơ sở kinh tế với kiến trúc
thượng tầng và toàn bộ những quan hệ xã hội chủ yếu. Tác giả cũng phân tích
về tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội, trong đó, “trước hết và trên hết quyền
làm chủ thuộc về nhân dân, nghĩa là toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về nhân
dân. Đó chính là đặc trưng nổi bật nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Đỗ Thị Thạch, Mô hình (đặc trưng) chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) [96]. Tác giả đã phân tích một số nhận thức mới về mô hình
CNXH trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
17
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Tác giả cho rằng, những nhận
thức mới là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi
mới nhận thức lý luận về CNXH trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam trong điều kiện
hiện nay. Đó cũng chính là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ
biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Huyên, Mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [44]. Trên cơ sở nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tác giả đã phân tích, chỉ ra những
điểm mới trong nhận thức của Đảng về mô hình phát triển xã hội trong thời
kỳ quá độ. Tác giả chỉ rõ, chỉ có thể xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa
với đầy đủ các giá trị và phẩm chất cơ bản trong hiện thực khi nó được đảm
bảo đầy đủ các thành phần, các yếu tố và các điều kiện tạo nên sức sống của
xã hội, cũng như xây dựng theo nguyên lý phát triển trên cơ sở các quy luật
vận động và phát triển của xã hội. Đó là một mô hình tổng thể với sự phát
triển của các yếu tố: kinh tế, chính trị, văn hóa, trình độ giải phóng con
người… Để thực hiện mô hình trên, tác giả phân tích sáu giải pháp cơ bản,
đồng thời nêu ra những nguyên tắc thực hiện để đưa nước ta phát triển nhanh
và bền vững.
Nguyễn Thị Ngân, Quan điểm của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và nhận
thức của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [70]. Tác
giả đã làm sáng tỏ tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thông qua
việc khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội. Tác giả cho
rằng, chủ nghĩa xã hội được phát triển từ CNTB và trải qua một thời kỳ quá
độ mà xét về mọi mặt của đời sống xã hội còn đan xen giữa CNTB và chủ
nghĩa xã hội. Việc chủ nghĩa xã hội phát triển kinh tế thị trường với sự đa
18
dạng hóa các loại hình sở hữu, chính là những bước trung gian và quá độ để
tiến tới một nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội và CNCS trong hiện thực. Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, đề ra đường lối đúng
đắn, hoàn thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo tiền đề vật
chất và tinh thần để Việt Nam bước vào chặng đầu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được Đảng ta
nhận thức rõ hơn, từ việc xác định “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” đến “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” và đó là bước chuyển biến quan
trọng trong nhận thức của Đảng. Thực chất “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, đồng thời, tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch, Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [81]. Các tác giả trình bày cơ sở lý
luận và thực tiễn của nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Phân tích những điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các tác giả chỉ rõ những vấn
đề đặt ra, dự báo những xu hướng phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những thập kỷ tới.
Hoàng Chí Bảo, Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam [6]. Tác giả đã trình bày lịch sử hình thành của CNXH
hiện thực, những cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, những đặc trưng của
CNXH hiện thực trong thế kỷ XX. Tác giả cũng đã chỉ ra những đặc trưng
được xác định là phổ biến, điển hình, thể hiện bản chất ưu việt của CNXH.
Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ rõ tính giáo điều, chủ quan, duy ý chí, không
bám sát vào thực tiễn và đó là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng
19
của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Từ phân tích thực tiễn xây dựng
CNXH trên thế giới, tác giả đã chỉ rõ khả năng, điều kiện và những đặc điểm
của con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam và từ đó cho phép hiểu: “chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam như một cái có thể, cái cần thiết dựa trên một cái
tất yếu phổ biến trên con đường phát triển do thời đại quy định. Đây là
phương diện thứ nhất nhận thức cái đặc thù Việt Nam, đặt nó trong mối quan
hệ không tách rời và không thể tách rời với cái phổ biến của thế giới và thời
đại” [6, tr.109]. Phương diện thứ hai của cái đặc thù Việt Nam chính là
“nhận thức những đặc điểm của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam” [6, tr.110]. Tác giả cũng phân tích
thời kỳ quá độ và phân kỳ thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, mối quan hệ
giữa đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa với định hình chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, giá trị của CNXH trong thế giới đương đại.
Trần Thành, Chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những quan điểm lý luận cơ
bản [97]. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ tính đặc thù của nhận thức về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thông qua việc phân tích, làm rõ cơ sở kinh tế của
chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI với những
đặc trưng về lực lượng sản xuất, về chế độ sở hữu, chế độ phân phối và kinh tế
thị trường; phân tích kiến trúc thượng tầng chính trị với nền tảng lý luận, vai trò
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tác giả
cũng đã phân tích những đặc trưng văn hóa với vai trò là nền tảng tinh thần của
xã hội, phân tích kết cấu xã hội giai cấp của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lưu Ngọc Khải, Về tính phổ biến và tính đặc thù trong đổi mới chủ
nghĩa xã hội hiện nay [48]. Trong công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích
làm rõ lý luận về tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ đổi mới. Về bản chất của mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù,
tác giả cho rằng, đó là: “sự phản ánh khách quan mối liên hệ giữa đặc trưng
chung của chủ nghĩa xã hội với những mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa cụ thể
20
vốn rất đa dạng, phong phú” [48]. Cụ thể, về nội dung tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội, đó là: “cái chung nhất, cái đặc trưng bản chất về chủ nghĩa xã
hội; tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực biểu hiện tập trung ở bản
chất, đặc trưng và mục tiêu của nó” [48], còn về tính đặc thù, đó là: “phản ánh
cái riêng, đặc trưng cụ thể được vận dụng ở các quốc gia, dân tộc sau khi giai
cấp công nhân giành được chính quyền và lãnh đạo tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên cơ sở vận dụng những quy luật chung” [48]. Việc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa
xã hội có liên quan trực tiếp đến vận mệnh, tương lai của chủ nghĩa xã hội
trong đổi mới, cải cách. Từ sự phân tích đó, tác giả đã nêu ra một số vấn đề cơ
bản đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực, Tính phổ biến và đặc thù của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [32]. Các tác giả đã chỉ ra một số
vấn đề lý luận về tính phổ biến và tính đặc thù: Khái niệm, nội dung về tính
phổ biến và tính đặc thù; các nguyên lý, quan điểm cơ bản có giá trị bền vững
của các nhà kinh điển Mác - Lênin về con đường đi lên CNXH, luận điểm
sáng tạo của Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH. Trên cơ sở
lý luận đó, các tác giả phân tích nội dung chủ yếu của sự vận dụng và phát
triển các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng CNXH ở Việt
Nam, một số thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra. Đồng thời, các
tác giả cũng nêu ra một số phương hướng và giải pháp tiếp tục vận dụng tính
phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng CNXH ở Việt Nam những thập niên
đầu thế kỷ XXI.
Tạ Ngọc Tấn, Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những vấn đề lý luận từ
công cuộc đổi mới [95]. Trong công trình này, các tác giả đã khái quát những
thành tựu nghiên cứu và phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam qua
30 năm đổi mới. Các tác giả đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quá
trình hình thành, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời
21
kỳ đổi mới, đi sâu phân tích lý luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại. Qua đó cho thấy, trong 30 năm đổi mới, Đảng đã
vận dụng và phát triển sáng tạo những vấn đề có tính phổ biến của chủ nghĩa
xã hội vào thực tiễn nước ta, đồng thời, có những sáng tạo của Đảng tạo nên
tính đặc thù trong nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Một là, một số công trình nghiên cứu tính phổ biến, tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, tiêu biểu như: Trương Lôi
Khắc, Tự Lập Bình, Lịch sử, hiện trạng, tương lai chủ nghĩa xã hội [47];
Chu Thượng Văn, Chu Cẩm Uy, Trần Tích Hỷ, Chủ nghĩa xã hội là gì? Xây
dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào [110]; Trần Lập Tân, Trần Tuyết Cường,
Ba phát triển trọng đại về lý luận giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội [93];
Đổng Liên Tường, Cải cách xã hội Trung Quốc và những sáng tạo, đổi mới
trong xây dựng đảng cơ sở [107]; Vương Ngọc Giác, Tư duy chiến lược
“bốn toàn diện” - phát triển mới của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc [34];…
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã phân tích và chỉ ra
tính phổ biến trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc như: Về
chính trị, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân; đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản với nhà nước và
xã hội; kiên trì nền tảng tư tưởng của đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên trì
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng… Về kinh tế,
tính tất yếu của giải phóng lực lượng sản xuất trong giai đoạn đầu của chủ
nghĩa xã hội “Nhiệm vụ cơ bản của chủ nghĩa xã hội là phát triển sức sản xuất
xã hội. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội phải đặt lên hàng đầu việc
22
tập trung lực lượng phát triển sức sản xuất xã hội”; đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội là chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu “đa dạng hóa
hình thức sở hữu trong đó lấy sở hữu nhà nước và tập thể là chủ đạo”; thực
hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động là chủ
yếu;… Về văn hóa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Trung
Quốc tôn trọng và đề cao sức mạnh của văn hóa, thực hiện phương châm “văn
hóa vừa là động lực vừa là trí lực cho sự phát triển đất nước”, kết hợp hài hòa
giữa tiếp thu tinh hoa văn hóa thời đại với văn hóa truyền thống Trung
Quốc… Về xã hội, thực hiện chế độ “cùng xây cùng hưởng, làm cho thành
quả phát triển đất nước đến với mọi tầng lớp nhân dân”, xoá bỏ phân cực giàu
nghèo để tiến tới cùng giàu có…
Bên cạnh kiên trì những quan điểm có tính nguyên tắc thể hiện tính phổ
biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng xác
định rõ tính đặc thù trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc như: Về
chính trị, cùng với kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Trung
Quốc kết hợp “tư tưởng Mao Trạch Đông”, “lý luận Đặng Tiểu Bình”, “thuyết
Ba đại diện”, “quan điểm phát triển khoa học” làm nền tảng tư tưởng và kinh
chỉ nam cho hành động. Trong quản lý xã hội, Đảng Cộng sản Trung Quốc
chủ trương “kết hợp đức trị và pháp trị”, xây dựng “một đất nước hai chế
độ”… Về kinh tế, trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, Trung Quốc chủ
trương “một bộ phận nhân dân giàu lên trước” - có nghĩa là chấp nhận có sự
phân hóa xã hội trong mức độ cho phép; thừa nhận sở hữu tư nhân như một
động lực của phát triển kinh tế… Đây là những điểm rất đặc thù, xuất phát từ
đặc điểm, yêu cầu của nhân dân Trung Quốc, lý luận này được gọi là “Chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Hai là, một số công trình nghiên cứu tính phổ biến, tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, tiêu biểu
23
như: Chương Xổm Bun Khẳn, Tiếp tục đổi mới là sự nghiệp, nhiệm vụ và
trách nhiệm cao cả của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào [14]; Sinlavông
Khutphaithun, Các yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành công của việc đổi mới
kinh tế [92]; Chalơn Diapaohơ, Củng cố quyền lực Nhà nước ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào [12]; Bosẻngkhăm Vôngđala, Một số điểm nổi bật về đổi
mới văn hóa - xã hội tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [11]…
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã chỉ ra những đặc
điểm có tính phổ biến trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Lào như: sự lãnh
đạo tuyệt đối của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong xây dựng đất nước,
đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng; sự cần thiết phải xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ dân chủ nhân
dân…, thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, phân phối
theo lao động, tính tất yếu khách quan của phát triển lực lượng sản xuất, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa…
Bên cạnh tính phổ biến, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng xác định
tính đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội như: kết hợp chủ nghĩa Mác
- Lênin với tư tưởng Cay-xỏn Phôn-vi-hản làm nền tảng tư tưởng của Đảng;
sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa; sự chuyển
đổi hình thức và cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch, bình quân, quan liêu, bao
cấp sang kinh tế thị trường; tập trung phát huy sức mạnh của các thành phần
kinh tế; mở rộng hợp tác và hội nhập kinh tế…; tính đặc thù trong phát triển
văn hóa của nhân dân các bộ tộc Lào…
Ba là, một số công trình nghiên cứu về tính phổ biến, tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa Cuba, tiêu biểu như: Admi
Valhuerdi Cepero, Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba và công cuộc cập nhật
hóa mô hình kinh tế Cuba [2]; Rosario Pentón Diaz, Về vai trò của Đảng
Cộng sản Cuba trong cuộc cập nhật mô hình xã hội chủ nghĩa Cuba - quá
trình lịch sử [87]; Maria De Jesús Calderius Fernández, Vai trò lãnh đạo và
24
kiểm tra của Đảng đối với Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
[65]; Salvador Valdés Mesa, Hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, con đường duy
nhất để củng cố vững chắc nền độc lập, tự do, phát triển, phúc lợi, sự công
bằng và công lý xã hội [89]…
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã chỉ ra tính phổ biến
của nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Cuba như: khẳng định vai trò lãnh đạo
tối cao của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội, kiên trì chủ nghĩa
Mác - Lênin; thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất, khẳng định sự
quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế, đảm bảo nguyên tắc phân phối xã
hội chủ nghĩa; thực hiện tốt các chính sách xã hội hướng tới xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa “phồn vinh và bền vững”.
Tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội chính là nhận thức đặc
điểm và bối cảnh Cuba xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó, nổi lên một số
vấn đề căn bản: “Đảng Cộng sản Cuba là thành quả của cách mạng; được hình
thành trên cơ sở sáp nhập tất cả các lực lượng cách mạng đã tham gia đấu
tranh chống lại đế chế độc tài Batista, bảo vệ chủ quyền quốc gia và độc lập
dân tộc”, nền tảng lý luận của Đảng dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hô-xê Mác-ti, có bổ sung thêm những hoạt động thực tiễn của lãnh tụ lịch sử
Phi-đen Cát-tơ-rô; Cuba xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đất nước
còn lạc hậu, sự bao vây, cấm vận còn kéo dài, kế hoạch hóa vẫn sẽ được ưu
tiên nhưng sẽ tính đến các xu hướng phát triển của thị trường, sẽ tác động vào
thị trường và có tính đến những đặc điểm của thị trường; thừa nhận và thúc
đẩy các hình thức khác như đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, nông dân cá thể,
những người thuê đất… Hiện nay, Đảng Cộng sản Cuba tiếp tục cập nhật mô
hình phát triển kinh tế - xã hội, thông qua chính sách kinh tế vĩ mô, chính
sách thí điểm thành lập hợp tác xã trong hoạt động phi nông nghiệp, thừa
nhận và thúc đẩy các hình thức khác như đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, nông
dân cá thể, những người thuê đất… Nhà nước tiếp tục bảo đảm các dịch vụ
giáo dục và y tế không mất tiền cho toàn dân.
25
Những công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ một số nhận thức mới
về tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số
quốc gia hiện nay.
1.2. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ
CÔNG BỐ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.2.1. Giá trị của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan
đến đề tài luận án
Thứ nhất, về tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, một số
công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra nhận thức mới có tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội như: Về chính trị, khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối của các đảng
cộng sản, đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nền chính trị
dân chủ xã hội chủ nghĩa…; Về kinh tế, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản
xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thiết lập chế độ công
hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, thực hiện chế độ phân phối theo lao động
kết hợp với các hình thức phân phối khác, phát triển kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa…; Về văn hóa - xã hội, xây dựng nền
văn hóa mới kết tinh những giá trị dân tộc và nhân loại, thực hiện tốt các
chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội… Những vấn đề có
tính phổ biến của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội vừa là sự vận dụng sáng
tạo những nguyên lý bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa là sự bổ sung,
phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong điều kiện mới.
Thứ hai, về tính đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội, có một số
công trình nghiên cứu đã chỉ ra những nhận thức riêng biệt của các đảng cộng
sản về mô hình, đặc trưng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở từng quốc gia,
dân tộc. Về thực chất, đây là sự vận dụng, cụ thể hóa lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Đồng thời, phản ánh sự sáng
tạo của các đảng cộng sản trong việc tìm tòi, xây dựng bước đi, giải pháp phát
triển riêng, phù hợp với điều kiện và đặc điểm của mỗi quốc gia.
26
Thứ ba, một số công trình đã có sự so sánh, đối chiếu nhằm làm rõ sự
khác nhau trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai đoạn trước và sau cải
cách, đổi mới. Đó là sự so sánh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
được thể hiện trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn trước và sau đổi mới, từ đó, chỉ ra
những điểm mới trong nhận thức của các đảng cộng sản. Ví dụ: nhận thức về
chế độ công hữu với hai thành phần kinh tế là nhà nước, tập thể ở Trung
Quốc, Việt Nam giai đoạn trước cải cách, đổi mới với nền kinh tế nhiều thành
phần, trong đó, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo giai
đoạn sau cải cách, đổi mới. Đây thực chất là làm rõ tính quy luật của quá trình
nhận thức, sự phát triển lý luận của các đảng mác-xít.
Thứ tư, ở những mức độ khác nhau, các công trình đã chỉ ra ý nghĩa của
việc nghiên cứu về tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã
hội đối với Việt Nam nói riêng và cách mạng thế giới nói chung.
Thứ năm, mặc dù nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu được công bố ở
thời điểm chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang lâm vào khủng hoảng, thoái trào
nhưng các tác giả vẫn có sự nhất trí cao khi phân tích về tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về tương lai của chủ nghĩa xã hội.
Những kết quả nghiên cứu này có giá trị tham khảo tốt cho tác giả
trong quá trình thực hiện luận án. Chúng tôi trân trọng kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc những kết quả nghiên cứu trên để phục vụ cho thực hiện mục tiêu
nghiên cứu của luận án.
1.2.2. Hạn chế về góc độ tiếp cận của những công trình đã công bố
Những công trình nghiên cứu trên đều là những công trình khoa học có
giá trị lý luận và thực tiễn cao. Tuy nhiên, xét về góc độ tiếp cận các công
trình còn một số hạn chế:
Một là, các công trình khi nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, chỉ tập trung vào một lĩnh vực cụ thể
27
như tính phổ biến và tính đặc thù của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… mà chưa có sự nghiên cứu toàn diện
những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội…
Hai là, có một số công trình khoa học nghiên cứu tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, song mới chỉ dừng lại ở trong
phạm vi một quốc gia cụ thể, một mô hình riêng biệt, chưa có sự nghiên cứu
rộng ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, chưa có sự phân tích, so sánh
những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc thù.
Như vậy, mặc dù có những công trình nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội,
tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội, các mô hình về chủ nghĩa
xã hội trên thế giới, nhưng, chưa có công trình nào nghiên cứu về tính phổ
biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế
giới hiện nay.
1.2.3. Hướng nghiên cứu của luận án
Một là, luận án tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa
xã hội; phân tích về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa
xã hội thời kỳ trước cải cách, đổi mới.
Hai là, phân tích, làm rõ tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội ở các nước Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Lào
trong thời kỳ cải cách, đổi mới.
Ba là, luận án rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội thế giới và Việt Nam hiện nay.
28
Chương 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
2.1.1. Khái niệm tính phổ biến và tính đặc thù
Tính phổ biến và tính đặc thù là những phạm trù triết học thể hiện
những mối quan hệ khách quan của thế giới, cũng như trình độ nhận thức
những quan hệ ấy. Những phạm trù này được hình thành trong tiến trình phát
triển của hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Trong triết học, “tính phổ biến” và “tính đặc thù” còn được gọi là “cái
phổ biến” và “cái đặc thù”, chúng có mối quan hệ mật thiết với cặp phạm trù
cái chung và cái riêng. Vì vậy, để làm rõ khái niệm tính phổ biến và tính đặc
thù cần làm rõ những phạm trù có liên quan này.
Theo quan điểm mácxít, “cái riêng” là phạm trù “được dùng để chỉ
một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định” [43, tr.237]. Cái
riêng tồn tại với tư cách là một chỉnh thể trong mối quan hệ độc lập tương đối
với những cái khác, nó bao gồm nhiều mặt, nhiều thuộc tính cấu thành nên.
Tuy nhiên, những mặt, thuộc tính tạo nên cái riêng lại có mức độ phổ biến
khác nhau: có những mặt, thuộc tính chỉ tồn tại ở một cái riêng mà không lặp
lại ở bất kỳ cái riêng nào khác; có những mặt, thuộc tính lặp lại ở một nhóm
nhỏ các sự vật, hiện tượng; có những mặt, thuộc tính có ở tất cả các đối tượng
được xét đến.
Những mặt, yếu tố chỉ tồn tại ở một cái riêng mà không có sự lặp lại ở
những cái khác được gọi là cái đơn nhất. Theo quan điểm duy vật biện chứng,
“cái đơn nhất” là phạm trù “dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc
tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ
một kết cấu vật chất nào khác” [43, tr.238]. Cái đơn nhất là tiêu chí để tạo
nên sự khác biệt giữa cái riêng này với cái riêng khác.
29
Những mặt, thuộc tính tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau được
gọi là cái chung. “Cái chung” là phạm trù “dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn
được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác” [43,
tr.238]. Cái chung là kết quả trừu tượng và khái quát của tư duy về sự giống
nhau, tương đồng mang tính tương đối giữa các thuộc tính nhất định của các sự
vật, hiện tượng. Cái chung của các sự vật, hiện tượng có thể là về thuộc tính vật
lý, hóa học, sinh học… hay những phẩm chất trong lĩnh vực xã hội.
Cái chung lại có thể phân thành cái phổ biến và cái đặc thù. Cái chung
có ở tất cả các sự vật, hiện tượng được nghiên cứu thì được gọi là cái phổ
biến. Cái chung chỉ có ở một loại sự vật hoặc một nhóm nhỏ sự vật mà không
xuất hiện ở những sự vật khác thì được gọi là cái đặc thù.
Theo Từ điển Triết học:
Mỗi sự vật riêng lẻ đều được lĩnh hội như là một cái đơn nhất.
Những cái đơn nhất cũng có những đặc trưng chung, những nét
và đặc tính chung vốn chỉ có ở những nhóm nhỏ các sự vật thì khi
đó chúng là cái đặc thù, còn những nét đặc tính chung ấy vốn có
ở tất cả các sự vật và hiện tượng, thì khi đó chúng là cái phổ biến
[49, tr.190-191].
Theo các tác giả Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực: “Cái có sự lặp lại
ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau được gọi là cái chung. Cái chung có mặt
xuất hiện ở một số sự vật, nhưng không xuất hiện ở những sự vật khác được
gọi là cái đặc thù. Cái chung có ở mọi sự vật được gọi là cái chung nhất hay
cái phổ biến” [32, tr.10-11].
Từ những quan niệm trên cho thấy, trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng
lẻ đều có những đặc tính chung, những đặc tính chung có ở hầu hết (hoặc tất
cả) các sự vật, hiện tượng được xét đến thì được gọi là tính phổ biến, những
đặc tính chung chỉ có ở một loại sự vật hoặc những nhóm nhỏ sự vật, hiện
tượng được gọi là tính đặc thù.
30
Mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù: tính phổ biến và tính
đặc thù luôn có mối quan hệ khăng khít, không tách rời nhau, quy định lẫn
nhau, chúng là một bộ phận của cái riêng, tồn tại trong cái riêng và thông qua
cái riêng, chúng phản ánh tính thống nhất khách quan của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, trong sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện
tượng đó gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Sự giống nhau cơ bản của các sự
vật, các quá trình chỉ là biểu hiện của mối quan hệ khách quan sâu sắc đó.
Hình thức của tính phổ biến trong tự nhiên, - Ăng-ghen viết, - đó là quy
luật… Hình thức của tính phổ biến là hình thức của sự hoàn chỉnh bên trong
và, do đó, là hình thức của tính vô hạn; nó là sự liên kết nhiều sự vật hữu hạn
thành cái vô hạn. Vì vậy, cái phổ biến thể hiện sự phong phú của cái đặc thù,
cái cá thể, cái riêng lẻ.
Mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù còn thể hiện ở chỗ, cái
này lấy cái kia làm tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của mình. Trong Từ
điển Triết học có viết: “Phép biện chứng của cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ
biến nằm trong mối liên hệ của chúng, ở chỗ cái đơn nhất không thể tồn tại
nếu không có cái phổ biến, cái phổ biến không thể tồn tại nếu không có cái
đơn nhất và trong điều kiện nào đó, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái
đặc thù và cái phổ biến, v.v…”.
Sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất, cái phổ biến và cái đặc thù gắn liền
với quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng; với sự hình
thành cái mới và sự mất đi của cái cũ. Sự chuyển hóa đó diễn ra theo một cơ
chế nhất định, thông qua cái đặc thù, cái đơn nhất có thể chuyển hóa dần dần
thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông qua cái đặc thù, cái phổ biến có
thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Trong tự nhiên và xã hội, cái mới khi xuất
hiện lần đầu nó chỉ là cái đơn nhất, nếu cái đơn nhất này là tiến bộ, phù hợp,
nó sẽ dần chuyển thành cái đặc thù và phát triển lên trở thành cái phổ biến.
Cái cũ khi không còn phù hợp thì nó sẽ chuyển dần thành cái đặc thù, cái đơn
31
nhất rồi mới mất hẳn. Trong xã hội, sự chuyển hóa cái mới từ cái đơn nhất
thành cái đặc thù, cái phổ biến là một quá trình lâu dài, phức tạp, với nhiều
bước quá độ, trung gian, nhiều khi có cả những thất bại tạm thời.
Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù có ý
nghĩa quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới, đặc biệt, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc phân tích về mối liên hệ biện chứng này sẽ
làm rõ được những quy luật chung của chủ nghĩa xã hội và sự thể hiện đặc
thù, độc đáo, sáng tạo những quy luật ấy ở từng quốc gia riêng lẻ.
2.1.2. Khái niệm chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm xuất hiện trước sự ra đời của chủ
nghĩa Mác. Theo Từ điển Tân Anh ngữ cho các nguồn gốc lịch sử (A New
English Dictionary on Historical Principles) xuất bản năm 1888 của Oxford
thì khái niệm về chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại
được ông Pielơrut xơ (Pierre Leroux, 1797 - 1871) đưa ra năm 1832 trên tờ
báo Le Globe.
Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm rộng bao gồm nhiều nghĩa khác
nhau, khái niệm này đã được nhiều nhà khoa học, nhiều công trình khoa học
đề cập tới. Tuy nhiên, tùy từng cách tiếp cận có thể đưa ra quan điểm khác
nhau về chủ nghĩa xã hội. Có một số cách tiếp cận cơ bản sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên), chủ nghĩa xã hội
được hiểu là: “Giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, theo chủ
nghĩa Marx” [83, tr.173].
Theo Chủ nghĩa cộng sản khoa học Từ điển, chủ nghĩa xã hội là:
Chế độ xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản. Một chế độ xã hội mà đặc
điểm là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không có tình trạng
người bóc lột người, có nền sản xuất xã hội kế hoạch hóa trong
phạm vi toàn xã hội; là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa [1, tr.400].
32
Những cách tiếp cận trên cho thấy, chủ nghĩa xã hội được hiểu là giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một chế độ xã
hội ra đời thay thế cho CNTB với những đặc trưng là chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất, xóa bỏ áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng, giải
phóng con người…
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam (1995), chủ nghĩa xã hội được hiểu
theo hai nghĩa: thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là “trào lưu tư tưởng, học thuyết
chính trị” [42, tr.517], trào lưu này được hình thành và phát triển qua hai trình
độ là chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học; thứ hai, chủ
nghĩa xã hội được hiểu là một chế độ xã hội hiện thực, “xã hội xã hội chủ nghĩa
được xây dựng trong thực tế” [42, tr.517], chế độ này xuất hiện từ sau thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và sau đó phát triển thành một hệ thống
trên thế giới.
Theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Đức Bách, khái niệm chủ nghĩa
xã hội được trình bày với 5 nội dung cơ bản sau: (1) Chủ nghĩa xã hội là những
nhu cầu và hoạt động thực tiễn của nhân dân trong sản xuất và thực thi dân chủ
(quyền lực của dân); (2) Chủ nghĩa xã hội là những phong trào thực tiễn của
nhân dân đấu tranh chống chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột; giành dân chủ; (3)
Chủ nghĩa xã hội là ước mơ, lý tưởng của nhân dân về xã hội không còn chế độ
tư hữu, không có giai cấp, không có áp bức, bóc lột; nhân dân làm chủ, hạnh
phúc…; (4) Chủ nghĩa xã hội là những tư tưởng, học thuyết về giải phóng con
người và xã hội, (trước Mác là “Chủ nghĩa xã hội không tưởng”, từ Mác là Chủ
nghĩa xã hội khoa học); (5) Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội hiện thực, do
nhân dân mỗi nước xây dựng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua đảng của nó [4, tr.154-172].
Kế thừa từ những quan niệm trên, tác giả luận án cho rằng, thuật ngữ chủ
nghĩa xã hội được nhận thức theo những nghĩa cơ bản sau:
33
Một là, chủ nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn, đó là những phong
trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị,
chống lại mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, đòi lại quyền bình đẳng, quyền dân
chủ để nhân dân được hoàn toàn giải phóng. Những phong trào hiện thực này
bắt đầu xuất hiện từ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phản ánh cuộc đấu tranh của
giai cấp nô lệ và nhân dân lao động chống giai cấp chủ nô và kéo dài trong các
xã hội còn tồn tại giai cấp và áp bức giai cấp.
Hai là, chủ nghĩa xã hội với tư cách là mơ ước, lý tưởng, khát vọng của
nhân dân lao động về một xã hội tốt đẹp, không còn giai cấp, áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, chiến tranh và tội ác…, con người được giải phóng, có
quyền dân chủ - quyền lực của dân.
Ba là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết về
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi chế độ tư
hữu, áp bức, bóc lột, bất công; về xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ
công hữu, không còn giai cấp và đối kháng giai cấp, một xã hội dân chủ, văn
minh, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện. Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết trải qua
hai thời kỳ phát triển (từ thế kỷ XVI đến trước khi chủ nghĩa Mác ra đời được
gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng; từ khi chủ nghĩa Mác ra đời (1848) được
gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học).
Bốn là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là chế độ xã hội hiện thực, đó là
một chế độ chính trị - kinh tế - xã hội được thiết lập trên thực tế sau khi giai
cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, giành được chính quyền,
từ đó xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, theo những nguyên lý, quy luật của chủ
nghĩa xã hội khoa học kết hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới ra đời từ sau thắng lợi của Cách mạng
34
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, trở thành hệ thống trên thế giới
từ sau năm 1945 và trải qua nhiều giai đoạn phát triển.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, trong luận án này, khi đề cập đến “tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay” thì khái niệm “chủ
nghĩa xã hội” được sử dụng chủ yếu với hai nghĩa: một là, chủ nghĩa xã hội với
ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết; hai là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là
một chế độ xã hội hiện thực.
2.1.3. Khái niệm nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
Khái niệm, bản chất của nhận thức: theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng
tạo ra những tri thức về hiện thực khách quan đó. Nhận thức là một quá trình
biện chứng, đó là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ
chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn. Do đó, việc thay đổi, bổ sung và phát triển nhận
thức là một quá trình diễn ra liên tục.
Thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
mục đích của nhận thức, đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý. Với vai trò đó, khi
thực tiễn vận động, thay đổi, nó đòi hỏi nhận thức cũng phải có sự thay đổi
theo, những nhận thức cũ không phù hợp sẽ bị loại bỏ và mất đi, nhận thức mới
tiến bộ sẽ ra đời thay thế cho nhận thức cũ lạc hậu. Tuy nhiên, nhận thức mới
không phải là sự phủ định sạch trơn đối với những nhận thức cũ mà là sự kế
thừa, bổ sung, phát triển và sáng tạo tri thức mới cho phù hợp với bối cảnh lịch
sử đó.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội thực chất là quá trình phản ánh các quy
luật, đặc trưng, bản chất, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội vào đầu óc con
người. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội có thể chia làm bốn thời kỳ chính: thời
kỳ những nhà CNXH không tưởng nhận thức về chủ nghĩa xã hội; thời kỳ các
35
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhận thức về chủ nghĩa xã hội; thời
kỳ các đảng cộng sản nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai đoạn trước cải cách,
cải tổ, đổi mới; thời kỳ các đảng cộng sản nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai
đoạn cải cách, đổi mới (hay là nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội).
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là nhận thức của các đảng cộng sản
về bản chất, đặc trưng, con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hình
thành trong quá trình cải cách, đổi mới. Đó là những nhận thức đúng quy luật,
phù hợp với thực tiễn; có sự bổ sung, phát triển những nguyên lý khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; có sự khác biệt với nhận thức của các đảng cộng sản thời kỳ
trước cải cách, đổi mới; có sự kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến và tính đặc
thù; phù hợp với điều kiện, đặc điểm của mỗi quốc gia và phản ánh xu thế phát
triển chung của thời đại.
Cơ sở để xác định nhận thức “mới” về chủ nghĩa xã hội căn cứ vào hai
tiêu chí sau: Một là, căn cứ vào thời gian, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là
những nhận thức xuất hiện trong thời kỳ cải cách, đổi mới (dùng để phân biệt
với nhận thức truyền thống về chủ nghĩa xã hội - giai đoạn trước cải cách, đổi
mới). Hai là, căn cứ vào nội dung, những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là
những nhận thức có sự bổ sung, phát triển so với quan điểm của các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của các đảng cộng sản giai đoạn
trước cải cách, đổi mới.
Nguyên tắc của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội: khi bước vào
cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đã nêu ra những nguyên tắc cơ
bản, định hướng cho toàn bộ quá trình cải cách, đổi mới nói chung và “nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội” nói riêng. Ở Trung Quốc, đó là bốn nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”; ở
Việt Nam, Hội nghị Trung ương VI khóa VI (1989) đề ra 6 nguyên tắc cơ bản
36
cho sự nghiệp đổi mới… Các nguyên tắc này được hoàn thiện trong quá trình
cải cách, đổi mới, nhưng có thể khái quát chung là:
Một là, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội không phải là từ bỏ mục tiêu
chủ nghĩa xã hội mà là “kiên trì” và làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức
đúng đắn, đầy đủ, sáng tạo hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
Hai là, cải cách, đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể ở mỗi
quốc gia dân tộc.
Ba là, cải cách, đổi mới là phải kiên trì, bảo đảm sự lãnh đạo của đảng
cộng sản, đó là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc cải cách, đổi mới
đất nước. Không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ trong
nhân dân.
Bốn là, nhận thức mới về CNXH không phải là quá trình phủ định sạch
trơn những nhận thức trước đó mà là quá trình nhận thức toàn diện, đồng bộ, có
kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức,
tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới
tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có
những bước đi thích hợp.
Năm là, nhận thức mới về CNXH trên cơ sở lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ
thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân
dân và do nhân dân. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên
tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển.
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
37
2.2. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÍNH PHỔ BIẾN
VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử, tính phổ biến của nhận thức về chủ
nghĩa xã hội là nhận thức chung về những vấn đề có tính quy luật, những
giá trị bền vững được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra, phản ánh những nét
đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mà các quốc gia có thể vận dụng vào trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
2.2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong của mình là đảng cộng sản.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân
chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi có chính đảng cách mạng,
để tập hợp và lãnh đạo toàn thể giai cấp công nhân, nhân dân lao động chống
lại giai cấp tư sản. Bàn về vai trò của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C.Mác
và Ph.Ăngghen chỉ rõ:
Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy
phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai
cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản [62, tr.614-615].
V.I.Lênin đã kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng
cộng sản, bổ sung, phát triển lý luận đó, nêu ra quan điểm về xây dựng đảng
kiểu mới, theo đó, đảng vô sản kiểu mới là đội tiên phong giác ngộ và có tổ
chức của giai cấp công nhân, đồng thời đoàn kết những đại biểu tiên tiến nhất
38
của các giai cấp, tầng lớp lao động đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân. V.I.Lênin đã chỉ rõ vai trò của lý luận cách mạng: “Không có lý luận
cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”; luận chứng một cách khoa
học các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó, tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất của xây dựng đảng kiểu mới và nêu tiêu
chuẩn của đảng viên. Đây là điều kiện để xây dựng đảng thành một tổ chức
chặt chẽ, là tiền đề vô cùng quan trọng để giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của mình.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện nhà nước chuyên chính vô sản trên nền
tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới,
nhà nước do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra. Chủ
yếu thông qua nhà nước mà đảng lãnh đạo xã hội về mọi mặt, nhân dân lao
động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi phương diện của xã hội,
ngày càng tham gia vào công việc của nhà nước. Sự liên minh giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động là cơ sở chính
trị - xã hội của nhà nước chuyên chính vô sản
Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn là nhà nước nguyên nghĩa mà là
“nhà nước nửa nhà nước” với chức năng cơ bản là tổ chức xây dựng xã hội mới
cao hơn CNTB, tính tự giác, tự quản cao của nhân dân, thể hiện quyền làm chủ
và lợi ích của mình ngày càng rõ.
Thứ ba, mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhân
dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, bởi
vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng
công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân
chủ”, đó là cuộc cách mạng đưa nhân dân lao động từ địa vị làm thuê trở
thành người làm chủ, đứng ra tổ chức, quản lý và xây dựng xã hội mới. Nền
dân chủ XHCN do đảng cộng sản lãnh đạo, dựa trên chế độ công hữu về
39
những tư liệu sản xuất chủ yếu và dựa trên nền tảng lý luận chủ chủ nghĩa
Mác - Lênin để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là dân chủ của số đông và tạo điều kiện cho số đông ngày càng
tham gia nhiều vào công việc của nhà nước và xã hội, dân chủ gắn bó chặt
chẽ với chuyên chính.
2.2.1.2. Trên lĩnh vực kinh tế
Thứ nhất, phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân
khi trở thành giai cấp thống trị, thì nhiệm vụ quan trọng nhất là phải “tăng thật
nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”, xây dụng nền kinh tế hiện đại với
năng suất lao động xã hội cao, bởi: “xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái
quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới” [56, tr.25].
Thứ hai, từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, thiết lập và hoàn thiện chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất
chủ yếu; tổ chức lao động mới; thực hiện phân phối theo lao động. C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định: Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa
bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, các ông viết:
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu
nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản.
Nhưng chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và
đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa
trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột
của những người kia.
Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình
thành một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu [62, tr.615-616].
Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản là nhu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa và mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
40
xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản không phải là
đồng nghĩa với xóa bỏ sở hữu cá nhân do lao động, từ thành quả lao động của
mỗi người, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Điều chúng tôi muốn, là xóa bỏ tính chất bi thảm của các phương thức chiếm
hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản và chỉ
sống trong chừng mực mà lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi” [62, tr.617].
Thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu là nhằm tạo ra cơ sở kinh tế để xây dựng một xã
hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, khó
khăn, phức tạp, không thể ngay lập tức được. Trong Những nguyên lý của chủ
nghĩa cộng sản, khi trả lời câu hỏi: Liệu có thể thủ tiêu ngay lập tức chế độ tư
hữu được không? Ăngghen viết:
Không, không thể được cũng y như không thể làm cho lực lượng sản
xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng
một nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô
sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải
tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được
một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi
ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu [62, tr.469].
Về tổ chức lao động mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
rất quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động nhằm khắc
phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ và tạo ra
một kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin chỉ rõ:
chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực và chủ yếu là bạo lực, cơ sở
kinh tế của chuyên chính vô sản chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và
thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Các nhà kinh điển nhấn mạnh, chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật
lao động nghiêm ngặt mới dẫn tới chủ nghĩa xã hội. Lao động được tổ chức có
41
kế hoạch, kỷ luật chặt chẽ theo quy định chung của pháp luật, pháp chế xã hội
chủ nghĩa, vừa có tính tự nguyện, tự giác là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện phân phối theo lao động, chủ nghĩa xã hội thực hiện hình thức
phân phối theo lao động. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản trong chủ nghĩa
xã hội. Theo nguyên tắc này, trong quá trình lao động cụ thể, sau khi đã trừ đi
những khoản đóng góp chung cho xã hội để tái sản xuất và cho phúc lợi xã hội
mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng
trị giá tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động mà họ cung cấp
cho xã hội được lượng hóa bằng giá trị hoặc vật phẩm. Nguyên tắc này thể hiện
sự công bằng dưới chủ nghĩa xã hội, nó phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn này.
2.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kết tinh những
giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại. Khi nghiên cứu về sự thay đổi của các
phương thức sản xuất, C.Mác đã kết luận rằng: chính sự thay đổi của phương
thức sản xuất mà trước hết do sự thay đổi của lực lượng sản xuất sẽ quyết định
sự biến đổi của đời sống tinh thần, quyết định sự chuyển biến từ một nền văn
hóa này sang một nền văn hoá cao hơn.
Khi CNXH ra đời thay thế cho CNTB, tất yếu ra đời nền văn hóa mới -
"nền văn hoá vô sản" hay “nền văn hoá xã hội chủ nghĩa”. Đây là nền văn hóa
kế thừa, kết tinh những giá trị văn hóa mà nhân loại đã tạo ra qua mọi thời đại,
đồng thời, là nền văn hóa của mỗi quốc gia mang đậm dấu ấn dân tộc với sự
tham gia của toàn thể nhân dân và vì lợi ích nhân dân. V.I.Lênin viết:
… văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do
những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản phát minh
ra. Đó là điều ngu ngốc. Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy
luật, của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách
thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ, xã hội của bọn
quan liêu [57, tr.361].
42
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, cần phải có những
người cộng sản và theo V.I.Lênin thì "người ta chỉ có thể trở thành người cộng
sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri
thức mà nhân loại đã tạo ra" [57, tr.362].
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội thực hiện giải phóng con người, tạo điều kiện
cho con người phát triển toàn diện. Giải phóng con người là mục tiêu cao nhất
của chủ nghĩa xã hội, CNCS, đó là một sự giải phóng toàn diện đối với con
người trên các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và đời
sống tinh thần để tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Mục tiêu đó
thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo cao cả của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự
báo về xã hội tương lai: “thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và
đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người” [62, tr.628].
2.2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Khi bàn đến tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ nêu những vấn đề có tính phương
pháp luận cho quá trình nhận thức và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là
những định hướng hết sức quan trọng để trên cơ sở đó, các đảng cộng sản ở các
nước xã hội chủ nghĩa vận dụng linh hoạt các vấn đề có tính phổ biến vào điều
kiện cụ thể từng nước để tìm ra con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội riêng,
phù hợp với dân tộc mình. Đồng thời, tránh việc nhận thức giản đơn về chủ
nghĩa xã hội; tránh sự dập khuôn máy những mô hình và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước này cho nước khác; tránh sự đề cao tính phổ biến, coi
nhẹ tính đặc thù và ngược lại.
43
Một là, khi áp dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội
khoa học phải căn cứ vào tính đặc thù của từng quốc gia, dân tộc
Cùng với việc chỉ rõ và phân tích những vấn đề có tính phổ biến của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng nhấn mạnh rằng: các vấn đề phổ biến này lại được biểu hiện một cách
khác nhau trong những điều kiện đặc thù ở từng quốc gia riêng biệt với trình độ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, truyền thống lịch sử, đặc điểm dân tộc…
không giống nhau. Đó là biểu hiện tính đặc thù và nó đòi hỏi việc vận dụng
những nguyên lý của CNXH khoa học cần phải phù hợp với điều kiện của từng
quốc gia cụ thể. Trong Lời tựa cho bản viết bằng tiếng Đức Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản viết năm 1872, C.Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh: “…Chính
ngay trong Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc
nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử
đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng
nêu ra ở cuối chương II” [63, tr.128].
Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến
khoa học, Ph.Ăngghen viết: “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa
học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực” [64,
tr.293]. Tới năm 1891, Ph.Ăngghen tiếp tục nhắc nhở: Biện pháp nào là cần
thiết trước hết, điều đó còn tùy thuộc vào điều kiện không gian và thời gian, về
vấn đề này không thể nói gì trước được và nói chung không thể nói gì được.
Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác về tính phổ biến và tính
đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1916, trong tác
phẩm Về một sự biếm họa chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin chỉ ra quy luật chung của
lịch sử loài người là tiến lên CNXH, đồng thời cũng nhấn mạnh tính đặc thù
của nhận thức về chủ nghĩa xã hội:
Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không
tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội
44
không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc
điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân
chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ
này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
mặt khác nhau của đời sống xã hội [53, tr.160].
Như vậy, V.I. Lênin đã chỉ ra quy luật chung của lịch sử nhân loại là các
quốc gia sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, V.I. Lênin cũng nhấn mạnh
rằng, mỗi quốc gia, trên cơ sở đặc điểm dân tộc mình, sẽ có những cách thức,
biện pháp đi lên chủ nghĩa xã hội khác nhau, tạo lên sự đa dạng của các mô
hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Các quốc gia khi đi lên chủ nghĩa
xã hội cần phải áp dụng linh hoạt những nguyên lý có tính phổ biến như: xây
dựng chuyên chính vô sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa… Đồng thời, dựa
trên đặc điểm dân tộc mà có các hình thức chế độ dân chủ hay loại hình chuyên
chính vô sản khác nhau. Tránh việc dập khuôn máy móc, áp dụng nguyên mô
hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước này cho nước khác, bởi
điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
Hai là, trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, các
đảng cộng sản không chỉ vận dụng sáng tạo mà còn phải bổ sung, phát triển
chủ nghĩa Mác phù hợp với điều kiện đặc thù để tìm con đường phát triển phù
hợp cho dân tộc mình
Trong tác phẩm Cương lĩnh của chúng ta, khi bàn về công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin chỉ rõ, cần phải sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới và khi vận dụng chủ nghĩa Mác cũng
phát xét kỹ đến điều kiện cụ thể của từng quốc gia, Người viết:
Những người cộng sản chủ nghĩa ở Nga đặc biệt phải cần tự mình
phát triển hơn nữa những lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra
những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý
45
ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không
giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga [52, tr.232].
Sau Cách mạng Tháng Mười, đặc biệt từ mùa xuân năm 1918, khi bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, với muôn vàn khó khăn, thách
thức của công cuộc kiến tạo vĩ đại, nhiệm vụ đặt ra là phải tìm ra con đường
riêng cho sự phát triển của Nga, V.I. Lênin đã kêu gọi toàn đảng: “Chúng ta
cần nghiên cứu những đặc điểm của đoạn đường mới vô cùng gay go đang dẫn
tới chủ nghĩa xã hội” [54, tr.219], ông cũng chỉ rõ thêm: “cần phải xem xét
những điều kiện đặc thù của cách mạng Nga, con đường phát triển đặc thù của
nó” [55, tr.323].
V.I. Lênin đã dành nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu về “con
đường phát triển đặc thù”, đồng thời, ông cũng luôn nhấn mạnh, phải luôn kết
hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa
xã hội:
… nhiệm vụ của những người cộng sản là phải biết áp dụng những
nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa cộng sản vào đặc điểm
của những mối quan hệ giữa các giai cấp và các đảng, vào đặc điểm
của sự phát triển khách quan hướng tới chủ nghĩa cộng sản, những
đặc điểm riêng của mỗi nước, mà chúng ta phải biết nghiên cứu, phát
hiện và dự đoán [57, tr.93].
Khi bàn về tính phố biến và tính đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã
hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng phê phán hai quan điểm
có xu hướng trái ngược nhau: Một là, tuyệt đối hóa tính phổ biến, không tính
đến những yếu tố đặc thù của các dân tộc, coi quy luật đặc thù chỉ là biểu hiện
của quy luật phổ biến (những người giáo điều). Hai là, chỉ tập trung vào quy
luật đặc thù mà coi nhẹ những quy luật mang tính phổ biến (những người theo
chủ nghĩa xét lại).
46
2.3. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ
TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ TRƯỚC
CẢI CÁCH, CẢI TỔ, ĐỔI MỚI
2.3.1. Bối cảnh tác động đến nhận thức về tính phổ biến và tính đặc
thù của chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới
Thứ nhất, sự ra đời của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa -
nhân tố quyết định nhất đối với sự hình thành tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, nhà nước xã hội chủ nghĩa
Xô viết ra đời là một dấu mốc quan trọng đưa CNXH từ lý luận trở thành thực
tiễn. Đồng thời, mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của nhân loại -
“thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới”. Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới phát triển mạng mẽ, tiến công vào dinh lũy của chủ nghĩa thực
dân, đế quốc. Đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945, nhiều quốc
gia trên thế giới sau khi giành được độc lập đã lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Từ đây, chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống trên thế giới.
Tính từ năm 1945 đến năm 1991, ở châu Âu có 9 quốc gia đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, đó là: Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xôviết
(Liên Xô), Cộng hòa Dân chủ Đức, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, Cộng hòa
Nhân dân Hunggari, Cộng hòa Nhân dân Bungari, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Rumani, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, Cộng hòa Nhân dân Anbani,
Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Ở châu Á, có các nước xã hội
chủ nghĩa: Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Ở châu Mỹ, có một nước xã hội chủ
nghĩa là Cộng hòa Cuba. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa chiếm
30,7% diện tích và 34,4% dân số thế giới.
47
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa trên thế giới chính là “mảnh đất hiện thực” quan trọng nhất, trực tiếp
để các đảng cộng sản vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời, tổng kết, phát triển và sáng
tạo lý luận, từ đó hình thành nên những mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, là
cơ sở để khái quát tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã
hội trên thế giới.
Thứ hai, vai trò và ảnh hưởng của Liên Xô đối với nhận thức về tính phổ
biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội trên thế giới
Khi bàn đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ,
đổi mới, không thể không nhắc đến vai trò và ảnh hưởng của Liên Xô với tư
cách là một nước tiên phong, là nước có ảnh hưởng to lớn trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
Xét về mặt lịch sử, Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp
vĩ đại nhưng cũng vô cùng khó khăn, phức tạp và chưa hề có tiền lệ trong lịch
sử. Vì vậy, với tư cách là một nước đi tiên phong, Liên Xô đã rất chủ động
trong việc vận dụng những vấn đề có tính phổ biến và đặc thù của chủ nghĩa xã
hội mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra trong xây dựng mô hình xã hội mới.
Thực tiễn cho thấy, sau khi áp dụng mô hình này vào hiện thực, sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã thu
được những thành tựu hết sức rực rỡ trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng…, đưa Liên Xô trở thành siêu cường trên thế giới.
Liên Xô trở thành trụ cột của hòa bình, giúp đỡ nhiều nước xã hội chủ nghĩa
anh em, giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc trên tinh thần quốc tế cộng sản.
Những thành tựu rực rỡ mà Liên Xô đã đạt được và tính ưu việt của chế độ xã
hội mới đã tạo ra sức cổ vũ to lớn và niềm tin của các nước vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Mô hình, tri thức, kinh nghiệm của Liên Xô
48
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trở nên có ý nghĩa và ảnh hưởng rất quan
trọng đối với nhận thức về chủ nghĩa xã hội của các nước trong hệ thống.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự ảnh hưởng của Liên Xô đối với các nước xã
hội chủ nghĩa cũng diễn ra theo hai chiều hướng: thứ nhất, các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhận thức rõ những thành tựu rực rỡ mà
Liên Xô đã đạt được, đã tự nguyện học tập, mô phỏng theo mô hình Xô viết,
tiếp thu những giá trị tiến bộ của mô hình này trong xây dựng mô hình ở quốc
gia mình; thứ hai, trong thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới cũng đã xuất
hiện một khuynh hướng áp đặt mô hình Xô viết đối với các nước khác, coi đó
là mô hình mẫu mực mà các nước khác phải noi theo. Những sự sáng tạo khác
mô hình Xô viết đều bị cho là xa rời chủ nghĩa Mác, là rơi vào chủ nghĩa xét
lại. Điều này, trên thực tế, đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở nhiều
nước trở lên máy móc, giáo điều, xơ cứng, xa rời những nguyên lý và thiếu tính
sáng tạo.
Thứ ba, vai trò của Quốc tế Cộng sản và các tổ chức quốc tế của các
đảng cộng sản với việc hình thành tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức
về chủ nghĩa xã hội trên thế giới
Những thập niên đầu thế kỷ XX, các đảng cộng sản và công nhân quốc
tế tham gia Quốc tế thứ hai có sự phân liệt, chia rẽ sâu sắc. Trong bối cảnh đó,
Lênin và Đảng Bônsêvích đã thúc đẩy quá trình tập hợp các lực lượng cách
mạng vô sản chân chính để tiến tới thành lập một tổ chức mới có tính chất quốc
tế của giai cấp vô sản. Tháng 3 - 1919, Quốc tế Cộng sản (hay Quốc tế ba) đã
ra đời với tư cách là tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân ở các nước xã hội
chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa, phụ thuộc. Trong suốt quá
trình tồn tại và phát triển (3/1919 - 5/1943), Quốc tế Cộng sản đã đóng vai trò
rất quan trọng trong việc tập hợp lực lượng cách mạng chân chính, phổ biến
chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
49
học vào phong trào công nhân, cổ vũ tinh thần đấu tranh của công nhân và các
dân tộc bị áp bức, góp phần quan trọng trong việc ra đời các đảng cộng sản ở
các nước; định hướng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đi theo
mục tiêu cao cả là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Sau khi Quốc tế Cộng sản giải thể (5-1943), Đảng Cộng sản Liên Xô có
sáng kiến thành lập tổ chức mới của các đảng cộng sản. Tháng 9-1947, Cục
Thông tin quốc tế (KOMINFORM) ra đời. Trong quá trình hoạt động (9/1947 -
4/1956), tổ chức này đã tiếp tục góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển của phong trào công nhân quốc tế, đoàn kết của các đảng cộng sản,
góp phần tác động đến sự trưởng thành về chính trị, tư tưởng, tổ chức của các
đảng cộng sản. Trong những năm 1957, 1960, 1969, KOMINFORM đã tổ chức
các Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đã góp phần
quan trọng trong việc tập hợp lực lượng cách mạng, thống nhất nhận thức
chung của các nước xã hội chủ nghĩa về những vấn đề có tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội, làm cơ sở cho các nước trong quá trình xây dựng đường lối cách
mạng, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, cục diện thế giới hai cực, chiến tranh lạnh kéo dài ảnh hưởng
đến nhận thức về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã
hội trên thế giới
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ và Liên Xô nổi lên với
vai trò là những siêu cường thế giới. Trật tự thế giới hai cực dần được hình
thành, Mỹ là siêu cường đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa, Liên Xô là siêu cường
đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa. Do sự khác nhau về ý thức hệ, về sự ảnh hưởng
trên thế giới… những xung đột giữa hai phe đã diễn ra căng thẳng, nhất là về
chính trị và quân sự. Từ năm 1947, một giai đoạn lịch sử được biết đến với tên
gọi “Chiến tranh lạnh” trên thế giới bắt đầu và kéo dài đến năm 1991. Chiến
tranh lạnh có tác động toàn diện đến các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội cả các nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
50
Riêng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện chiến tranh
lạnh kéo dài, với cuộc đấu tranh ý thức hệ gay gắt, các nước xã hội chủ nghĩa
đều áp dụng phổ biến những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội, coi mô hình Xô
viết là mô hình chuẩn mực mà các nước cần noi theo, không chấp nhận những
gì thuộc về chủ nghĩa tư bản, kể cả những thành tựu nhân loại đạt được dưới
chủ nghĩa tư bản, đồng nghĩa kinh tế thị trường với con đường phát triển tư
bản chủ nghĩa… Những sáng tạo, lý luận mới đã không được chấp nhận; các
nước xã hội chủ nghĩa đều chỉ tập trung phát triển hai thành phần kinh tế là
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, phủ nhận kinh tế thị trường, kinh tế tư
nhân, hạn chế sản xuất nhỏ; những hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân
sự, ngoại giao chủ yếu chỉ diễn ra giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, nỗ lực của các nước xã hội chủ nghĩa trong việc tìm kiếm mô
hình phù hợp với quốc gia, dân tộc mình
Ngoài sự tác động của bối cảnh quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa
cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc tìm kiếm mô hình phù hợp với quốc gia,
dân tộc mình. Nhiều đảng cộng sản đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đất nước, phù hợp với yêu cầu của cách
mạng, tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển lý luận làm phong
phú thêm kho tàng tư tưởng xã hội chủ nghĩa; nhiều nhà tư tưởng, lý luận
cũng đã xuất hiện ở các nước với những quan điểm và hệ thống lý luận thể
hiện sự vận dụng sáng tạo những quy luật phổ biến, đặc thù ở quốc gia mình.
Điều này phản ánh sự nỗ lực và mong muốn chính đáng của mỗi nước xã hội
chủ nghĩa trong việc tìm kiếm một con đường phát triển riêng, phù hợp để
đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.3.2. Tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước
cải cách, cải tổ, đổi mới
Trên lĩnh vực chính trị, các nước xã hội chủ nghĩa đều khẳng định vai
trò lãnh đạo của đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân đối
51
với Nhà nước và xã hội. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng từ đó xây dựng đường lối, cương lĩnh cách mạng; xây dựng và hoàn
thiện nhà nước chuyên chính vô sản, trên nền tảng liên minh giữa giai cấp
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, Nhà nước
chuyên chính vô sản thực hiện chức năng tổ chức xây dựng và bạo lực trấn
áp. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và mở rộng và phát huy dân chủ
trong nhân dân…
Trên lĩnh vực kinh tế, khi bước vào xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ
nghĩa, các nước đều vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội
khoa học, xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,
xây dựng nền kinh tế có kế hoạch, quản lý của nhà nước, cải tạo nông nghiệp,
thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ phân phối theo
lao động…
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện
cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, tập trung xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, coi trọng công tác giáo dục nhất là đào
tạo đội ngũ trí thức trung thành với sự nghiệp cách mạng; thực hiện tốt các
chính sách xã hội; thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, xây dựng tinh thần
đoàn kết trên cơ sở tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân
Như vậy, trong thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới, các nước xã hội
chủ nghĩa đều quán triệt và vận dụng những nguyên lý cơ bản mà chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chỉ ra vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi nước từ
đó hình thành nên những vấn đề có tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội. Năm
1957, Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế họp ở
Mátxcơva đã ra tuyên bố trong đó khái quát 09 quy luật phổ biến của chủ nghĩa
xã hội trên thế giới, đó là:
52
Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà hạt nhân là Đảng mácxít-
lêninnít đối với quần chúng lao động trong sự tiến hành cuộc cách
mạng vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác, và trong sự kiến
lập nền chuyên chính vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác;
sự liên minh của giai cấp công nhân với quần chúng cơ bản trong
nông dân và các tầng lớp lao động khác; sự thủ tiêu chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa và kiến lập chế độ sở hữu công cộng về những tư liệu
sản xuất cơ bản; sự cải tạo dần dần nền nông nghiệp theo chủ nghĩa
xã hội; sự phát triển nền kinh tế nhân dân một cách có kế hoạch,
hướng vào chỗ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản,
vào chỗ nâng cao mức sống của những người lao động; thực hiện
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá,
đào tạo một tầng lớp trí thức đông đảo trung thành với giai cấp công
nhân, với nhân dân lao động, với sự nghiệp xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ
sự áp bức dân tộc và xây dựng sự bình đẳng và tình hữu nghị anh em
giữa các dân tộc; bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội
chống sự phá hoại của các kẻ thù bên ngoài và bên trong; sự đoàn kết
của giai cấp công nhân nước này với giai cấp công nhân tất cả các
nước khác, tức là chủ nghĩa quốc tế vô sản [27, tr.23-24].
Thực chất, Tuyên bố của Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công
nhân các nước xã hội chủ nghĩa đó mang tính chất của một Tuyên ngôn, đúc kết
những điều phổ biến mà tất cả các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
tuân theo. Việc áp dụng những vấn đề có tính phổ biến ở các nước XHCN đã
giúp các nước xã hội chủ nghĩa tránh được tình trạng mò mẫm, định hướng
chung cho các nước trong quá trình xây dựng cương lĩnh, đường lối cách mạng
của mình.
Việc vận dụng những quy luật phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa đã
giúp các nước thu được những thành tựu rất quan trọng:
53
Trên lĩnh vực chính trị: hệ thống chuyên chính vô sản từng bước được
hoàn thiện, trong đó, trung tâm là nhà nước XHCN, để thông qua nhà nước đó,
đảng thực hiện vai trò lãnh đạo và cũng thông qua nhà nước nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngay từ khi mới ra đời đã
thể hiện rõ tính ưu việt, đó là giải phóng nhân dân, đưa nhân dân lao động từ
địa vị bị thống trị trở thành người làm chủ xã hội mới, để mỗi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và tốt đẹp hơn.
Trên lĩnh vực kinh tế, mặc dù hầu hết các nước XHCN khi bước vào thời
kỳ quá độ đều ở trình độ thấp nhưng tính đến năm 1970, chỉ riêng các nước xã
hội chủ nghĩa ở châu Âu đã chiếm 40% sản lượng công nghiệp thế giới, 1/3 giá
trị xuất khẩu toàn thế giới; có 4 nước được xếp trong số 20 nước phát triển của
thế giới là: Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, trong đó Liên
Xô đã vươn lên trở thành một trong hai siêu cường của thế giới (Liên Xô -
Mỹ). Từ năm 1950 đến 1980, các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa tăng 13
lần tiềm lực kinh tế; 14 lần tổng sản lượng công nghiệp và 30% tổng sản phẩm
toàn cầu hằng năm.
Trên lĩnh vực xã hội, tất cả các nước XHCN đều thực hiện tốt chính sách
xã hội - chính sách vì con người mà trước hết là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Chính sách xã hội được thực hiện gồm: chính
sách lao động việc làm; chính sách giáo dục miễn phí; chính sách y tế khám
chữa bệnh miễn phí; nhà ở; chính sách với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ… đã
thể hiện bản chất ưu việt của CNXH. Thực hiện bình đẳng đoàn kết giữa các
dân tộc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã ủng hộ và góp phần to lớn vào thắng lợi
của cuộc đấu tranh chống đế quốc, giành độc lập của nhân dân các nước Á, Phi,
Mỹ Latinh, đồng thời, đóng góp lớn cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong thế kỷ XX.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong thời kỳ này,
công tác xây dựng Đảng ở nhiều nước còn nhiều hạn chế, bất cập
54
Trên lĩnh vực chính trị, nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin còn xơ
cứng, máy móc, giáo điều, đề cao tính phổ biến, coi nhẹ tính đặc thù dân tộc,
làm mất đi tính khoa học, tính sáng tạo vốn có của chủ nghĩa Mác - Lênin; vai
trò, phương thức lãnh đạo… của đảng cầm quyền chưa thực sự được quan tâm
làm rõ; chưa có sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của đảng và chức năng quản
lý của nhà nước, điều này dẫn đến đảng tiếm quyền, lạm quyền, làm thay, bao
biện công việc của nhà nước, những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới mà
nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ không được thực hiện nghiêm túc dẫn đến
tình trạng mất dân chủ trong đảng, tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái
tư tưởng trong cán bộ, đảng viên diễn ra với mức độ ngày càng trầm trọng ở
nhiều nước. Nhà nước chưa thực sự phát huy được vai trò của mình trong quản
lý xã hội và trong việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Tình trạng mất
dân chủ diễn ra ở nhiều đảng cộng sản trong thời gian dài dẫn đến mất dân chủ
ngoài xã hội…
Trên lĩnh vực kinh tế, nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất còn mang tính chủ quan, áp đặt, thiếu tôn trọng quy luật
khách quan, các nước xã hội chủ nghĩa đều nhấn mạnh đặc trưng công hữu về
tư liệu sản xuất với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, xóa bỏ
các thành phần kinh tế ngoài công hữu coi đó là nguyên tắc bất biến, bất chấp
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của chế độ công hữu
được coi là thước đo cho sự hoàn thiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện chế độ quản lý kế hoạch hóa tập trung cao độ trong thời gian dài,
phủ nhận kinh tế thị trường, gắn kinh tế thị trường với con đường phát triển tư
bản chủ nghĩa…
2.3.3. Tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước
cải cách, cải tổ, đổi mới
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, đa phần các nước đều tiếp thu
và nhận thức về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Liên Xô, xây dựng thể chế kinh
55
tế, chính trị tập trung cao độ. Mô hình này đã phát huy tác dụng không thể phủ
nhận trong việc lãnh đạo nhân dân đập tan những cuộc bạo loạn vũ trang phản
cách mạng, chống lại sự đe dọa can thiệp bằng vũ lực của các thế lực phản
động nước ngoài, củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, ổn định chính trị,
phát triển sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh… Tuy nhiên, những hạn
chế của mô hình này cũng nhanh chóng bộc lộ, đó là: quyền lực quá tập trung,
thể chế xơ cứng đã trói buộc tính chủ động, tích cực của các xí nghiệp; sự can
thiệp quá sâu của nhà nước vào kinh tế làm nảy sinh nhiều hiện tượng méo mó;
cơ chế quản lý nhà nước phình to, cồng kềnh, tệ quan liên phát triển…
Trước thực tế đó, nhiều nhà lãnh đạo của các nước ở các nước xã hội
chủ nghĩa như: Brốtgiơ Titô, Etuốt Cácđen của Nam Tư, Gômunca của Ba
Lan… đã sớm nhận thức rõ rằng, phải tìm ra mô hình riêng, bởi: “không có
mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội nào áp dụng vào đâu cũng đúng” [Dẫn theo
58, tr.177], “Ba Lan phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình
hình cụ thể của mình”… Nhiều nước cũng đã nghiên cứu, học tập chủ nghĩa
Mác, vận dụng những quy luật phổ biến kết hợp với đặc thù của từng quốc
gia để sáng tạo, tìm kiếm những mô hình riêng đưa đất nước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Từ cuối những năm 40, đầu những năm 50 thế kỷ XX, trên thế giới đã
xuất hiện những nhận thức, mô hình khác nhận thức và mô hình của Liên Xô,
điều này thể hiện rõ tính đặc thù, riêng có của các nước, tiêu biểu nhất là lý
luận tự quản xã hội chủ nghĩa của Nam Tư gồm: lý luận chính trị tự quản và
kinh tế tự quản xã hội chủ nghĩa.
Lý luận chính trị tự quản của Nam Tư bao gồm nhiều nội dung như: lý
luận về nhà nước và chuyên chính vô sản, lý luận về chính đảng và các tổ chức
chính trị xã hội, lý luận về thể chế chính trị dân chủ tự quản…
Trong Lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản, các nhà sáng lập chế
độ tự quản ở Nam Tư cho rằng, trong giai đoạn vừa mới giành được chính
quyền, không thể không thực hiện thể chế chính trị tập trung cao độ. Tuy nhiên,
56
sau khi kết thúc thời kỳ quản lý theo mô hình nhà nước tập trung trung ương,
khi lực lượng sản xuất phát triển thì phải thực hiện thể chế quản lý phân cấp và
quản lý xã hội đối với mọi ngành trong xã hội, dựa trên tiền đề công dân tham
gia rộng rãi vào quản lý xã hội, có đầy đủ quyền quản lý mọi công việc trong
xã hội, khiến cho nhà nước thống nhất với xã hội trên cơ sở dân chủ của nhân
dân, và đó là bước đầu cho sự tiêu vong của nhà nước và thay vào đó là chế độ
tự quản với các hình thức khác nhau của người lao động. Trong chế độ tự quản,
công dân sẽ liên hợp lại theo phương thức dân chủ để giải quyết những vấn đề
chung, chứ không áp dụng biện pháp cưỡng chế của nhà nước hoặc rất hạn chế
sử dụng những biện pháp đó. Nam Tư cho rằng, chế độ chính trị tự quản là
hình thức đặc thù của chuyên chính vô sản, nó không đồng nghĩa với chuyên
chính và bạo lực mà là một chế độ nhà nước, trong đó, những lợi ích trực tiếp
nhất và lâu dài của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động giữ vai
trò thống trị.
Trong Lý luận về đảng và các tổ chức chính trị xã hội, Nam Tư cho rằng,
trong thời kỳ đầu cách mạng, chính đảng vô sản phải nắm chính quyền trong tay,
nhưng về sau, khi chính quyền thực sự về tay nhân dân thì đảng cầm quyền
không nên hòa làm một với bộ máy quản lý nhà nước để tránh đẻ ra chủ nghĩa
quan liêu. Đảng Cộng sản Nam Tư đổi tên thành Liên đoàn Những người Cộng
sản Nam Tư, họ cho rằng, trên thực tế đây không phải là chính đảng mà là “thể
liên hợp của những người nhất trí về tư tưởng”, mục tiêu cuối cùng của họ là xây
dựng chủ nghĩa cộng sản. Liên đoàn Những người Cộng sản Nam Tư với tư cách
là bộ phận giác ngộ nhất trong quần chúng công nhân đấu tranh để nhà nước
không trở thành quan liêu, thoái hóa, biến chất, ngoài ra, họ không có bất kỳ đặc
quyền hay độc quyền chính trị, họ liên kết với các tổ chức chính trị khác và căn
cứ thực tiễn của Nam Tư để vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong Lý luận về thể chế chính trị dân chủ tự quản, Nam Tư cho rằng,
thể chế dân chủ tự quản là thể chế được xây dựng trên cơ sở chức năng nhà
nước dần tiêu vong, giao quyền quản lý xã hội cho chính những người trực tiếp
57
sản xuất ra của cải. Lý luận về thể chế chính trị dân chủ tự quản cũng yêu cầu
phải chấp hành kỷ luật, kỷ cương, pháp chế, tránh dân chủ vô tổ chức, dân chủ
cực đoan.
Lý luận về kinh tế tự quản xã hội chủ nghĩa của Nam Tư cũng bao gồm
nhiều nội dung như: lý luận về chế độ sở hữu xã hội, lý luận về tự quản và lao
động liên hợp, lý luận về kế hoạch và thị trường xã hội chủ nghĩa...
Trong Lý luận về chế độ sở hữu xã hội, Nam Tư cho rằng, chế độ sở hữu
nhà nước tập trung cao độ ở Liên Xô là hình thức thấp nhất của chế độ công
hữu, nó phù hợp với thời điểm sau khi giành chính quyền, nhưng đã không
khắc phục được tình trạng người công nhân không thực sự trở thành người chủ
thực sự của lao động. Để khắc phục hạn chế đó, cần thực hiện chế độ sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất - hình thức cao nhất của chế độ công hữu.
Trong Lý luận về tự quản và lao động liên hợp, Nam Tư cho rằng, việc
thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất sẽ xóa bỏ được mọi hình
thức độc quyền của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Khi đó, lao động của
những người sử dụng tư liệu sản xuất thực sự là cơ sở duy nhất để họ quản lý
tư liệu sản xuất, quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất và chiếm hữu thành
quả lao động.
Trong Lý luận về kế hoạch và thị trường xã hội chủ nghĩa, Nam Tư công
nhận quan hệ hàng hóa, tiền tệ trong chủ nghĩa xã hội, lấy kinh tế thị trường
làm tiền đề nhưng không phủ nhận vai trò của kế hoạch. Kế hoạch không
những không phủ định thị trường mà phải chỉ đạo thị trường. Những quan điểm
này của Nam Tư rất khác với quan niệm của Liên Xô cho rằng không có quan
hệ hàng hóa - tiền tệ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trên thế giới thời kỳ này cũng xuất hiện những tư tưởng thể hiện sự kết
hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù dân tộc, tiêu biểu như ở Việt Nam với
quy luật đặc thù về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; đặc thù trong giải
quyết mâu thuẫn ở một nước thuộc địa nửa phong kiến với mâu thuẫn dân tộc
58
được đặt lên hàng đầu; vấn đề công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở các nước
kinh tế chưa phát triển; tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng ở hai
miền, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN…
Những lý luận này thể hiện tính đặc thù, tìm tòi, sáng tạo và những
bước đi đầu tiên trong công cuộc cải cách chủ nghĩa xã hội. Những sáng tạo,
tìm kiếm cách đi riêng, mô hình riêng lẽ ra cần được đánh giá khách quan,
tổng kết và khích lệ. Tuy nhiên, trên thực tế, trong thời kỳ trước cải cách, đổi
mới, việc nhận thức về mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ
nghĩa xã hội còn nhiều bất cập. Đa số các nước trong hệ thống đều bị ảnh
hưởng của khuynh hướng tuyệt đối hóa quy luật phổ biến mà coi nhẹ quy luật
đặc thù. Điều này đã dẫn đến việc dập khuôn từ lý thuyết cơ bản cho đến biện
pháp, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nghị quốc tế lần thứ hai của
các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế (tháng 11-1960) đã khẳng định:
“Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, có ý nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ
phong trào cộng sản quốc tế” [108, tr.74]. Những cố gắng của bất kỳ cá nhân
hoặc quốc gia nào muốn tìm con đường đi riêng hoặc tìm quy luật riêng xuất
phát từ đặc thù của dân tộc mình đều bị phê phán là “chủ nghĩa xét lại”, bị coi
là chệch hướng…
Việc tuyệt đối hóa tính phổ biến, coi nhẹ tính đặc thù đã gây ra nhiều hệ
lụy đối với nhiều nước xã hội chủ nghĩa, nhiều cách làm cứng nhắc, hoàn toàn
áp dụng theo mô hình Xô viết dẫn đến không ít những việc sai lầm, chủ quan,
duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, những khác biệt về lịch sử và văn hoá;
thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ, chế độ phân phối theo lao động
mà thực chất là phân phối bình quân, đặc biệt là thiết lập chế độ sở hữu toàn
dân và tập thể, tiến hành việc cải tạo quan hệ sản xuất để thiết lập càng nhanh
càng tốt quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không chú trọng đến sự khác
biệt về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; xoá bỏ kinh tế thị trường để
59
sớm có chủ nghĩa xã hội, do đó, làm triệt tiêu động lực phát triển, nhiều nước
rơi vào trì trệ, tụt hậu.
Điều này đã dẫn đến những bất đồng ngày càng nghiêm trọng về quan
điểm, tư tưởng, đường lối, phương pháp cách mạng giữa các đảng cộng sản,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những năm 60 thế kỷ XX. Đã có
những tiếng nói phê phán đối với Đảng Cộng sản Liên Xô và mô hình Xô viết
từ phía Đảng Cộng sản Nhật Bản, từ một số đảng cộng sản ở các nước tư bản
châu Âu và phương Tây. Tuy nhiên, những phê phán này đã không được xem
xét và đối thoại một cách nghiêm túc khiến cho những bất đồng ngày càng
nghiêm trọng.
Ngay cả quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc, giữa hai Đảng Cộng sản
cầm quyền ở hai nước XHCN lớn nhất lúc bấy giờ cũng ngày càng xấu đi,
những bất đồng quan điểm giữa hai đảng dần trở thành những mâu thuẫn, xung
đột trong quan hệ và chính sách giữa hai nhà nước, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến vị thế, hình ảnh, uy tín, ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trong bản
thân các nước XHCN cũng như trong đời sống chính trị thế giới.
Việc hệ thống XHCN “khai trừ” Nam Tư ra khỏi hệ thống vào năm
1948; sự can thiệp của các thế lực thù địch vào Hunggari (1956), ở Tiệp
Khắc (1968), xung đột Xô - Trung vào những năm 60 của thế kỷ XX, có thể
được coi là những cuộc khủng hoảng cục bộ. Từ giữa những năm 1970,
trong hệ thống XHCN đã xuất hiện tình trạng trì trệ, tình trạng này chậm
được khắc phục, dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng trong hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa.
Trước thực tế đó, một số nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung
Quốc, Việt Nam đã bắt đầu tìm tòi để cải cách, cải tổ, đổi mới từ những năm 70
- 80 của thế kỷ XX. Trung Quốc là nước tiến hành cải cách sớm nhất, từ cuối
năm 1978, sau đó là cải tổ ở Liên Xô, Đông Âu, đổi mới ở Việt Nam, Lào vào
giữa thập niên 80 thế kỷ XX...
60
Một trong những điểm khởi đầu của cải tổ, cải cách, đổi mới là thay đổi
tư duy, nhận thức lại cho đúng về chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình này, bên
cạnh sự phê phán những tư tưởng trì trệ, bảo thủ trước đây, còn xuất hiện một
xu hướng mới và dần trở thành xu hướng chủ đạo, đó là “nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội”. Điều này được biểu hiện thông qua việc “tư duy mới về
chủ nghĩa xã hội” của Đảng Cộng sản Liên Xô; “giải phóng tư tưởng” của
Đảng Cộng sản Trung Quốc và “đổi mới tư duy” của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Dù tên gọi khác nhau, nhưng về mục đích thì đây là quá trình đấu tranh
loại bỏ những nhận thức sai lệch, lạc hậu, lỗi thời trong quan niệm về chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội, từ đó nhận thức lại một cách khoa học,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của mỗi nước.
Tuy nhiên, do nhận thức và những cách làm khác nhau, công cuộc cải
tổ ở Liên Xô và Đông Âu đã dần xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, xa rời
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và dẫn đến thất bại. Những mảng
lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dần đổ vỡ và sự kiện lớn nhất là sự thất
bại của Liên bang Xô Viết vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Trong bối cảnh đó, những nước XHCN còn lại như Việt Nam, Trung
Quốc, Lào, Cuba… tiếp tục kiên trì cải cách, đổi mới và không ngừng bổ
sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, từ đó hình thành nên những
“nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội”, đưa đất nước tiếp tục phát triển trên con
đường mà lịch sử và nhân dân đã lựa chọn.
61
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Tính phổ biến và tính đặc thù là những phạm trù triết học, thể hiện
những mối quan hệ khách quan của thế giới, cũng như trình độ nhận thức
những quan hệ ấy. Tính phổ biến là đặc tính chung của hầu hết hoặc tất cả các
sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực mà ta nghiên cứu; Tính đặc thù là những nét
đặc tính chung của một loại sự vật hoặc một nhóm nhỏ sự vật thuộc lĩnh vực
nói trên. Tính phổ biến và tính đặc thù có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chúng
tác động, chi phối và có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Chủ nghĩa xã hội là khái niệm được nhận thức theo nhiều nghĩa: chủ
nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn; là mơ ước, lý tưởng, khát vọng của
nhân dân lao động về một chế độ xã hội tốt đẹp không còn áp bức, bóc lột, bất
công…; là tư tưởng, lý luận, học thuyết về giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội, giải phóng con người; là một chế độ xã hội hiện thực trên thực tế. Trong
luận án, CNXH được hiểu với ý nghĩa là tưởng, lý luận, học thuyết và chế độ
xã hội hiện thực.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là những nhận thức về quy luật, bản
chất, đặc trưng, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất hiện trong thời kỳ
cải cách, đổi mới. Đó là những nhận thức đúng quy luật, trung thành với
những nguyên lý khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, có sự kết
hợp hài hòa giữa tính phổ biến và tính đặc thù, có giá trị hiện thực, phù hợp
với điều kiện, đặc điểm của mỗi quốc gia, phản ánh xu thế phát triển chung
của thời đại. Nhận thức mới về CNXH không phải là sự phủ định sạch trơn
những nhận thức trước đó mà là quá trình nhận thức mới toàn diện, đồng bộ,
có kế thừa, có phát triển.
Vận dụng những quan điểm duy vật biện chứng trong nghiên cứu xã hội,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những vấn đề có tính
phổ biến của CNXH, đó là những đặc trưng phản ánh bản chất của xã hội mới.
62
Đồng thời, các ông cũng chỉ rõ khi vận dụng những quy luật phổ biến phải căn
cứu vào đặc thù của từng quốc gia dân tộc.
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, CNXH từ lý luận trở thành
thực tiễn, những nguyên lý phổ biến và đặc thù của CNXH có điều kiện được
áp dụng trên mảnh đất hiện thực của Liên Xô. Đặc biệt, sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, CNXH trở thành một hệ thống trên thế giới, các nước đã vận
dụng những nguyên lý phổ biến trong xây dựng CNXH và đạt được những
thành tựu rực rỡ, thể hiện bản chất tốt đẹp của CNXH, là nguồn cổ vũ và động
viên to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân lao
động trên thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình nhận thức và xây
dựng xã hội mới, các nước XHCN cũng mắc phải không ít sai lầm, hạn chế
như: tuyệt đối hóa tính phổ biến, dập khuôn mô hình Xô viết, coi nhẹ tính đặc
thù… và điều đó đã dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng, làm cho CNXH hiện
thực suy yếu, khủng hoảng có tính hệ thống và thất bại.
Từ sự thất bại của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, các nước
XHCN khác tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước, mở ra một giai
đoạn phát triển mới của CNXH hiện thực.
63
Chương 3
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI
3.1. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG ĐẾN NHẬN THỨC MỚI VỀ TÍNH PHỔ BIẾN
VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI
Thứ nhất, sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu
Từ đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới có những biến đổi to lớn
và sâu sắc. Các nước tư bản chủ nghĩa đã thích ứng và sử dụng những thành
tựu của khoa học công nghệ để phát triển lực lượng sản xuất, đổi mới phương
thức quản lý, điều chỉnh các chính sách xã hội… nên đã vượt qua những khó
khăn và thu được những thành tựu quan trọng. Trong khi đó, các nước xã hội
chủ nghĩa lâm vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Để khắc phục khủng hoảng, nhiều nước đã tiến hành công cuộc cải
cách, cải tổ, đổi mới, nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và bước vào
giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan từ phía
các đảng cầm quyền với những sai lầm nghiêm trọng trong đường lối cải tổ,
kết hợp với những nguyên nhân khách quan từ sự chống phá của các thế lực
thù địch, nên cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ XX, chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Đây là một sự kiện làm thay đổi cục diện thế giới và tác động to lớn
đến hầu hết các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn
lại, nó đặt ra yêu cầu bắt buộc với các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước
xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đổi mới, nhận thức lại và
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, tôn trọng quy luật khách quan, loại bỏ
những nhận thức sai lầm, xơ cứng, lạc hậu, không còn phù hợp; phát huy
những nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo những quy luật phổ biến kết hợp
64
với yếu tố đặc thù; bổ sung, phát triển những nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội; xây dựng những mô hình phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức
Công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa diễn ra trong
bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều thay đổi: cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, kinh tế tri thức, phát triển vô cùng mạnh mẽ, sự bùng nổ công nghệ
thông tin đã và đang tác động sâu sắc đến tất cả các quốc gia, dân tộc, khoa học
công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm tăng nhanh lực lượng sản
xuất xã hội. Những thành tựu của khoa học và công nghệ ngày càng nhiều về
số lượng, đa dạng về loại hình, rộng lớn về các lĩnh vực ứng dụng đã và đang
tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những điều kiện và
cơ hội cho những quốc gia biết nắm bắt và vận dụng khoa học và công nghệ có
thể phát triển nhanh chóng hoặc có thể “đi tắt đón đầu”; nó thúc đẩy những yếu
tố mới của văn minh và tiến bộ xã hội, làm thay đổi những quan niệm trong cấu
trúc xã hội, quản lý và phát triển xã hội. Trong bối cảnh đó, các nước xã hội
chủ nghĩa phải nhận thức rõ về vai trò của khoa học công nghệ, nhất là cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, với sự phát triển của lực lượng sản xuất, để từ đó có những chính
sách phù hợp, khai thác và phát triển khoa học và công nghệ trong nước, tạo
tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững của quốc gia mình.
Thứ ba, xu hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên thế giới đã thúc đẩy
xu thế toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng và lôi cuốn các quốc gia, dân tộc tham
gia. Toàn cầu hóa có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hợp tác, trao đổi,
buôn bán, giao lưu giữa các quốc gia, các nền văn minh, tạo cho các quốc gia
khai thác được thế mạnh của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu… Tuy nhiên,
toàn cầu hóa cũng tồn tại không ít mặt trái, đó là sự chi phối của các nước lớn,
các nước tư bản phát triển đối với các nước nhỏ, các nước chậm phát triển; là
65
sự xói mòn những giá trị văn hóa, thách thúc chủ quyền quốc gia dân tộc, làm
cho những xung đột lợi ích ở nhiều khu vực trên thế giới diễn ra gay gắt…
Khi bước vào công cuộc cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa
đã nhận thức rõ phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa một cách chủ động,
tích cực. Qua đó, thay đổi nhận thức, từ phát triển nền kinh tế thị trường, đến
cải cách hành chính, điều chỉnh hệ thống luật pháp, mở rộng giao lưu, hợp tác
cả với các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Quá trình hội nhập
quốc tế vừa tạo ra những điều kiện, cơ hội cho các nước xã hội chủ nghĩa phát
triển, mặt khác cũng tạo ra không ít khó khăn, thách thức, đó là quá trình vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, khai thác những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu
cực để thực hiện mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, xu thế chung và những diễn biến phức tạp, khôn lường của tình
hình thế giới
Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp
tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là các
nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, tạo ra thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến
phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp
lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố,
chiến tranh cục bộ… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực
Cục diện thế giới thay đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra
nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh,
thỏa hiệp, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới
và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ
quốc tế…
66
Các vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch
bệnh… diễn biến ngày càng phức tạp. Các thách thức an ninh phi truyền thống
ngày càng lớn, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp
tục là trung tâm phát triển năng động. Đồng thời, đây là khu vực cạnh tranh chiến
lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền
biển, đảo trong khu vực và Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp…
Sự thay đổi nhanh chóng và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới
khiến các nước xã hội chủ nghĩa phải tăng cường công tác dự báo, kịp thời ứng
phó với những biến đổi mau lẹ của tình hình khu vực và thế giới; linh hoạt trong
cách thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường hợp tác với các
nước, thể hiện rõ trách nhiệm trong việc cùng giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Thứ năm, sự xuất hiện mô hình xã hội mới có tính chất xã hội chủ nghĩa
Sau sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu, không chỉ các nước xã hội chủ nghĩa phải tiến hành cải cách, đổi mới để
tìm ra con đường phát triển phù hợp, mà cả các nước tư bản cũng đã có sự
điều chỉnh, thay đổi mạnh mẽ để giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong
lòng CNTB. Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn đó, đã có sự thay đổi có
tính chất cách mạng, với xu hướng vượt ra khỏi khuôn khổ của CNTB, hình
thành nên mô hình mới có tích chất xã hội chủ nghĩa, trong đó, điển hình là sự
hình thành, phát triển của “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh.
Sự xuất hiện của “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” không phải là một
phong trào đấu tranh đơn thuần trong khuôn khổ CNTB mà xét về thực chất,
đó là phương án thay thế cho mô hình TBCN đã tồn tại lâu dài ở Mỹ Latinh
mà đến nay không còn phù hợp, bộc lộ nhiều hạn chế và khủng hoảng. Thực
tiễn đòi hỏi phải có một mô hình mới, cách thức tổ chức, vận hành xã hội mới
tiến bộ hơn và theo quy luật sẽ phải tiến lên một xã hội cao hơn.
“Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh không giống với mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trước đây, cũng không sao chép với các mô hình
67
hiện nay mà là một mô hình mới, hướng tới những giá trị tiến bộ, ưu việt của
CNXH, kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến của CNXH và tính đặc thù của Mỹ
Latinh. Theo Tổng thống Vênêxuêla, ông Hugo Chavez, người khởi xướng
mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”: “Chúng ta không sao chép mô hình
các nước khác, thời đại khác. Chúng ta cần có năng lực và khả năng sáng tạo
để đưa ra mô hình riêng của mình, một mô hình hợp với thực tế, điều kiện lịch
sử và truyền thống của mình…” [Dẫn theo 74, tr.29].
Cùng với sự xuất hiện “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh,
trên thế giới hiện nay còn những mô hình có tính chất XHCN như mô hình xã
hội dân chủ ở Bắc Âu, các kibbutz ở Israel.
Sự xuất hiện, tồn tại của mô hình có tính chất xã hội chủ nghĩa, một
mặt, góp phần củng cố niềm tin, khẳng định sức sống, giá trị bền vững chủ
nghĩa xã hội, nhất là trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang trong
giai đoạn khủng hoảng, thoái trào như hiện nay. Mặt khác, với sự đa dạng của
các mô hình phát triển sẽ giúp các nước XHCN có thêm tri thức, kinh nghiệm,
cách thức, biện pháp mới để nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ sáu, sự nỗ lực, kiên trì, sáng tạo của các nước xã hội chủ nghĩa
trong việc xây dựng mô hình phát triển phù hợp với quốc gia mình
Khi bước vào cải tổ, cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đều
trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát tăng rất
cao, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Đất nước thống nhất nhưng chiến
tranh vẫn diễn ra ở một số nước. Các nước đế quốc tiếp tục thực hiện bao vây,
cấm vận đối với Việt Nam, Cuba.
Trước muôn vàn khó khăn và thách thức, các nước xã hội chủ nghĩa
Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba... tiếp tục kiên trì với con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng đất nước, không ngừng tổng
kết thực tiễn, phát triển lý luận và đã hình thành những nhận thức, mô hình mới
về chủ nghĩa xã hội như: mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, chủ
nghĩa xã hội Việt Nam, chủ nghĩa xã hội Lào, chủ nghĩa xã hội Cuba…
68
Công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước từng bước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân,
củng cố vững chắc an ninh quốc phòng, mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng
cao vị thế trên trường quốc tế. Những thành tựu đó góp phần củng cố niềm tin
của nhân dân trong nước và thế giới vào tương lai của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa cũng phải đối mặt với
những vấn đề hết sức khó khăn, thách thức, đó là nền kinh tế tăng trưởng
chậm lại và thiếu bền vững, thu nhập bình quân đầu người còn thấp và nguy
cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa;
nguy cơ tụt hậu xa hơn với các nước trong khu vực và trên thế giới; tình trạng
tham ô, tham nhũng, lãng phí, vấn đề diễn biến hòa bình và tự diễn biến; sự
cạnh tranh khốc liệt trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, sự chống
phá của các thế lực thù địch…
Tình hình thế giới và trong nước nêu trên tạo ra cả những thuận lợi và
thách thức đan xen; đặt ra nhiều yêu cầu mới to lớn hơn, khó khăn, phức tạp
hơn đối với các nước xã hội chủ nghĩa, thôi thúc các nước tiếp tục tiếp tục giữ
vững mục tiêu, đẩy mạnh cải cách, đổi mới, đưa đất nước vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
3.2. TÍNH PHỔ BIẾN CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI
3.2.1. Tính phổ biến của nhận thức mới trong lĩnh vực chính trị
3.2.1.1. Tính phổ biến của nhận thức mới về đảng cộng sản
Thứ nhất, các nước xã hội chủ nghĩa đều kiên định nguyên tắc chung về
vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, tập trung làm sâu sắc hơn lý luận về
đảng cầm quyền và phân định rõ vai trò lãnh đạo của đảng với chức năng
quản lý của nhà nước
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của đảng cộng sản
với sự nghiệp cách mạng; từ thực tiễn lịch sử khi đảng cộng sản ra đời; từ
69
những bài học thành công, thất bại của CNXH hiện thực trên thế giới; từ yêu
cầu của quá trình cải cách, đổi mới…, các nước XHCN trong quá trình cải
cách, đổi mới đều nhận thức và khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của đảng cộng
sản là một trong những vấn đề có tính “nguyên tắc” của sự nghiệp cách mạng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định “Phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc là hạt nhân lãnh đạo của sự nghiệp xã hội chủ
nghĩa đặc sắc Trung Quốc” [20, tr.33]. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”
[25, tr.88], “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam” [25, tr.66]. Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào khẳng định: “sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định mọi thành công
của sự nghiệp cách mạng ở Lào” [30, tr.32]. Đảng Cộng sản Cuba khẳng định:
“Đảng Cộng sản Cuba là lực lượng lãnh đạo tối cao của xã hội, của Nhà nước,
là thành quả chân chính của cách mạng, đồng thời là lực lượng tiên phong có tổ
chức, cùng nhân dân bảo đảm sự kế thừa lịch sử” [Dẫn theo 41, tr.29]. Các
nước đều cho rằng, nếu xa rời sự lãnh đạo của Đảng cách mạng tất yếu dẫn tới
thất bại.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trong cải cách, đổi mới,
các nước xã hội chủ nghĩa đều tập trung làm sâu sắc hơn lý luận về đảng cầm
quyền, phân định rõ vai trò lãnh đạo của đảng với chức năng quản lý của nhà
nước nhằm khắc phục những hạn chế, bảo đảm cho đảng vươn lên, hoàn
thành sứ mệnh lãnh đạo của mình.
Ở Trung Quốc, trước những yêu cầu của quá trình cải cách, Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã có những thay đổi quan trọng trong việc xác định
mục tiêu, phương thức cầm quyền, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa
Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Về mục tiêu cầm quyền, Đảng Cộng sản
Trung Quốc xác định: “cầm quyền vì dân” [20, tr.33] và phải “dựa vào dân
mà cầm quyền”; Về phương thức cầm quyền, Đảng Cộng sản Trung Quốc
xác định rõ, phải “cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo
70
pháp luật” [20, tr.34]. Cầm quyền khoa học là trên cơ sở nắm bắt quy luật
khách quan, dùng tư tưởng khoa học, chế độ khoa học, phương pháp khoa
học để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc;
Cầm quyền dân chủ là kiên trì cầm quyền vì dân, cầm quyền dựa vào dân,
ủng hộ và đảm bảo cho nhân dân làm chủ; cần phát huy chức năng chỉnh đốn
xã hội, tôn trọng lợi ích của đa số nhân dân, dùng phương thức dân chủ để
điều hòa lợi ích các bên trong xã hội tạo dựng cục diện xã hội phát triển
đồng đều…; Đảng cầm quyền theo pháp luật là thay đổi phương thức từ
“chủ yếu dựa vào chính sách và dùng biện pháp hành chính, mệnh lệnh hành
chính để lãnh đạo, quản lý công việc đất nước như trước kia, chuyển sang
chủ yếu dựa vào biện pháp pháp luật, dựa vào trình tự pháp luật để quản lý
công việc của đất nước.
Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng phân định rõ hơn giữa đảng lãnh đạo
và nhà nước quản lý, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kiện
toàn chế độ tổ chức cơ quan quyền lực nhà nước, thúc đẩy toàn diện quản lý
nhà nước bằng pháp luật…
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới
đã từng bước làm rõ hơn lý luận về đảng cầm quyền, về mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Về phương thức lãnh
đạo, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội” (bổ sung, phát triển 2011), Đảng ta chỉ rõ:
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của
đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ… Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên
hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường trách
nhiệm của cá nhân, nhất là người đứng đầu [22, tr.88-89].
71
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý cũng từng bước
được Đảng ta làm rõ: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận
của hệ thống ấy; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Mặt khác, cần khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước; Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; Đổi mới phong
cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến cơ
sở; Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện,
kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng; Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý
về thủ tục…
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã
từng bước có sự thay đổi quan trọng trong nhận thức về mục tiêu và phương
thức cầm quyền của Đảng. Về mục tiêu cầm quyền, Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào xác định: Đảng “cầm quyền vì nhân dân, vì thịnh vượng của đất
nước” [31, tr.6]. Về phương thức cầm quyền: “tăng cường phương thức lãnh
đạo sâu sát với thực tiễn, có tính khoa học, có tính dân chủ” [31, tr.7].
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng nhận thức rõ cần tách biệt giữa
vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước, tập trung
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thay đổi phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Ở Cuba, trong những năm gần đây, đặc biệt là từ Đại hội VI của Đảng,
Đảng Cộng sản Cuba đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về
phương thức cầm quyền với yêu cầu khách quan, khoa học. Hội nghị toàn
quốc lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Cuba (khóa VI) chỉ rõ: Điều quan trọng
72
nhất trong đời sống chính trị của Đảng hiện nay là phải thay đổi tư duy, kiên
quyết loại bỏ chủ nghĩa giáo điều và các quan điểm lỗi thời.
Về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, Đảng Cộng sản Cuba chỉ rõ:
Đảng chỉ nên tập trung vào những nhiệm vụ chính trị của mình, theo nguyên
tắc là Đảng lãnh đạo và kiểm tra, chứ không phải là quản lý; cần chú trọng
nhiều hơn vào công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với các đối tượng xã
hội khác nhau.
Thứ hai, các nước xã hội chủ nghĩa đều khẳng định lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của đảng. Đồng
thời, nhận thức một cách khoa học, khách quan hơn về chủ nghĩa Mác -
Lênin; bổ sung, phát triển lý luận nền tảng tư tưởng của đảng cho phù hợp
với bối cảnh mới
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đều nhận
thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với sự nghiệp
cách mạng, khẳng định những giá trị bền vững, tính khoa học, cách mạng và
sức sống mạnh mẽ của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Trung Quốc
cũng luôn khẳng định “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin… làm kim chỉ nam cho hành
động của mình” [20, tr.105], Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nêu rõ:
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ quy luật phát triển của lịch sử loài
người, nguyên lý cơ bản của nó là đúng đắn, có sức sống mạnh mẽ.
Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lý tưởng cao nhất mà những người
cộng sản Trung Quốc theo đuổi chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở
xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển đầy đủ và phát triển cao độ… Kiên
trì nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đi con đường mà
toàn thể nhân dân Trung Quốc đã tự nguyện lựa chọn, phù hợp với
tình hình Trung Quốc, sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc
nhất định sẽ giành thắng lợi [20, tr.106].
73
Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới cũng luôn
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên
tắc cơ bản” [25, tr.88], “trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì
và thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” [25, tr.315]. Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, Đảng Cộng sản Cuba cũng khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là nền
tảng tư tưởng, kim chủ nam cho hành động của Đảng.
Cùng với việc khẳng định vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với sự
nghiệp cách mạng, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa
đã nhận thức khoa học và khách quan hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng
định tính đúng đắn và giá trị bền vững của các quy luật được chủ nghĩa Mác -
Lênin nêu ra, đồng thời, cũng chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục bổ sung, phát
triển cho phù hợp với bối cảnh trong nước và thời đại hiện nay; những vấn đề
đã bị lịch sử vượt qua. Các đảng cộng sản cũng chỉ rõ, cần vận dụng sáng tạo,
căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng quốc gia và thời đại mà vận
dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp, tránh những tư
tưởng chủ quan, duy ý chí, xơ cứng, giáo điều… khi nhận thức và vận dụng
học thuyết này.
Các đảng cộng sản đều có sự bổ sung những tư tưởng, lý luận mới làm
phong phú thêm nền tảng tư tưởng của đảng. Những tư tưởng, lý luận mới này
là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện của mỗi quốc gia; là sự tổng kết thực tiễn cải cách, đổi mới; là sự
tìm tòi, nghiên cứu lý luận nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.
Việc bổ sung những tư tưởng, lý luận mới làm phong phú thêm nền
tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề có tính phổ biến, tuy nhiên, mỗi quốc gia lại
có những tư tưởng, lý luận của riêng mình, đây lại là một vấn đề mang tính
đặc thù ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa hiện nay.
74
Thứ ba, các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa đều nhận thức
rõ về tầm quan trọng của công tác xây dựng đảng trong điều kiện mới; đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng và suy thoái trong đảng
Trước những yêu cầu, đòi hỏi thường xuyên của công cuộc cải cách,
đổi mới, trước những tác động, nhất là tác động của cơ chế thị trường, mở cửa
và hội nhập…, một trong những vấn đề được các đảng cộng sản đặc biệt quan
tâm là công tác xây dựng đảng nhằm không ngừng nâng cao trình độ năng lực
cầm quyền của đảng, mặt khác tăng cường đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “Không ngừng nâng cao trình
độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền của Đảng, nâng cao năng lực chống tham
nhũng ngừa biến chất và chống đỡ rủi ro, là bài toán lớn mà Đảng phải giải
quyết để củng cố địa vị cầm quyền, thực hiện sứ mệnh cầm quyền” [20, tr.91].
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định: toàn Đảng
cần tăng cường tinh thần nhiệt huyết và tinh thần trách nhiệm; nắm chắc
đường hướng chính là tăng cường xây dựng năng lực cầm quyền, xây dựng
tính tiên tiến và tính trong sạch của Đảng; kiên trì giải phóng tư tưởng, cải
cách sáng tạo, kiên trì Đảng quản lý Đảng, quản lý Đảng phải nghiêm; tăng
cường toàn diện xây dựng tư tưởng, xây dựng tổ chức, xây dựng tác phong,
xây dựng liêm chính chống tham nhũng, xây dựng chế độ của Đảng; tăng
cường tự làm sạch, tự hoàn thiện, tự đổi mới, tự nâng cao năng lực; xây dựng
đảng cầm quyền mácxít theo kiểu học tập, kiểu phục vụ, kiểu sáng tạo; bảo
đảm Đảng luôn là hạt nhân lãnh đạo kiên cường của sự nghiệp xã hội chủ
nghĩa đặc sắc Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi công tác xây dựng Đảng là vấn đề
“then chốt”, quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, Đảng
đang đúng trước nhiều khó khăn, thách thức, công tác xây dựng Đảng được
đặt ra là một vấn đề “cấp bách”, nhiều Nghị quyết bàn về công tác xây dựng
75
Đảng đã ra đời như: Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI: Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng
cường xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo trong giai đoạn cách
mạng tới:
Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ
và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và
phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có
phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc [25, tr.89-90].
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, “chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [25, tr.89]. Chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, đổi mới phong cách làm việc
của cán bộ, gia tăng trách nhiệm cá nhân nhất là cá nhân người đứng đầu.
Nhận diện rõ và ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị,
suy thoái về đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ Đảng.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cho rằng, phải xây dựng Đảng là Đảng
đoàn kết thống nhất, có ý chí và hành động mạnh mẽ, quản lý chặt chẽ, có kỷ
luật nghiêm minh; là Đảng trong sạch, kiên quyết trong phòng chống tham
76
nhũng và các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước và trong
hàng ngũ cán bộ, đảng viên.
Đảng Cộng sản Cuba khi bàn về công tác xây dựng đảng cầm quyền
trong điều kiện hiện nay, về vai trò của lãnh đạo của Đảng và nhà nước trong
thời gian tới, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Cuba (khóa
VI) chỉ rõ:
Điều quan trọng nhất trong đời sống chính trị của Đảng hiện nay là phải
thay đổi tư duy, kiên quyết loại bỏ chủ nghĩa giáo điều và các quan điểm lỗi
thời; Đảng chỉ nên tập trung vào những nhiệm vụ chính trị của mình, theo
nguyên tắc là Đảng lãnh đạo và kiểm tra, chứ không phải là quản lý; cần trú
trọng nhiều hơn vào công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với các đối
tượng xã hội khác nhau.
Trong việc củng cố vai trò của Đảng thì việc khắc phục những sai lầm
và yếu kém hiện nay trong công tác chính sách cán bộ là mang tính quyết
định; đổi mới phong cách làm việc của cán bộ, gia tăng trách nhiệm cá nhân,
nâng cao tính sáng tạo, củng cố mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng, đấu
tranh chống lại những vi phạm, ý thức vô kỷ luật và biểu hiện tham nhũng,
xóa bỏ phương thức lãnh đạo quan liêu, nâng cao tính gương mẫu của mỗi
cán bộ, đảng viên.
3.2.1.2. Tính phổ biến của nhận thức mới về nhà nước - xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình cải cách, đổi mới, vấn đề “xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản là một nội dung
nhận thức mới có tính phổ biến ở các nước XHCN. Về bản chất, đây là hình
thức của nhà nước chuyên chính vô sản, với đặc trưng cơ bản là đề cao tính
nghiêm minh của pháp luật trong quản lý xã hội.
Ở Trung Quốc, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền được chính thức
đưa vào Văn kiện Đại hội lần thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997).
Đại hội này chỉ rõ:
77
Sự phát triển đi sâu cải cách thể chế kinh tế và công cuộc hiện đại
hóa xã hội chủ nghĩa xuyên thế kỷ đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
đẩy tới cải cách thể chế chính trị…, mở rộng hơn nữa nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, quản lý đất nước bằng luật pháp, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [18, tr.55-56].
Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc không ngừng phát triển lý
luận về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại hội XVIII của
Đảng Cộng sản Trung Quốc (2012) tiếp tục khẳng định: “Cần phải kiên trì sự
thống nhất giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và quản lý đất nước theo
pháp luật… đẩy nhanh xây dựng pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [20, tr.50].
Theo Đảng Cộng sản và các nhà nghiên cứu Trung Quốc, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Trung Quốc có những đặc trưng cơ bản: Pháp luật
tối thượng - nguyên tắc lý luận của nhà nước pháp quyền; lập pháp dân chủ là
nội dung chủ yếu của dân chủ, là phương diện quan trọng không thể thiếu của
nhà nước pháp quyền; pháp luật hoàn chỉnh - điều kiện quan trọng của nhà
nước pháp quyền; tư pháp công bằng - yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp
quyền; hạn chế quyền lực - tiêu chí quan trọng của nhà nước pháp quyền; bảo
đảm lợi ích - giá trị pháp luật của nhà nước pháp quyền [Dẫn theo 90, tr.41-51].
Hiện nay, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng
Cộng sản Trung Quốc tập trung “kiện toàn chế độ tổ chức cơ quan quyền lực
nhà nước”, thúc đẩy toàn diện quản lý đất nước bằng pháp luật, coi “pháp trị
là phương thức cơ bản quản lý đất nước và quản lý chính quyền”, muốn vậy,
phải thúc đẩy lập pháp một cách khoa học, hoàn thiện hệ thống pháp luật xã
hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… Đi sâu cải cách thể chế hành chính, xây
dựng chính phủ theo mô hình “phục vụ với chức năng khoa học, kết cấu ưu
hóa, trong sạch, hiệu quả cao và nhân dân hài lòng”. Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống khống chế và giám sát vận hành quyền lực, kiên trì chế độ quản lý
quyền lực, quản lý công việc và quản lý con người, bảo đảm nhân dân có
78
quyền được biết, quyền tham gia, quyền bày tỏ, quyền giám sát, là bảo đảm
quan trọng vận hành quyền lực đúng đắn…
Ở Việt Nam, tư tưởng về nhà nước pháp quyền thấm đẫm trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, trong quá trình Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chính
quyền non trẻ và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, cụm từ “Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được sử dụng tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa
VII (1994), trong đó, Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật” [21, tr.56].
Tại Đại hội X của Đảng (2006), vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đã trở thành một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), khi nói về những
đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã
khẳng định: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” [25, tr.70]. Trên cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh đã nêu ra những đặc trung cơ bản của Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đó là:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa; Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực
hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
79
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; Có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách
nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và
của nhân dân; Tổ chức và hoạt động của bộ máy theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống
nhất của Trung ương.
Ở Lào, xây dựng nhà nước pháp quyền cũng là mục tiêu, nhiệm vụ
quan trọng trong thời gian tới. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ:
Tiếp tục hoàn thiện nhà nước dân chủ nhân dân, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phù hợp với sự phát
triển kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Tiếp tục
kiện toàn các cơ quan trong hệ thống chính quyền Nhà nước tinh
gọn, vững mạnh hơn, xác định lại vai trò quản lý nhà nước cho phù
hợp đi đôi với việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả và sự minh bạch
trong việc quản lý hành chính Nhà nước [30, tr.26].
Để từng bước hoàn thiện Nhà nước Dân chủ Nhân dân thành Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào nêu ra
phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời giai tới, đó là:
Cần tăng cường pháp lý, đảm bảo tính hiệu lực của pháp luật trong việc
quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội làm cho xã hội sinh sống dưới hiến
pháp và pháp luật một cách nghiêm minh; Tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò
của Quốc hội với tư cách là đại diện cơ quan quyền lực và lợi ích của nhân
dân các bộ tộc, là cơ quan lập pháp có quyền quyết định các vấn đề quan
trọng, cơ bản của đất nước, giám sát tối cao đối với các hoạt động của các cơ
quan hành pháp và tư pháp được quy định trong Hiến pháp và Luật pháp.
80
Kiện toàn tổ chức bộ máy của Quốc hội mạnh mẽ hơn cho tương xứng với vị
thế, chức năng của mình; Kiện toàn cơ quan hành pháp theo hướng tinh gọn,
hợp lý và hiệu quả, tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức các bộ, cơ quan ở cấp
Trung ương để có thể thực hiện chức năng một cách linh hoạt, kiện toàn bộ
máy ở cấp địa phương mạnh mẽ hơn, có thể chủ động trong việc thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; Tòa án nhân dân và cơ quan
kiểm sát cần tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức và nhân sự của mình vững
mạnh, có hiệu quả, phù hợp với mức độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong giai đoạn mới.
Ở Cuba, mặc dù chưa đưa ra quan điểm về xây dựng nhà nước pháp
quyền, tuy nhiên, Đảng Cộng sản và Nhà nước Cuba luôn đề cao tính nghiêm
minh của pháp luật, xây dựng nhà nước phục vụ nhân dân, giải quyết tốt
những chính sách xã hội, tạo sự công bằng, bình đẳng cho mọi người.
3.2.1.3. Dân chủ hóa đời sống xã hội, tạo cơ chế để quyền lực thuộc
về nhân dân
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đều coi
dân chủ hóa đời sống xã hội, tạo cơ chế cho nhân dân tham gia và thực thi
quyền lực trên thực tế là một nhiệm vụ, mục tiêu, một giá trị có tính phổ biến.
Thứ nhất, các nước XHCN đều nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng
của dân chủ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong quá trình cải cách, mở cửa, đã khẳng
định rõ: “Phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn
đấu trước sau như một của Đảng ta. Không có dân chủ thì không có chủ nghĩa
xã hội, không có hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa” [18, tr.56]. Theo Đảng Cộng
sản Trung Quốc: “Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân làm
chủ. Mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân” [18, tr.56].
Ở Việt Nam, trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn khẳng định, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng quan trọng,
81
bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (1991) có viết: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”
[23, tr.327]. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định: tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân và phải được thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật,
được pháp luật bảo hộ.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
bảo đảm dân chủ được thực hiện trên thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả
các lĩnh vực” [25, tr.84-85].
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong quá trình đổi mới đã chỉ rõ, dân
chủ gắn với bản chất chế độ, là mục tiêu, là nhiệm vụ cần hiện thực hóa trên
thực tế: “Chế độ của chúng ta là chế độ mà nhân dân làm chủ, tất cả là vì lợi
ích và cuộc sống ấm lo, hạnh phúc của nhân dân. Đó không chỉ là mục tiêu,
mà còn cần phải tổ chức thực hiện cho trở thành hiện thực”.
Ở Cuba, vấn đề phát huy dân chủ được quan tâm và được mở rộng hơn
trên thực tế, thông qua các quyền về kinh tế, chính trị, quyền con người… Với
sự đổi mới trong nhận thức, sự cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế - xã
hội của Đại hội VI (4-2011) và Đại hội VII (4-2016), đã tạo điều kiện và cơ
hội cho người dân tham gia nhiều hơn, chủ động hơn vào các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ; tham gia quản lý đất nước và bảo đảm ngày càng
tốt hơn những điều kiện vật chất và tinh thần của nhân dân, những sự thay đổi
đó đang hứa hẹn sẽ tạo điều kiện, cơ hội đưa Cuba bước sang một giai đoạn
phát triển mới.
82
Thứ hai, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội gắn liền với quá trình
xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo ra cơ chế để quyền lực thuộc
về nhân dân
Quá trình thực hiện dân chủ ở các nước XHCN gắn liền với việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, trước hết là xây dựng đảng cộng sản
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực cầm quyền của đảng, phát huy dân
chủ trong đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, hoàn thiện Hiến pháp, hệ
thống pháp luật, khẳng định rõ quyền con người, quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách
nhiệm đối với xã hội. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ, năng lực làm
chủ của nhân dân. Xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân.
Thành tựu quan trọng của thời kỳ cải cách, đổi mới ở các nước xã hội
chủ nghĩa là đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, từng bước khắc phục tình
trạng mất dân chủ còn tồn tại trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo
được cơ chế để nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình trên thực tế
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó đặc biệt là
trên lĩnh vực kinh tế…
Thời kỳ trước cải cách, đổi mới, do cơ cấu kinh tế tập trung chủ yếu
vào thành phần kinh tế công hữu, xóa bỏ các hình thức “phi công hữu”, bởi
vậy, chưa phát huy được quyền làm chủ, năng lực, sức mạnh của nhân dân
trong phát triển kinh tế. Thời kỳ cải cách, đổi mới, các đảng cộng sản nhận
thức lại về cơ cấu kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường với đa dạng các
thành phần kinh tế, tạo điều kiện mạnh mẽ để cách thành phần kinh tế phát
triển, từ đó, khai thác, phát huy được sức mạnh, tiềm năng, tính tích cực…
của các thành phần kinh tế đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó,
dân chủ trong lĩnh vực kinh tế được phát huy mạnh mẽ hơn.
83
Một điểm mới cũng thể hiện rõ tinh thần dân chủ hóa đời sống xã hội
trong quá trình cải cách, đổi mới đó là quan tâm, phát huy dân chủ ở cơ sở.
Quy chế dân chủ ở cơ sở, pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
nhằm… đã ra đời nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của mọi người dân, tăng
cường tiếng nói, ý kiến đóng góp, sự kiểm tra, giám sát… của nhân dân và sự
phát triển chung của cộng đồng, xã hội.
Các đảng cộng sản cũng chủ trương đa dạng hóa các hình thức dân chủ,
cả trực tiếp và gián tiếp để bảo đảm cho nhân dân được thực hiện bầu cử dân
chủ, quyết sách dân chủ, giám sát dân chủ, đảm bảo cho nhân dân được
hưởng quyền lợi, tôn trọng và bảo đảm nhân quyền, thực hiện dân chủ rộng
rãi hơn, đầy đủ hơn và kiện toàn hơn. Bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao
năng lực làm chủ của nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân
dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phát huy tốt vai trò
của các tổ chức đoàn thể nhân dân trong việc giám sát và phản biện xã hội,
trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
3.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế
3.2.2.1. Các nước xã hội chủ nghĩa đều nhận thức rõ “lấy phát triển
kinh tế làm trung tâm”, tập trung phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại
Khi bước vào quá trình cải cách, đổi mới, các nước XHCN đều có
“điểm xuất phát rất thấp về kinh tế”, “trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất còn lạc hậu rất xa so với các nước phát triển”, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn, “mâu thuẫn chủ yếu nhất của xã hội là mâu thuẫn giữa nhu
cầu vật chất, văn hóa ngày càng tăng của nhân dân với sức sản xuất xã hội lạc
hậu”… Để giải quyết những vấn đề đó, một trong những thành tựu quan trọng
của đổi mới tư duy ở các nước xã hội chủ nghĩa chính là “lấy phát triển kinh
tế làm trung tâm”.
84
Việc xác định lấy phát triển kinh tế làm trung tâm là sự thay đổi quan
trọng trong nhận thức của các nước xã hội chủ nghĩa, đáp ứng đòi hỏi của
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, “là điều cốt yếu để chấn hưng đất
nước” [20, tr.40], là sự trở lại đúng với những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin coi hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế là tiền đề cơ
bản của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người mà bất kỳ chế độ xã hội
nào trong lịch sử cũng đều phải thực hiện. Chính sự thay đổi nhận thức
quan trọng này là tiền đề cho sự thành công của công cuộc cải cách, đổi
mới kinh tế cũng như sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cải cách, đổi
mới ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Các nước xã hội chủ nghĩa cũng nhận thức lại một cách khách quan,
khoa học về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong
đó, lấy phát triển lực lượng sản xuất là nền tảng, là đặc trưng quan trọng nhất
của chủ nghĩa xã hội. Đặng Tiểu Bình và Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ:
“Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng sức sản xuất, phát triển sức sản
xuất, tiêu diệt bóc lột, xóa bỏ sự phân hóa hai cực, cuối cùng đạt được đích
cùng nhau giàu có” [109, tr.396], “Nhiệm vụ cơ bản của chủ nghĩa xã hội là
phát triển sức sản xuất xã hội. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội phải
đặt lên hàng đầu việc tập trung lực lượng phát triển sức sản xuất xã hội” [18,
tr.32]. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội
“Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại”. Theo
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào: “trong việc phát triển kinh tế, vấn đề cơ bản
nhất vẫn là tích cực phát triển lực lượng sản xuất” [29, tr.16]… Phát triển lực
lượng sản xuất là nhằm xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội - yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất mới xã hội chủ nghĩa…
85
Để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại, các
nước xã hội chủ nghĩa đều xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là “nhiệm
vụ trung tâm”, xuyên suốt nhằm tạo ra nền tảng vật chất, kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Nhận thức mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước
XHCN hiện nay, đó là: công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức; gắn với phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu nhằm khai thác hết tiềm năng của các
thành phần kinh tế, đóng góp cho sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội. Do đặc thù của các nước XHCN đi lên từ những nước nông nghiệp lạc
hậu nên vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
được đặc biệt coi trọng; lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là
nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa, “sáng tạo khoa học
công nghệ là trụ cột chiến lược nhằm nâng cao sức sản xuất của xã hội và
sức mạnh tổng hợp của quốc gia”; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng
sinh học.
3.2.2.2. Nhận thức mới về xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trên cả ba mặt (sở hữu, quản lý và phân phối)
Thứ nhất, về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, các nước XHCN đều kiên
trì thực hiện chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, làm rõ hơn
về vai trò, chức năng chế độ công hữu; đồng thời, phát triển các thành phần
kinh tế “phi công hữu”, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đặc biệt trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đều kiên
trì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, coi đó là “đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội, là nền tảng của quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa”. Nếu không có
86
công hữu làm chủ thể thì không thể có sự khác nhau về bản chất của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Thực chất của các chủ thể đó là: giai cấp
công nhân và quần chúng nhân dân cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất. Thực
hiện chế độ công hữu là công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định:
Cần kiên trì không dao động củng cố và phát triển thành phần kinh
tế công hữu, mở rộng nhiều hình thức thực hiện chế độ công hữu, đi
sâu cải cách doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy nguồn vốn nhà nước
đầu tư nhiều hơn vào những ngành quan trọng và lĩnh vực then chốt
liên quan đến an ninh quốc gia và huyết mạch của kinh tế quốc dân,
không ngừng tăng cường sức sống, sức kiểm soát, ảnh hưởng của
kinh tế nhà nước [20, tr.41-42]
Trong quá trình cải cách, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng “nhận thức
một cách toàn diện hàm nghĩa công hữu” [18, tr.39], theo đó, “Kinh tế công
hữu không những bao gồm kinh tế quốc hữu và kinh tế tập thể, mà còn bao
gồm thành phần quốc hữu và thành phần tập thể trong kinh tế có chế độ sở
hữu hỗn hợp” [18, tr.39].
Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng chỉ rõ vai trò và chức năng của chế
độ công hữu, đó là:
Vai trò trụ cột: kinh tế công hữu nắm giữ những mạch máu chủ yếu của
kinh tế quốc dân, có sức mạnh vật chất, kỹ thuật hiện đại, là nguồn thu nhập
tài chính chủ yếu của nhà nước, là cơ sở vật chất chủ yếu của nhà nước điều
hành vĩ mô toàn bộ kinh tế, xã hội. Chỉ có giữ vững công hữu là chủ thể, công
cuộc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa mới có cơ sở vững chắc và lực lượng vật
chất hùng hậu, mới có thể đảm bảo kinh tế xã hội phát triển đồng bộ, để đạt
tới mục đích toàn thể người lao động cùng giàu.
Vai trò đảm bảo: vai trò chủ thể của công hữu là tiền đề bảo đảm cho
các thành phần kinh tế khác phát huy vai trò tích cực của chúng. Hiện nay,
87
các thành phần kinh tế khác như cá thể, tư nhân, vốn nước ngoài có tác dụng
hai mặt đối với sự phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, tức là vừa tích cực, vừa
tiêu cực. Chỉ có lấy công hữu làm chủ thể phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế
công hữu, nhà nước mới có thực lực kinh tế hùng hậu, để chủ yếu sử dụng
biện pháp kinh tế hướng dẫn các thành phần kinh tế ngoài công hữu theo nhu
cầu của nền kinh tế quốc dân, nhằm phát huy vai trò cần thiết của chúng trong
phát triển kinh tế nước ta, bảo đảm nền kinh tế phát triển lành mạnh.
Chức năng dẫn đường: công hữu là thích ứng với sản xuất lớn xã hội
hóa, tiêu biểu cho phát triển kinh tế. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất, trình độ phát triển lực lượng sản xuất; sự phát triển của xã hội hóa sản
xuất đòi hỏi tư liệu sản xuất phải thuộc sở hữu của xã hội. Đó là quy luật
khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội, không phụ thuộc ý chí con người.
Sự xuất hiện và phát triển của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là đã đáp ứng
yêu cầu phát triển sản xuất lớn xã hội hóa; từ đó, giải quyết một cách căn bản
mâu thuẫn giữa sở hữu tư liệu sản xuất và sản xuất lớn xã hội hóa, một mâu
thuẫn mà chế độ tư hữu tư liệu sản xuất không thể giải quyết. Chế độ công
hữu có vai trò hướng dẫn nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
khẳng định vai trò nền tảng của chế độ công hữu trong xây dựng quan hệ
sản xuất mới XHCN. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng
sản Việt Nam (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chỉ ra đặc trưng kinh tế của xã
hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu”. Đại hội XI (2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011),
Cương lĩnh này tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhưng
88
trong đó, “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [25,
tr.73-74]. Đại hội XII (2016) của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế” [26, tr.103].
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn đặc biệt quan tâm đến xây dựng
chế độ công hữu, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước ngày càng vững
mạnh. Văn kiện Đại hội IX Đảng Nhân dân Cách mạng Lào viết:
Trong những năm trước mắt cần củng cố nền kinh tế nhà nước, nhất
là kinh tế quốc doanh vững mạnh, để tạo sức mạnh kết hợp các
thành phần kinh tế khác trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước; xây dựng quốc doanh hiện đại bằng cách chuyển sang hình
thức liên doanh, liên kết và cổ phần hóa là trọng tâm [30, tr.16].
Ở Cuba, trong quá trình cập nhật hóa mô hình kinh tế, được xác định
trong đường lối của Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba đã nêu bật một số quan
điểm mới so với trước đây về xây dựng quan hệ sản xuất: hệ thống kinh tế mà
Cuba xây dựng sẽ tiếp tục dựa trên nguyên tắc sở hữu xã hội chủ nghĩa của
toàn dân đối với tư liệu sản xuất chính và nguyên tắc phân phối xã hội chủ
nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đại hội VI xác định: những
tư liệu sản xuất chính vẫn tiếp tục thuộc sở hữu toàn dân và các doanh nghiệp
nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ là hình thức quản lý cơ bản trong nền kinh tế
quốc gia.
Phát triển các thành phần kinh tế “phi công hữu”, đa dạng hóa các
hình thức sở hữu. Cùng với việc khẳng định vai trò nền tảng của chế độ công
hữu, các nước XHCN đều chủ trương khuyến khích, ủng hộ, dẫn dắt kinh tế
phi công hữu phát triển, bảo đảm cho các thành phần kinh tế được bình đẳng
trong sử dụng yếu tố sản xuất, tham gia cạnh tranh thị trường một cách công
89
bằng, nhận được sự bảo vệ công bằng của pháp luật. Cùng với đó, các nước
XHCN cũng chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân,
sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu hỗn hợp… Thể chế hóa
quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi)
của nhà nước, tổ chức và cá nhân nhằm giải quyết đúng đắn, hài hòa các lợi
ích, khuyến khích và tạo động lực để các thành phần kinh tế hợp tác, đầu tư
cùng xây dựng và phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, về chế độ quản lý nền kinh tế, các nước XHCN đều thực hiện
sự chuyển đổi từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp với cách tổ chức, quản lý
bằng kế hoạch, mệnh lệnh áp đặt từ trên xuống, sang chế độ nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết vĩ mô, điều hành nền kinh tế, vừa tuân theo quy luật
của kinh tế thị trường, vừa đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng
Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ: “Nhiệm vụ chính của điều tiết vĩ mô là đảm bảo
sự cân bằng chung của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy việc hoàn hảo
các kết cấu kinh tế lớn, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định. Việc điều tiết vĩ
mô chủ yếu vận dụng các biện pháp kinh tế và pháp luật” [18, tr.46-47]. Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định:
Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực phát triển… Nhà nước đóng vai trò định hướng,
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính
sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
phát triển kinh tế - xã hội [26, tr.103]…
Như vậy, trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế quản lý mới, các
nước XHCN đều khẳng định vai trò của nhà nước là điều tiết vĩ mô nền kinh
90
tế là đảm bảo sự cân bằng chung của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy
các kết cấu kinh tế lớn, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định. Nhà nước đóng
vai trò định hướng, xây dựng, kiến tạo và hoàn thiện thể chế kinh tế, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của nhà nước
để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo
vệ môi trường; phân định rõ chức năng quản lý nhà nước đối với sản xuất
kinh doanh và chức năng quản lý của các đơn vị sản xuất kinh doanh, thực
hiện chế độ tự chủ của đơn vị kinh tế trong sản xuất kinh doanh và phải thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước và từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường đóng vai trò chủ yếu
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực
chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.
Thứ ba, về chế độ phân phối, cùng với việc nhất quán thực hiện chế độ
công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, các nước XHCN cũng luôn quán
triệt nguyên tắc “phân phối theo lao động”, “lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”, coi đó là đặc trưng bản chất, là nguyên
tắc phân phối cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra, các nước XHCN cũng thực hiện nhiều hình thức phân phối
khác như: phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội… Nhà nước tiến
hành chính sách điều tiết phân phối bảo đảm lợi ích cho mọi thành phần kinh
tế, nhất là đối với người lao động, lợi ích của những người tham gia sản xuất -
kinh doanh, lợi ích của nhà nước, tập thể; nhà nước đóng vai trò phân phối lại
để ngăn chặn sự phân hóa giàu nghèo có khoảng cách khá lớn; tạo điều kiện
để toàn thể nhân dân được hưởng thụ nhiều hơn, công bằng hơn thành quả của
phát triển.
91
Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ:
Cần kiên trì chế độ kinh tế và chế độ phân phối cơ bản xã hội chủ
nghĩa, điều chỉnh cục diện phân phối thu nhập quốc dân, tăng
cường điều tiết tái phân phối, cố gắng giải quyết tình trạng chênh
lệch khá lớn trong phân phối thu nhập, để toàn thể nhân dân được
hưởng thụ nhiều hơn, công bằng hơn thành quả của phát triển, vững
bước đi theo hướng cùng giàu có [20, tr.32].
Theo Đảng Cộng sản Việt Nam “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội” [25, tr.74]. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào nêu rõ, tiến hành
chính sách điều tiết phân phối bảo đảm lợi ích thỏa đáng cho mọi thành phần
kinh tế, nhất là đối với người lao động, lợi ích của những người tham gia sản
xuất - kinh doanh, lợi ích của nhà nước, tập thể; Nhà nước phân phối lại một
cách thích đáng để ngăn chặn ngay từ đầu sự phân hóa giàu nghèo có khoảng
cách khá lớn; tạo điều kiện cho đại đa số nhân dân được hưởng lợi ích thích
đáng những công trình phát triển. Đảng Cộng sản Cuba khẳng định, lao động
đồng thời là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân và sẽ được trả lương tùy
theo số lượng và chất lượng của lao động.
3.2.2.3. Các nước xã hội chủ nghĩa đều phát triển nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Phát triển kinh tế thị trường là nội dung nhận thức mới của các nước xã
hội chủ nghĩa được hình thành trong quá trình cải cách, đổi mới đất nước, trở
thành vấn đề có tính phổ biến trong nhận thức và hành động của các đảng
cộng sản trong quá trình lãnh đạo đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở Trung Quốc, vấn đề về phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
được đặt ra ngay từ đầu quá trình cải cách. Tháng 11 năm 1979, Đặng Tiểu
Bình đưa ra quan điểm cho rằng:
92
Nói đến kinh tế thị trường mà chỉ hạn chế ở xã hội tư bản chủ nghĩa
là hoàn toàn không chính xác. Tại sao chủ nghĩa xã hội không thực
hiện được kinh tế thị trường, không nên cho rằng chỉ có chủ nghĩa
tư bản mới có kinh tế thị trường. Chúng ta lấy kinh tế kế hoạch là
chính nhưng cũng kết hợp với kinh tế thị trường. Nhưng đó là kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa [Dẫn theo 58, tr.1167].
Đến Đại hội XIV, Đảng Cộng sản Trung Quốc (1992), lý luận về kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa mới được chính thức đưa vào nghị quyết.
Tháng 10 năm 1992, Báo cáo chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc lần
đầu tiên đưa ra khái niệm “xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “Mục tiêu cải cách thể chế kinh tế của nước ta là xây
dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997) đã phát triển quan
điểm này và chỉ ra những tư tưởng cơ bản về “xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc”, đó là:
Phát triển kinh tế thị trường, không ngừng giải phóng và phát triển
sức sản xuất trong điều kiện xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là
phải kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu
xã hội chủ nghĩa làm chủ thể, kinh tế nhiều thành phần sở hữu cùng
phát triển; kiên trì và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa làm cho thị trường đóng vai trò cơ sở đối với sự phân bổ tài
nguyên dưới sự điều tiết, khống chế vĩ mô của Nhà nước; kiên trì
hoàn thiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo lao động
làm chủ thể, cho phép một số khu vực, một số người giàu lên trước,
kéo theo và giúp đỡ những người khác cùng giàu lên, từng bước tiến
tới cùng giàu có; kiên trì và hoàn thiện cải cách mở cửa, tích cực
tham gia vào hợp tác và cạnh tranh kinh tế quốc tế, bảo đảm cho nền
93
kinh tế quốc dân phát triển liên tục nhanh và lành mạnh, nhân dân
cùng hưởng thành quả phồn vinh kinh tế [18, tr.35].
Như vậy, đến Đại hội XV, quan điểm về phát triển kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc được hình thành về cơ bản, tạo cơ sở quan
trọng cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Đại hội XVI, XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, tại Đại hội XVIII
của Đảng (2012), vấn đề đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa đã được chỉ rõ, đó là: đi sâu toàn diện cải cách thể chế kinh tế,
trong đó, cốt lõi là:
Xử lý tốt quan hệ giữa chính quyền và thị trường, phải tôn trọng
quy luật thị trường hơn nữa, phát huy tốt hơn vai trò của chính
quyền. Cần kiên trì không dao động củng cố và phát triển thành
phần kinh tế công hữu, mở rộng nhiều hình thức thực hiện chế độ
công hữu, đi sâu cải cách doanh nghiệp nhà nước, hoàn thiện hệ
thống quản lý các loại hình tài sản nhà nước, thúc đẩy vốn nhà
nước đầu tư nhiều hơn vào những ngành quan trọng và lĩnh vực
then chốt liên quan đến an ninh quốc gia và huyết mạch của kinh
tế quốc dân, không ngừng tăng cường sức sống, sức ảnh hưởng
của kinh tế nhà nước [20, tr.42].
Đồng thời, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nhấn mạnh “kiên trì
không dao động khuyến khích, ủng hộ, dẫn dắt kinh tế phi công hữu phát
triển, đảm bảo các thành phần kinh tế được bình đẳng trong sử dụng yếu tố
sản xuất, tham gia cạnh tranh một cách công bằng, nhận được sự bảo vệ
công bằng của pháp luật” [20, tr.42], kiện toàn hệ thống thị trường hiện đại,
đẩy nhanh cải cách hệ thống tài chính - thuế. Xây dựng cơ chế phân phối lợi
ích hợp lý từ việc sử dụng tài nguyên công cộng, đẩy nhanh phát triển các cơ
quan tài chính dân doanh…
94
Ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng
khẳng định “xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù
hợp với quy luật khách quan, với trình độ phát triển của nền kinh tế” [23,
tr.65], “chuyển hóa nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền
kinh tế hàng hóa” [23, tr.65], tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng
đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng thứ hai; phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; quản lý bằng các
phương pháp kinh tế là chủ yếu, với động lực thúc đẩy là sự kết hợp hài hoà
lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích riêng của người lao động.
Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6-1991), thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
trong đó chỉ rõ định hướng phát triển của nền kinh tế ở Việt Nam, đó là:
“Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”, đó là nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và
các công cụ khác.
Đặc biệt, tại Đại hội IX (4-2001), Đảng Cộng sản Việt Nam chính
thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
trong đó chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Theo quan điểm của Đại hội IX, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
95
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Nhà nước quản
lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,
sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp
quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản
xuất… Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo
mức đóng góp vốn, nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa và giáo dục.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) khẳng định và phát
triển một số quan điểm gắn với việc giải quyết các nhiệm vụ cấp bách của
nền kinh tế. Đại hội chỉ rõ:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất
của chủ nghĩa xã hội [25, tr.34].
Tại Đại hội lần thứ XII (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục bổ
sung, phát triển những nhận thức mới về nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trong đó chỉ rõ:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
96
lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” [26, tr.102].
Văn kiện Đại hội XII khái quát những nội dung quan trọng về các bộ
phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của nhà nước, vai trò của các
thành phần kinh tế trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó là:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế;
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật;
Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả
các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất;
Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh;
Sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để
định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ
môi trường;
Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, so với những Đại hội trước đó, Đại hội XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về kinh tế thị trường, như làm rõ
hơn về định hướng xã hội chủ nghĩa với năm điểm cơ bản, đó là: vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
97
chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đại hội cũng đưa
ra những quan điểm mới trong nhận thức về nền kinh tế thị trường như: “Đó
là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”, “kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế”...
Ở Lào, những tư tưởng đổi mới của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
đã bước đầu được hình thành từ Hội nghị Trung ương 7 khóa II năm 1979. Ý
tưởng này được Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản khởi xướng. Ông chỉ rõ:
Đất nước chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh
tế về cơ bản là kinh tế sản xuất nhỏ mang đầy tính tự nhiên; trong
thời kỳ quá độ chúng ta còn tồn tại 5 thành phần kinh tế (kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể và kinh
tế tư nhân), trong đó, kinh tế nhà nước và tập thể là làm chủ và dẫn
đường. Quan điểm của Đảng ta đối với việc xây dựng và cải tạo kinh
tế là sử dụng tất cả các thành phần kinh tế nhằm phát triển lực lượng
sản xuất… Về quản lý kinh tế phải nắm vững và biết vận dụng các
quy luật kinh tế, biết sử dụng thị trường, mở rộng kinh tế hàng hóa,
phá kinh tế tự nhiên, mở rộng quan hệ kinh tế đối nội giữa các tỉnh
và kinh tế đối ngoại; thực hiện cơ chế quản lý cân đối và có lãi đối
với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, kiên quyết xóa bỏ chế độ phân
phát hành chính… [Dẫn theo 59, tr.305].
Năm 1986, Đại hội IV của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được coi
là dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của Lào. Đại hội IV đã đề ra
đường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy,
nhất là tư duy kinh tế. Tiếp đó, các Hội nghị Trung ương và Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tiếp tục bổ sung và phát triển
98
quan điểm về đổi mới kinh tế. Nội dung đổi mới kinh tế ở Lào gồm những
vấn đề cơ bản sau:
Đổi mới kinh tế là từng bước tiến hành chuyển đổi từ nền kinh tế chủ
yếu dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa
về hình thức sở hữu, chuyển từ kinh tế vật phẩm sang kinh tế hàng hóa, từ
kinh tế vật đổi vật sang kinh tế có sự trao đổi thông qua tiền tệ và thị trường.
Thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ để thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc
đẩy phân công lao động xã hội, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật và năng suất lao
động. Lấy thương mại làm mắt xích nhằm chuyển kinh tế tự nhiên từng bước
trở thành kinh tế sản xuất hàng hóa.
Về cơ cấu kinh tế, từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với
tình hình thực tế của đất nước, chuyển từ nền kinh tế đóng cửa sang một nền
kinh tế mở với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu,
có cơ cấu kinh tế ngành, kinh tế vùng, cơ cấu kinh tể mở trong nội bộ cùng
với hợp tác và phân công quốc tế.
Đại hội IX của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011) đã đánh dấu
mốc quan trọng khi đưa ra quan điểm về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo chính trị tại Đại hội chỉ rõ: “Kiên định lấy
việc phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, nhằm phát triển vững mạnh
lực lượng sản xuất, chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng
hóa, hoàn thiện việc xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” [30, tr.16].
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào chỉ rõ một
số nhiệm vụ cơ bản sau:
Trong những năm trước mắt cần củng cố kinh tế nhà nước, nhất là
kinh tế quốc doanh vững mạnh, để tạo sức mạnh kết hợp với các thành phần
kinh tế khác trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
99
Xây dựng quốc doanh hiện đại bằng cách chuyển sang hình thức liên
doanh, liên kết và cổ phần hóa là trọng tâm. Nghiên cứu thành lập quốc
doanh trong một số ngành có điều kiện, năng lực và có hiệu quả nhất.
Tiếp tục khuyến khích kinh tế hợp tác của nhân dân, kinh tế hộ gia
đình và doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách mạnh mẽ hơn nữa, làm cho đơn
vị kinh tế đó vững mạnh và hoạt động linh hoạt trong nền kinh tế quốc dân,
thực hiện đầy đủ chế độ chính sách đối với các thành phần kinh tế trên, nhất
là tạo điều kiện xúc tiến nguồn vốn, nguồn thông tin và công nghệ mới, vừa
hỗ trợ về thông tin và thị trường...
Ở Cuba, nền kinh tế Cuba vẫn là nền kinh tế kế hoạch, tuy nhiên,
trong những năm gần đây, nhất là từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Cuba
họp vào tháng 4 năm 2011, những xu hướng phát triển của thị trường đã
được bàn tới trong quá trình cập nhật hóa mô hình kinh tế dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Cuba. Quá trình cập nhật hóa có một số đặc điểm cơ
bản sau:
Hệ thống kinh tế mà Cuba xây dựng sẽ tiếp tục dựa trên nguyên tắc sở
hữu xã hội chủ nghĩa của toàn dân đối với những tư liệu sản xuất chính và
nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo lao
động”; kế hoạch hóa vẫn sẽ được ưu tiên nhưng sẽ tính đến các xu hướng phát
triển của thị trường, sẽ tác động vào thị trường đồng thời có tính đến những đặc
điểm riêng của thị trường; Những tư liệu sản xuất chính vẫn tiếp tục thuộc sở
hữu toàn dân và các doanh nghiệp nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ là hình thức
quản lý cơ bản trong nền kinh tế quốc gia. Ngoài ra, mô hình quản lý cũng thừa
nhận và thúc đẩy các hình thức khác nhau như đầu tư nước ngoài, hợp tác xã,
nông dân cá thể, những người thuê đất, người thuê công nhân, người làm kinh
tế tự doanh và các hình thức khác; việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh sẽ
tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi nó cho
phép Nhà nước có thể rảnh tay với những hoạt động kinh tế không chiến lược
đối với đất nước và những khu vực mà nhà nước không thể thực hiện có hiệu
100
quả và chất lượng cần thiết nếu áp dụng hình thức quản lý nhà nước; trong hình
thức quản lý phi nhà nước, không cho phép việc tập trung sở hữu vào các pháp
nhân và cá nhân; việc phân định rõ vai trò đối với nền kinh tế của các cơ quan
nhà nước và các doanh nghiệp chính là phân định chức năng nhà nước và chức
năng doanh nghiệp [Dẫn theo 2, tr.169-170].
Tại Đại hội VII (tháng 4 năm 2016), Đảng Cộng sản Cuba tiếp tục
hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững. Về
kinh tế, Đại hội VII xác định, sẽ tiếp tục mô hình kinh tế kế hoạch, kinh tế
nhà nước là chủ đạo, từng bước xóa bỏ bao cấp, phát triển kinh tế tự doanh,
mở cửa thị trường nội địa, coi trọng hợp tác và đầu tư nước ngoài… Mặc dù
trong Văn kiện Đại hội, Đảng Cộng sản Cuba chưa đề cập đến phát triển
kinh tế thị trường, tuy nhiên, việc cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế -
xã hội cho thấy Cuba đang có những bước chấp nhận những yếu tố của kinh
tế thị trường. Đây là một xu thế khách quan và hứa hẹn mở ra cho Cuba một
giai đoạn phát triển mới và hội nhập với thế giới.
3.2.3. Tính phổ biến của những nhận thức mới trên lĩnh vực văn
hóa - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới hiện nay
3.2.3.1. Xây dựng nền văn hóa mới kết tinh những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đề cao sức mạnh
của văn hóa, gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, tiến bộ và công
bằng xã hội
Thứ nhất, các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục khẳng định xây dựng nền
văn hóa mới, trong đó kế thừa giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
trên cách lĩnh vực của đời sống xã hội, hội nhập văn hóa cũng là một xu
hướng tất yếu. Hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa đều cho rằng, xây dựng
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, một mặt phải “kế thừa văn hóa truyền thống
101
ưu tú, phát huy truyền thống văn hóa ưu tú” [20, tr.63]; “kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc” [25, tr.76],
“Vừa bảo tồn giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, vừa mang tính kế thừa và
phát huy ngày càng phong phú hơn” [31, tr.3]…
Mặt khác, phải “tích cực tiếp thu học tập thành quả văn hóa ưu tú
nước ngoài” [20, tr.63], tiếp thu “tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại” [25, tr.76], xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa dân tộc, khoa học, đại
chúng, hướng tới hiện đại hóa, hướng tới thế giới, hướng tới tương lai,
“xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong
đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ” [25, tr.76], làm
giàu thêm nền văn hóa của mỗi dân tộc trong bối cảnh mới, hướng tới xây
dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao.
Thứ hai, trong cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đã đề cao
sức mạnh của văn hóa, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển văn hóa với phát triển
kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các đảng cộng sản ở các nước XHCN
đã nhận thức lại một cách đúng đắn và khoa học hơn về văn hóa, đề cao sức
mạnh của văn hóa, coi văn hóa là “huyết mạch của dân tộc, là ngôi nhà tinh
thần của nhân dân” [20, tr.59]; “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” [26, tr.126], “Phát triển lĩnh vực văn hóa - xã hội
tương xứng với kinh tế đảm bảo hài hòa và bền vững” [31, tr.5]…
Xây dựng và phát triển nền văn hóa gắn bó chặt chẽ với phát triển kinh
tế, với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào
102
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển, thúc đẩy toàn diện văn minh tinh thần, văn
minh vật chất xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, xã hội phải hài hòa với
phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và
từng chính sách phát triển.
3.2.3.2. Xác định vị trí trung tâm của con người trong phát triển xã hội
Giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện
là mục tiêu cao nhất, bao trùm nhất, đồng thời là sự phản ánh bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước xã
hội chủ nghĩa đều khẳng định quan điểm con người làm trung tâm, chủ thể
cho quá trình phát triển.
Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ “ Cần phải coi việc lấy con người
làm gốc là lập trường cốt lõi …luôn luôn coi việc thực hiện tốt, giữ gìn tốt lợi
ích căn bản của đông đảo nhân dân là điểm xuất phát và đích đến trong mọi
công tác của Đảng và Nhà nước” [20, tr.22]; Đảng Cộng sản Việt Nam coi
“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển” [25, tr.76], “đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”,
vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách
nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân” [26, tr.69];… Từ đó, các
nước XHCN đều đặc biệt quan tâm phát triển toàn diện con người, chăm lo
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa giàu lòng yêu nước, có ý thức làm
chủ, trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm gia đình; có lý
tưởng, có tri thức, có đạo đức cách mạng, có sức khỏe, lao động giỏi, sáng
tạo; sống có văn hóa, nghĩa tình, có tình hữu nghị với bạn bè quốc tế…
Đồng thời, các nước xã hội chủ nghĩa đều khẳng định quan điểm tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân, tôn trọng tinh thần đi đầu và sáng tạo của nhân dân. Mặt khác,
103
trong quá trình cải cách, đổi mới với sự phát triển mạnh của kinh tế đã tạo ra
những điều kiện quan trọng để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, chăm lo lợi ích nhân dân, giải quyết nỗi lo của nhân dân; phát huy
tối đa nhân tố con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng
nhân tài, thực hiện công bằng xã hội… đảm bảo nhân dân được hưởng thành
quả phát triển, thúc đẩy sự phát triển toàn diện con người.
3.2.3.3. Thực hiện tốt các chính sách xã hội với con người
Thực hiện tốt các chính sách xã hội vì con người là một nội dung được
các nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt quan tâm trong quá trình cải cách, đổi mới.
Đây là nội dung quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội, đồng
thời là sự thể hiện rõ ràng nhất bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ
phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân; kết hợp
chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội; phát triển hài
hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Bảo đảm cho mỗi người dân “cần
học thì có dạy, lao động thì có thu nhập, ốm đau thì có chữa trị, già thì có nuôi
dưỡng, ở thì có nhà”, để nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Về giáo dục và đào tạo: trong thực hiện các chính sách xã hội, các
nước xã hội chủ nghĩa đề dành sự quan tâm đặc biệt, ưu tiên phát triển giáo
dục và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là “hòn đã tảng của chấn hưng dân tộc
và tiến bộ xã hội” [20, tr.66], là “quốc sách hàng đầu” [25, tr.77] nhằm đào
tạo ra những con người phát triển toàn diện về đức - trí - thể - mỹ, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để đạt được điều đó, hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa đã đầu tư cho
giáo dục, thực hiện “chấn hưng giáo dục”, “đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo” nhằm nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng con
người và nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện mới; thúc đẩy sự
công bằng trong giáo dục, chú trọng đầu tư về vùng nông thôn, vùng sâu vùng
104
xa, vùng nghèo khó, vùng dân tộc thiểu số, hỗ trợ học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, bảo đảm cho trẻ em trong độ tuổi đến trường đều được đi học; đẩy
mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được
học tập suốt đời.
Về việc làm cho người dân: các nước xã hội chủ nghĩa đều xác định vấn
đề việc làm cho người dân là vấn đề hết sức quan trọng, “Việc làm là cái gốc
của dân sinh” [20, tr.67], vì vậy, trong phát triển kinh tế, phải quan tâm tới
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm cho người lao động.
Tăng cường và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, quán triệt phương châm
người lao động tự chủ làm việc, chính quyền xúc tiến việc làm, tạo điều kiện
để giải quyết ngày càng nhiều việc làm, khuyến khích sáng tạo lập thân, lập
nghiệp; khắc phục những bất hợp lý về tiền công, tiền lương, trợ cấp xã hội;
chăm lo bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện làm việc, kiểm tra, xử lý nghiêm
các vi phạm pháp luật lao động; xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hòa,
tiến bộ.
Về vấn đề y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân: Sức khỏe là đòi hỏi tất
yếu thúc đẩy phát triển toàn diện con người. Kiên trì phương hướng phục vụ
sức khỏe của nhân dân, chú ý nhiều hơn đến công tác y tế dự phòng, củng cố
và hoàn thiện mạng lưới y tế khám chữa bệnh, bảo đảm dịch vụ y tế, y tế công
cộng, cung ứng dược phẩm, thể chế giám sát, cung cấp cho quần chúng dịch
vụ y tế công cộng và khám chữa bệnh an toàn, hiệu quả, thuận tiện, giá tốt.
Tăng cường đầu tư của nhà nước, đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động y tế. Làm tốt công tác chăm sức sức khỏe đối với những gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, từng bước đảm bảo cho mọi người có được điều kiện chăm sóc sức
khỏe tốt, bảo đảm sức khỏe nhân dân, đồng thời góp phần thực hiện tốt các
Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Bảo đảm an sinh xã hội: an sinh xã hội là một chế độ cơ bản bảo đảm
cuộc sống nhân dân và điều tiết phân phối xã hội, đây là vấn đề được các
105
nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt quan tâm, đồng thời, cũng là nội dung phản
ánh rõ bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Cùng với mỗi bước phát triển về
kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa đều gắn với việc thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, xây dựng hệ thống an sinh xã hội bao phủ rộng khắp, toàn diện,
bảo đảm cơ bản, nhiều tầng nấc và bền vững.
3.3. TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
3.3.1. Tính đặc thù của nhận thức mới trên lĩnh vực chính trị
3.3.1.1. Tính đặc thù của nhận thức mới về Đảng
Thứ nhất, chế độ hợp tác đa đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
và hiệp thương dân chủ - nét đặc thù ở Trung Quốc
Các nước xã hội chủ nghĩa như: Việt Nam, Cuba, Lào đều khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và duy trì chế độ một đảng. Tuy nhiên,
Trung Quốc có hệ thống các tổ chức đảng bao gồm Đảng Cộng sản và 8 tổ
chức và chính Đảng dân chủ: Ủy ban cách mạng Đảng Quốc dân Trung Quốc,
Đồng minh dân chủ Trung Quốc, Hội Kiến quốc dân chủ Trung Quốc, Hội
Xúc tiến dân chủ Trung Quốc, Đảng Dân chủ công nông Trung Quốc, Đảng
Chí công Trung Quốc, Cửu Tam học xã, Đồng minh tự trị dân chủ Đài Loan.
Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định: Đảng Cộng sản
Trung Quốc là chính đảng chấp chính duy nhất, 8 đảng còn lại được gọi là đảng
phái dân chủ (hay đảng tham chính). Các đảng phái dân chủ tham gia chính trị
thông qua Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, phát huy vai
trò giám sát và phụ tá Đảng Cộng sản Trung Quốc chấp chính. Chủ tịch các
đảng này thường kiêm nhiệm phó ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội
đại biểu Nhân dân toàn quốc hoặc phó chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị
Nhân dân Trung Quốc. Phương châm hợp tác cơ bản giữa Đảng Cộng sản
Trung Quốc và 8 đảng phái dân chủ được xác định là: "Trường kỳ cộng tồn, hỗ
106
tương giám đốc, can đảm tương chiếu, vinh nhục dữ cộng" (cùng tồn tại lâu
dài, giám sát lẫn nhau, đối xử chân thành với nhau, vinh nhục có nhau).
Thứ hai, các đảng cộng sản đã bổ sung vào nền tảng tư tưởng của mình
bằng những tư tưởng, lý luận khác nhau
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các đảng cộng sản ở các nước xã hội
chủ nghĩa đều khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động. Đây là những vấn đề có tính phổ biến. Tuy
nhiên, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi quốc gia đều có những nhà tư
tưởng, lý luận của riêng mình.
Ở Trung Quốc, từ khi thành lập, Đảng Cộng sản đã xác lập lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chỉ đạo của mình. Đến Đại hội lần thứ VII,
Đảng xác định tư tưởng thống nhất giữa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
thực tiễn cách mạng Trung Quốc - tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng chỉ
đạo của Đảng.
Trong quá trình tiến hành cải cách, mở của, Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã không ngừng tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển lý luận về
chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Kể từ Hội nghị Trung ương 3 khóa XI
(1978), lý luận về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc chính thức ra đời và
từng bước phát triển với vai trò “sáng lập” của Đặng Tiểu Bình. Tại Đại hội
XV (1997), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã khẳng định vai trò chỉ đạo của lý
luận Đặng Tiểu Bình với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc. Văn kiện Đại hội XV chỉ rõ: “Thực tiễn chứng minh rằng, lý
luận Đặng Tiểu Bình kế thừa và phát triển tư tưởng Mao Trạch Đông, là lý
luận đúng đắn chỉ đạo nhân dân Trung Quốc thực hiện thắng lợi hiện đại hóa
xã hội chủ nghĩa trong cải cách, mở cửa. Ở Trung Quốc hiện nay, chỉ có lý
luận Đặng Tiểu Bình, một sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với thực tiễn
Trung Quốc hiện nay và đặc trưng của thời đại chứ không có lý luận nào
khác có thể giải quyết được vấn đề tiền đồ và vận mệnh của chủ nghĩa xã
107
hội. Lý luận Đặng Tiểu Bình là chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc ngày nay, là
giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc” [18, tr.21-22].
Từ đó, trong Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc được thông qua tại Đại hội
XV nêu rõ: “Đảng Cộng sản Trung Quốc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình làm kim chỉ nam cho hành
động của mình” [18, tr.93].
Tại Đại hội XVI (2002), trên cơ sở kế thừa các thành tựu lý luận và
xuất phát từ thực tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhận thức sâu sắc hơn về
Đảng Cộng sản cầm quyền và hình thành tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”.
Đây là sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch
Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình.
Tại Đại hội XVII (2007), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra quan
điểm phát triển khoa học, lấy con người làm trung tâm, xác định mục tiêu xây
dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa. Quan điểm phát triển khoa học là lý
luận khoa học chung một dòng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao
Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”,
vừa tiến cùng thời đại, là sự thể hiện tập trung thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác về phát triển, là thành quả mới nhất của Trung Quốc
hóa chủ nghĩa Mác, là kết tinh trí tuệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là tư
tưởng chỉ đạo cần phải kiên trì và quán triệt trong phát triển chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc.
Đại hội XVIII (2012) nhấn mạnh, “Đảng Cộng sản Trung Quốc lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư
tưởng quan trọng “Ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học làm kim chỉ
nam cho hành động của mình” [20, tr.105]. Gần đây, Tập Cận Bình đề xuất
thêm quan điểm “Bốn toàn diện”(Quan điểm “Bốn toàn diện” bao gồm: xây
dựng xã hội khá giả toàn diện, cải cách sâu sắc toàn diện, quản lý đất nước
bằng pháp luật toàn diện, quản lý đảng nghiêm khắc toàn diện), coi đó là yếu
tố sống còn của sự nghiệp “phục hưng Trung Quốc vĩ đại”.
108
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới đất nước, cùng với việc trung thành,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng khẳng định vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là hệ
thống tư tưởng lý luận giữ vai trò nền tảng tư tưởng của Đảng. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua
tại Đại hội VII (1991) đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Đến Đại hội IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lần đầu tiên đưa ra
khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh
của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của
nhân dân... [23, tr.633].
Đại hội chỉ rõ: khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển
quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động”. Trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
chỉ rõ, Đảng phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển vào điều kiện cụ thể hiện nay của
đất nước và bối cảnh thời đại, tăng cường tổng kết thực tiễn nhằm giải đáp
109
những vấn đề đang đặt ra nhất là vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội...
Ở Lào, trong quá trình đổi mới, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn
khẳng định kiên trì với chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng. Đến Đại hội X của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016),
Đảng đã bổ sung tư tưởng Cay-xỏn Phôm-vi-hản vào nền tảng tư tưởng của
mình. Trong số 7 bài học được rút ra, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào chỉ rõ:
Kiên định đường lối đổi mới toàn diện và có nguyên tắc của Đảng, tiếp tục
phát huy tính sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu CNXH và độc lập dân
tộc, vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay-xỏn
Phôm-vi-hản, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc gắn với
việc tiếp thu tinh hoa của nhân loại.
Ở Cuba, trước đây, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hô-
xê Mác-ti được Đảng Cộng sản Cuba khẳng định là nền tảng lý luận của
Đảng. Hiện nay, Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng Cộng sản Cuba và Hội
nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã thông qua nhiều vấn đề quan
trọng về phát triển kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng. Hội nghị
toàn quốc lần thứ nhất thông qua những cơ sở cho phép Đảng Cộng sản
Cuba điều chỉnh chức năng, phương cách và phương pháp công tác chính
trị tư tưởng, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Về những tư tưởng
chỉ đạo ở Cuba, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng nhấn mạnh,
nền tảng lý luận của Đảng dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hô-xê Mác-ti, có thể bổ sung thêm những hoạt động thực tiễn của lãnh tụ
lịch sử Phi-đen Cát-xtơ- rô - Người đã để lại cho Đảng và nhân dân Cuba
quan niệm về cách mạng, phản ánh sự tổng hợp phong phú của một nhà
chiến lược, một nhà chính trị, khi khẳng định không có xã hội tốt đẹp hơn
nếu không có con người tốt hơn.
110
Tư tưởng cách mạng của Phi-đen Cát-xtơ- rô, đó là:
Cách mạng là cảm nhận được thời khắc lịch sử; là thay đổi tất cả
những gì cần thay đổi; là bình đẳng và hoàn toàn tự do; là được đối
xử và đối xử với những người khác như những con người; là tự giải
phóng bằng chính những nỗ lực của chúng ta; là đấu tranh chống
các thế lực thống trị hùng mạnh ở cả bên trong, ngoài xã hội và đất
nước; là bảo vệ bằng bất cứ giá nào những giá trị mà chúng ta tin
tưởng; là sự khiêm tốn, vô tư, lòng vị tha, tình đoàn kết và chủ
nghĩa anh hùng; là đấu tranh một cách khôn khéo, thông minh và
thực tế; là không dối trá và vi phạm những nguyên tắc đạo đức; là
sự tin tưởng sâu sắc rằng không có thế lực nào trên thế giới có thể
chà đạp được sức mạnh của sự thật và tin tưởng. Cách mạng là đoàn
kết, là độc lập, là đấu tranh vì những ước mơ công lý cho Cuba và
cả thế giới; và đó chính là cơ sở của chủ nghĩa yêu nước, của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa quốc tế của chúng ta [Dẫn theo 86].
3.3.1.2. Tính đặc thù của nhận thức mới về nhà nước
Thứ nhất, “Một nước hai chế độ” - nét đặc thù của chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra ý tưởng sáng tạo
“một nước hai chế độ”. Trong điều kiện một nước Trung Quốc, chủ thể nhà
nước là chế độ xã hội chủ nghĩa, Hồng Kông, Ma Cao vẫn được giữ nguyên
chế độ tư bản chủ nghĩa vốn có một cách lâu dài. Theo đề nghị này, mỗi khu
vực có thể tiếp tục hệ thống chính trị riêng, các vấn đề pháp lý, kinh tế và tài
chính, bao gồm cả các hiệp định thương mại và văn hóa với nước ngoài sẽ
được hưởng một số quyền nhất định.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định “quán triệt toàn diện
và chuẩn xác phương châm “một nước hai chế độ”, “người Hồng Kông quản
lý Hồng Kông”, “người Ma Cao quản lý Ma Cao”, tự trị cao độ” [20, tr.81];
111
Kiên trì nguyên tắc một nước với tôn trọng sự khác biệt của hai chế
độ, giữa bảo vệ quyền lực trung ương với việc bảo đảm quyền tự trị
cao độ của Đặc khu hành chính, giữa việc phát huy vai trò hậu
thuẫn vững chắc của nội địa Tổ quốc với việc nâng cao sức cạnh
tranh tự thân của Hồng Kông, Ma Cao không được thiên lệch bất kỳ
lúc nào [20, tr.81-82].
Chính phủ Trung Quốc kiên định ủng hộ Trưởng Đặc khu hành chính
điều hành, quản lý công việc theo pháp luật, dẫn dắt nhân sĩ các giới của
Hồng Kông và Ma Cao tập trung sức lực phát triển kinh tế, thiết thực cải thiện
dân sinh một cách hiệu quả, tuần tự tiệm tiến thúc đẩy dân chủ; bao dung hỗ
trợ lẫn nhau thúc đẩy hài hòa; làm sâu sắc thêm quan hệ kinh tế, thương mại
giữa nội địa với Hồng Kông, Ma Cao; thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực;
phòng ngừa và ngăn chặn các thế lực bên ngoài can dự vào công việc của
Hồng Kông và Ma Cao.
Đối với vấn đề Đài Loan, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định:
“thực hiện thống nhất hoàn toàn Tổ quốc, là tiến trình lịch sử không gì có thể
ngăn cản. Hòa bình thống nhất là phù hợp nhất với lợi ích căn bản của dân tộc
Trung Hoa, trong đó có đồng bào Đài Loan” [20, tr.83], “Chúng ta cần trước
sau như một kiên trì nguyên tắc một Trung Quốc đại lục và Đài Loan tuy
chưa thống nhất nhưng sự thật về việc hai Bờ cùng thuộc một nước Trung
Quốc chưa bao giờ thay đổi; lãnh thổ và chủ quyền quốc gia chưa bao giờ bị
chia cắt và cũng không được phép chia cắt” [20, tr.81].
Để thực hiện hòa bình và thống nhất, Đảng Cộng sản Trung Quốc cho
rằng, trước hết cần đảm bảo chắc chắn quan hệ hai Bờ phát triển hòa bình.
Phải kiên trì phương châm “hòa bình thống nhất, một nước hai chế độ”; quán
triệt toàn diện tư tưởng quan trọng về phát triển hòa bình quan hệ hai Bờ;
củng cố và làm sâu sắc thêm cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho sự
phát triển hòa bình quan hệ hai Bờ; tạo điều kiện đầy đủ hơn cho sự thống
112
nhất hòa bình; tiếp tục thúc đẩy giao lưu hợp tác giữa hai Bờ. Làm sâu sắc
thêm hợp tác kinh tế, vun đắp lợi ích chung. Mở rộng giao lưu văn hóa, tăng
cường sự đồng cảm của dân tộc. Thắt chặt giao lưu nhân dân, thúc đẩy đồng
bào hai Bờ đoàn kết phấn đấu; kiên quyết phản đối mưu đồ ly khai “Đài Loan
độc lập”.
Nguyên nhân của tính đặc thù này là do những phần lãnh thổ của Trung
Quốc trước đây, sau khi hết hạn với Anh và Bồ Đào Nha đã tái thống nhất trở
về với Trung Quốc. Các Đặc khu hành chính Hồng Kông và Ma Cao đã lần
lượt được chính thức thành lập vào ngày 01 tháng 7 năm 1997 và ngày 20
tháng 12 năm 1999, ngay lập tức sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(Trung Quốc) đảm nhận chủ quyền đối với khu vực tương ứng.
Thứ hai, quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của các nước có khác nhau.
Trong quá trình cải cách, đổi mới, Trung Quốc, Việt Nam, Lào đã nhận
thức và đưa ra quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cuba trong quá trình Cập nhật mô hình phát triển kinh tế - xã hội mặc dù
khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của pháp luật trong quản lý xã hội,
khẳng định xây dựng bộ máy nhà nước của nhân dân… tuy nhiên, Đảng Cộng
sản Cuba chưa khẳng định về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong văn kiện của mình.
3.3.2. Tính đặc thù của nhận thức mới về đặc trưng kinh tế
3.3.2.1. Tính đặc thù của nhận thức về kinh tế thị trường
Thứ nhất, sự khác nhau về tên gọi loại hình kinh tế thị trường
Mặc dù cùng có quan điểm về phát triển kinh tế thị trường, tuy nhiên,
tên gọi của các nước về kinh tế thị trường có sự khác nhau: Trung Quốc gọi là
“kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam và Lào gọi là “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
113
Sự khác nhau này là do khi bước vào cải cách, Trung Quốc xác định
nước này đang ở “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”, chính vì vậy, nền kinh
tế xây dựng là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, còn Việt Nam và Lào khi
bước vào đổi mới xác định đất nước đang trong “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội”, vì vậy, nền kinh tế được gọi tên là “kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Thứ hai, sự khác nhau về cấp độ chủ động, tích cực trong phát triển
kinh tế thị trường
Trung Quốc, Việt Nam, Lào tích cực, chủ động thúc đẩy phát triển kinh
tế thị trường; Cuba vẫn là kinh tế kế hoạch, tuy nhiên từng bước chấp nhận
những yếu tố của kinh tế thị trường.
Khi bước vào cải cách, Trung Quốc là nước đi đầu và sớm nhận thức
được vai trò của kinh tế thị trường đối với xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đặng
Tiểu Bình cho rằng, “giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không hề tồn
tại mâu thuẫn cơ bản” và “chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường”. Từ Đại hội
XIV, Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức nêu trong Nghị quyết, mục tiêu
cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc là “xây dựng thể chế kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa”. Từ đó đến nay, Trung Quốc tích cực, chủ động trong hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, “dốc sức kích thích sức sống
mới để phát triển các chủ thể thị trường”, tạo cơ sở để Trung Quốc hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Những thành tựu về phát triển kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc là vô cùng to lớn, góp phần quan trọng
đưa Trung Quốc từ một nền kinh tế lạc hậu, khó khăn trở thành nền kinh tế
đứng thứ 2 thế giới.
Ở Việt Nam, khi bước vào đổi mới toàn diện đất nước sớm thừa nhận
tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường. Đại hội VII của Đảng
(1991) đã đưa ra quan điểm: “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước”. Đến Đại hội IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam nêu
114
ra quan điểm về “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
coi đó là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự chuyển biến này là
một bước tiến quan trọng cả trong nhận thức và thực tiễn ở Việt Nam. Hiện
nay, Việt Nam đang đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là một trong ba khâu đột phá quan trọng đưa
Việt Nam phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.
Ở Lào, trong quá trình đổi mới đã từng bước thực hiện sự chuyển từ
kinh tế vật phẩm sang kinh tế hàng hóa, từ kinh tế vật đổi vật sang kinh tế có
sự trao đổi thông qua tiền tệ và thị trường. Đại hội IX của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào (2011) đã nêu ra quan điểm về chuyển từ nền kinh tế tự
nhiên sang nền kinh tế hàng hóa, hoàn thiện việc xây dựng kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, Lào đang tích cực, chủ động phát
triển kinh tế thị trường, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát huy hết
tiềm năng của mình, góp phần xây dựng nền kinh tế vững mạnh và hoạt
động linh hoạt.
Ở Cuba, hiện nay đang trong “quá trình cập nhật hóa mô hình kinh
tế”. Trong quá trình này, quan điểm của Đảng Cộng sản Cuba là: “Hệ thống
kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa tiếp tục là phương thức chủ yếu cho việc chỉ
đạo nền kinh tế quốc dân” [17, tr.7], tuy nhiên, cần phải thay đổi về mặt
phương pháp, tổ chức và kiểm soát. Kế hoạch hóa cần phải tính đến thị
trường, gây ảnh hưởng đối với thị trường và xem xét những đặc điểm của thị
trường. Có thể thấy, quan điểm của Đảng Cộng sản Cuba đối với kinh tế thị
trường có những thay đổi quan trọng so với trước, không phủ nhận mà chấp
nhận những yếu tố của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sự chấp nhận này còn
khá thận trọng, tiếp cận từng bước với quan điểm “không vội vã nhưng cũng
không chậm chễ”.
115
3.3.2.2. Sự khác nhau trong quan điểm của các nước xã hội chủ
nghĩa về phát triển kinh tế tư nhân
Thống nhất trong việc khẳng định vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế công hữu trong nền kinh tế, coi đó là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, các nước xã hội chủ nghĩa lại có những quan điểm
khác nhau về phát triển kinh tế tư nhân.
Ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên trì “khuyến khích,
ủng hộ, dẫn dắt” các thành phần kinh tế phi công hữu trong đó có kinh tế tư
nhân, bảo đảm cho thành phần kinh tế này được bình đẳng, cạnh tranh thị
trường một cách công bằng, được sự bảo vệ của pháp luật.
Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân từ chỗ “được phát triển, đặc biệt là trong
lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước”, đến nay được
khẳng định rõ “là động lực quan trọng của nền kinh tế”, Nhà nước hoàn thiện
cơ chế, chính sách để phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân theo quy
hoạch và quy định của pháp luật, thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế tư
nhân, khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Ở Lào, thực hiện khuyến khích “một cách mạnh mẽ hơn nữa” đối với
kinh tế hợp tác của nhân dân, kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ và vừa để
làm cho các đơn vị kinh tế này ngày càng vững mạnh, linh hoạt. Nhà nước tạo
điều kiện về vốn, thông tin, công nghệ, thị trường… để các thành phần kinh tế
hoạt động hiệu quả, đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế.
Ở Cuba, trong quá trình cập nhật mô hình kinh tế, bên cạnh doanh
nghiệp nhà nước - hình thức chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân - Cuba còn
công nhận và khuyến khích các phương thức đầu tư nước ngoài được luật
pháp cho phép, các hợp tác xã, các tiểu nông, những người sử dụng đất, người
thuê các cơ sở, những người lao động cá thể và các hình thức khác. Tuy
nhiên, trong mô hình kinh tế mới, “không cho phép việc tập trung tài sản của
những đối tượng có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân trong các hình thức quản
lý kinh tế ngoài quốc doanh” [17, tr.7].
116
3.3.2.3. Sự khác nhau trong nhận thức của các nước xã hội chủ
nghĩa về mở cửa, hội nhập quốc tế
Trung Quốc ngay khi tiến hành cải cách đã đề ra chính sách mở của,
hội nhập với quốc tế. Hiến pháp Trung Quốc thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc
hội khóa V (12 - 1982) chỉ rõ: Trung Quốc kiên trì chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, kiên trì 5 nguyên tắc chung sống hòa bình… phát triển quan hệ
ngoại giao và kinh tế với các nước. Từ đó đến nay, Trung Quốc kiên trì con
đường cải cách mở cửa, hợp tác ngày càng sâu rộng với các nước và các nền
kinh tế trên thế giới. Hiện nay, quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc là:
“nâng cao toàn diện trình độ nền kinh tế mở”, tích cực và chủ động hơn trong
việc đối phó với tình hình mới trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế; hoàn
thiện hệ thống kinh tế mở cùng có lợi, cùng thắng, cân bằng đa nguyên, an
toàn, hiệu quả. Đẩy nhanh chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế đối
ngoại. Thúc đẩy mở cửa chuyển dịch theo hướng tối ưu hóa cơ cấu, phát triển
chiều sâu và nâng cao hiệu quả. Với đường lối đó, Trung Quốc tăng cường
thu hút đầu tư và đẩy mạnh đầu tư ra rất nhiều nước trên thế giới, làm cho
tiềm lực kinh tế và vị thế của Trung Quốc không ngừng được nâng cao.
Việt Nam trong quá trình đổi mới cũng sớm đưa ra quan điểm về mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1986) đã nhấn mạnh: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế”. Tới
Đại hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với
các quốc gia, các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt
đầu được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc
“chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban
117
hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Tại Đại hội X,
Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối
ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất
quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế
quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách
toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại
hội XI. Tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng xác định:
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng
thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng
để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh
tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu
rộng và có hiệu quả [25, tr.102].
Lào “kiên trì quan điểm chủ động và có thái độ tích cực” trong việc mở
cửa, hội nhập kinh tế với các nước. Lào nhất quán duy trì đường lối đối ngoại
hòa bình, độc lập, hữu nghị, hợp tác và rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa,
đa hình thức, đa cấp độ trong quan hệ với các nước và các vùng trên thế giới,
trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi; đồng thời, hoạt
động đối ngoại, hợp tác kinh tế phải tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ở Cuba, sự bao vây, cấm vận kinh tế, thương mại và tài chính khốc liệt
do Mỹ áp đặt liên tục trong hơn nửa thế kỷ đã làm cho khả năng hội nhập kinh
tế của Cuba gặp rất nhiều khó khăn và thiệt hại về kinh tế là rất lớn. Từ cuối
năm 2004, Đảng Cộng sản Cuba đã tận dụng những khả năng mới cho hội nhập
quốc tế của Cuba mở ra trong khuôn khổ Liên minh Bolivar dành cho các dân
tộc Châu Mỹ. Đồng thời, quan hệ kinh tế, tài chính đối với các quốc gia khác
118
cũng tăng đáng kể, tiêu biểu là Trung Quốc, Việt Nam, Nga, Angola, Iran,
Brasil và Algeri. Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế, Cuba ưu tiên tham
gia Liên minh Bolivar cho các dân tộc châu Mỹ (ALBA), thực hiện nghiêm túc
và tích cực trong việc phối hợp, hợp tác và tương trợ kinh tế ngắn, trung và dài
hạn nhằm đạt và làm sâu sắc hơn các mục tiêu kinh tế, xã hội và chính trị mà
ALBA thúc đẩy. Đồng thời, Cuba cũng tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế
Mỹ Latinh và Caribe, coi đây là mục tiêu chiến lược; duy trì sự tham gia vào
các cơ chế hội nhập thương mại khu vực mà Cuba đã tham gia: Hiệp hội Hội
nhập Mỹ Latinh (ALADI), Cộng đồng Caribe (CARICOM), Hiệp hội các nước
vùng Caribe (AEC)…
Gần đây, việc Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ, nới lỏng và xóa bỏ
các biện pháp bao vây kinh tế đang tạo ra cho Cuba những thời cơ thuận lợi,
từng bước hội nhập sâu rộng hơn vào kinh tế quốc tế.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước XHCN đã vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với điều kiện cụ thể của mỗi
nước để hình thành những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Nhận thức mới
về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay là sự thống nhất biện chứng giữa
tính phổ biến và tính đặc thù, là thành quả kết hợp vận dụng lý luận Mác -
Lênin với thực tiễn cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề có tính phổ biến của CNXH chính là những nguyên lý
bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo trong bối cảnh
mới, kết hợp với những giá trị, xu hướng chung của thời đại được các nước
XHCN cập nhật. Những đặc trưng có phổ biến đó là: vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân;
mở rộng và phát huy dân chủ; tập trung phát triển lực lượng sản xuất, từng
119
bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt, xây dựng chế độ công
hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu; phát triển kinh tế thị trường
XHCN (hay kinh tế thị trường định hướng XHCN); phát triển văn hóa, xây
dựng con người… Những giá trị phổ biến này là những đặc trưng cơ bản,
phản ánh bản chất tốt đẹp của CNXH, là những giá trị, mục tiêu mà các nước
XHCN và nhân loại hướng tới.
Bên cạnh những giá trị phổ biến, sự nghiệp xây dựng CNXH hiện nay
còn chứa đựng nhiều yếu tố đặc thù, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế
của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó là vấn đề hợp tác đa đảng dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản ở Trung Quốc; nền tảng tư tưởng của Đảng ngoài chủ nghĩa
Mác - Lênin còn có những yếu tố khác nhau; “một nước hai chế độ” ở Trung
Quốc; quan điểm của các nước đối với kinh tế thị trường, đối với phát triển
kinh tế tư nhân, đối với vấn đề mở cửa, hội nhập cũng khác nhau…
Về mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù, đã được các nước
XHCN nhận thức một cách đúng đắn, khoa học, trong quá trình cải cách, đổi
mới các nước xã hội chủ nghĩa đã có sự kết hợp hài hòa hơn giữa tính phổ
biến và tính đặc thù, giữa cái chung và cái riêng tạo nên sự khác nhau giữa
các mô hình chủ nghĩa xã hội, từ đó, các nước XHCN trong đó có Việt Nam
có thể nghiên cứu, học tập và rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
120
Chương 4
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA VIỆC QUÁN TRIỆT, VẬN DỤNG NHỮNG
GIÁ TRỊ PHỔ BIẾN VÀ ĐẶC THÙ TRONG NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
4.1.1. Ý nghĩa lý luận
4.1.1.1. Trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội, cần kết hợp giữa tính
phổ biến và tính đặc thù để tìm ra con đường đúng đắn, phù hợp với từng
quốc gia, dân tộc
Thứ nhất, kiên định và vận dụng sáng tạo những vấn đề có tính phổ
biến của chủ nghĩa xã hội được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra
Học thuyết Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng, chỉ
ra những quy luật chung về sự phát triển xã hội loài người. Khi nghiên cứu
lịch sử xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, sự thay thế
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ
nghĩa tất yếu thay thế cho xã hội tư bản chủ nghĩa. Từ sự tổng kết, chắt lọc
những tri thức của nhân loại về quy luật phát triển của xã hội loài người, từ
thực tế nghiên cứu sâu sắc về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ
ra những quy luật phổ biến cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trải qua những giai đoạn lịch sử, đến nay, nhiều vấn đề có tính phổ
biến được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra vẫn giữ nguyên giá trị, là nền tảng lý
luận quan trọng cần được quán triệt và vận dụng trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội hiện nay. Những vấn đề có tính phổ biến đó là: giữ vững
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động; xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước mang bản chất giai cấp
121
công nhân, tính nhân dân và dân tộc; mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa; tập trung phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động;
xây dựng chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; thực hiện phân
phối theo lao động; xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa; thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội…
Qua nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới, cho thấy, các nước xã
hội chủ nghĩa đã quán triệt những vấn đề có tính phổ biến trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn
những nhận thức chưa đúng đắn, chưa khoa học, chưa khai thác được hết
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, còn có những cách hiểu sai, máy
móc, giáo điều, xơ cứng, đơn giản hóa chủ nghĩa Mác - Lênin… dẫn đến
những sai lầm trong thực tiễn và để lại những hậu quả ở các mức độ khác
nhau. Vì vậy, để sự nghiệp cải cách, đổi mới diễn ra thành công, các nước xã
hội chủ nghĩa hiện nay cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, khách quan và khoa
học hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của chủ nghĩa
xã hội, làm rõ, bổ sung những cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy luật
phổ biến đó trong điều kiện mới, bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin, đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch.
Cùng với việc quán triệt những nguyên lý có tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội, cần quán triệt những quan điểm có tính nguyên tắc mà chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chỉ ra khi vận dụng những nguyên lý đó vào thực tiễn, đó là:
“Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt
chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực”; việc áp dụng những nguyên lý
“phải tùy theo hoàn cảnh đương thời”; chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng
hoàn toàn không phải là cái gì đó nhất thành bất biến, mà cũng như mọi chế
độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét như một xã hội được thay đổi và cải
tạo thường xuyên, lấy thực tiễn để kiểm tra chân lý.
122
Thứ hai, bổ sung, “cập nhật” những giá trị phổ biến mới, tiến bộ của
nhân loại, làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới hiện nay
Đây là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội hiện nay. Những thành tựu của khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức,
bùng nổ thông tin, xu thế chuyển đổi phương thức phát triển từ chiều rộng
sang chiều sâu của nhiều nước, xu thế toàn cầu hóa, những vấn đề mới của
chính trị đương đại, những lý thuyết khoa học hiện đại… đã cung cấp thêm
những cơ sở, tư liệu để bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm lý luận của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Chẳng hạn, lý luận về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (hay kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa), quan niệm
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa…
Mặc khác, từ phát triển của nhân loại, từ thực tiễn cải cách, đổi mới ở
các nước xã hội chủ nghĩa đã hình thành những giá trị phổ biến mới như phát
triển kinh tế tri thức, phát triển bền vững… Các giá trị này cần được các nước
xã hội chủ nghĩa thường xuyên nghiên cứu, cập nhật trong xây dựng mô hình
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa tính phổ biến với tính đặc thù của chủ
nghĩa xã hội ở từng quốc gia dân tộc, để tìm ra con đường phát triển phù hợp
với dân tộc mình
Mỗi quốc gia dân tộc có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán…
khác nhau. Vì vậy, việc vận dụng những vấn đề có tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội vào thực tiễn mỗi nước cũng khác nhau. Cần quán triệt những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối liên hệ giữa tính phổ biến và
tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa
xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ
nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau” [53, tr.160], điều
123
này luôn đòi hỏi sự sáng tạo trước hết là của các đảng cộng sản cầm quyền,
biết kết hợp giữa tính phổ biến, với cái đặc thù dân tộc, hình thành mô hình và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội riêng, phù hợp với thực tiễn mỗi nước và
xu thế của thời đại.
Cùng với sự sáng tạo về lý luận, cách thức vận dụng cần linh hoạt, chủ
động, giải quyết hài hòa giữa cái “bất biến” và cái “vạn biến”, giữa cái phổ
biến và cái đặc thù, tránh tư tưởng cứng nhắc, dập khuôn, giáo điều… trong
nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội
4.1.1.2. Thông qua nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay, các Đảng Cộng
sản có thể học tập, nghiên cứu, trao đổi, rút kinh nghiệm để hoàn thiện
hơn nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
Từ khi tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đến nay, các nước xã hội
chủ nghĩa đã không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể mỗi nước. Đồng thời, tăng cường tổng kết thực
tiễn, bổ sung và phát triển lý luận, từ đó hình thành hệ thống lý luận mới làm
cơ sở cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội: lý luận chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, chủ nghĩa xã hội ở Cuba… Đây là sự kết tinh của bản
lĩnh, trí tuệ, sức sáng tạo, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các
đảng cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa, từ đó làm sâu sắc và phong phú
thêm lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay có ý nghĩa quan trọng, giúp các
nước xã hội chủ nghĩa có thể học tập, trao đổi, rút kinh nghiệm lẫn nhau.
Thông qua đó, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn dần được làm sáng tỏ và
khẳng định như những đặc trưng phổ biến mới của chủ nghĩa xã hội: vai trò
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa trong xây dựng xã hội chủ nghĩa; vai trò
124
của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần; tầm quan
trọng mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế và tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu; kinh nghiệm giải quyết các vấn đề quốc tế… Nhiều vấn đề có tính
đặc thù cũng được các nước nghiên cứu, tham khảo. Thông qua việc nghiên
cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi
mới, các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay cũng có thể rút ra những kinh
nghiệm như: không để cho kinh tế phát triển quá nóng; biết khai thác có hiệu
quả, hợp lý tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa
giữa tăng trường kinh tế với đổi mới chính trị, phát triển văn hóa và giải quyết
tốt các vấn đề xã hội… Từ đó, có thể tránh được những sai lầm, rủi ro, hệ lụy
trong quá trình phát triển.
4.1.2. Ý nghĩa thực tiễn
4.1.2.1. Việc kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới đã giúp các nước xã hội
chủ nghĩa đạt được những những thành tựu hết sức quan trọng củng cố
niềm tin của đảng và nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Những thành tựu đạt được ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình
cải cách, đổi mới
Trên lĩnh vực chính trị
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa từng bước
vượt qua những khó khăn, khủng hoảng, thách thức ở trong nước và sự tác
động lớn từ sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cũng như
từ diễn biến phức tạp của tình hình thế giới để luôn giữ vững được sư ổn định
chính trị, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, củng cố an ninh quốc phòng.
Các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính trị, bảo đảm và giữ vững sự lãnh đạo của đảng cộng sản, bổ sung
và phát triển lý luận về đảng cầm quyền trong điều kiện mới, nâng cao năng
125
lực, trình độ cầm quyền khoa học để đảng có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh
đạo dân tộc; tiếp tục hoàn thiện, đổi mới tổ chức, hoạt động nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, hướng tới xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quản lý đất nước theo pháp luật; phát huy
vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân trong xây dựng
xã hội; tăng cường quan hệ đối ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại.
Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đã tăng cường mở rộng và phát huy
dân chủ trong đảng và ngoài xã hội. Thành quả của cải cách, đổi mới chính là
tạo ra những điều kiện, cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình, tức là làm cho dân chủ ngày càng thực chất hơn, đúng với bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế
Trong quá trình cải cách, đổi mới các nước xã hội chủ nghĩa đã thoát ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đi vào xây dựng nền kinh tế mới. Thành
quả phát triển kinh tế của mỗi nước là khác nhau, song hầu hết nền kinh tế
của các nước xã hội chủ nghĩa đều phát triển mạnh cả về quy mô và trình độ,
những kết quả mà các nước đạt được là hết sức quan trọng và ý nghĩa.
Trung Quốc là quốc gia điển hình thành công trong phát triển kinh tế,
tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc rất ấn tượng, nhiều năm dẫn đầu thế
giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế và đạt tốc độ 10% trong suốt 3 thập kỷ qua
Năm 2010, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế
thứ 2 thế giới với giá trị nền kinh tế đạt 5800 tỷ USD (Nhật là 5474 tỷ
USD), GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4500 USD; năm 2014, theo
Báo cáo Thống kê phát triển kinh tế - xã hội nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa năm 2014 công bố ngày 26-2-2015 của Cục Thống kê Nhà nước Trung
Quốc, tính toán sơ bộ năm 2014, GDP của Trung Quốc đạt 63646,3 tỷ nhân
dân tệ (NDT), tăng trưởng 7,4% [Dẫn theo 38, tr.12]. Tuy mức tăng trưởng
này là mức thấp nhất trong vòng 24 năm qua nhưng đây là lần đầu tiên vượt
126
ngưỡng 60 nghìn tỉ NDT (tương đương 10 nghìn tỉ USD), và nó đưa Trung
Quốc trở thành thành viên thứ hai trên thế giới bước vào “câu lạc bộ 10
nghìn tỉ USD cùng với Mỹ. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới (WB),
năm 2014, quy mô nền kinh tế Trung Quốc đạt 10350 tỷ USD [99] tiếp tục
là nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới. GDP bình quân đầu người của Trung
Quốc năm 2014 đạt khoảng 7400 USD [Dẫn theo 38, tr.14].
Lào cũng đạt được những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế,
“trong những năm 1986-1990 tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình
4,8% năm. Từ 1991-1995 tăng 6,4% năm” [28, tr.2]. Trong những năm 1996-
2000, trước khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, Lào giữ được tốc độ tăng
trưởng bình quân 6,2% năm. Trong thời gian 2001 - 2005, GDP của Lào tăng
khoảng 6,2% năm. Từ 2006-2011, GDP Lào tăng bình quân 7,9%, GDP bình
quân đầu người đạt 8,7 triệu kíp tương đương với 1069 USD [30, tr.2]. Theo
Ngân hàng thế giới, năm 2014, quy mô nền kinh tế Lào đạt khoảng 12 tỷ
USD. Theo Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào năm 2016, GDP của Lào những năm qua liên
tục phát triển, thu nhập bình quân đầu người trong năm 2015 đạt 1970 USD,
vượt 16 lần so với năm 1985, tăng trưởng đạt 7,9%/năm.
Cuba gặp không ít khó khăn, thách thức do sự bao vây kinh tế của Mỹ
kéo dài hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiên, gần đây, kinh tế Cuba cũng có những thay
đổi đáng kể, Năm 2001, theo thống kê của Ngân hàng thế giới (WB), quy mô
nền kinh tế Cuba đạt 31,68 tỷ USD; năm 2005 là 42,64 tỷ USD; năm 2011 là
68,990 tỷ USD và năm 2013 nền kinh tế Cuba đạt khoảng 77,15 tỷ USD
[100]. Năm 2011, GDP bình quân đầu người của Cuba đạt khoảng 6000 USD.
Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội
Các nước xã hội chủ nghĩa đều rất quan tâm đến phát triển văn hóa - xã
hội, nhiều thành tựu quan trọng đạt được đã góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân và được thế giới đánh giá cao.
127
Ở Trung Quốc, trong quá trình cải cách, mở cửa, Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã quan tâm đến các vấn đề văn hóa - xã hội. Thành công trong cải cách
chính trị và kinh tế đã góp phần quan trọng để Trung Quốc thực hiện tốt hơn
phát triển xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Theo Công báo Thống kê tình
hình phát triển kinh tế và xã hội quốc dân nước CHND Trung Hoa năm 2014,
tính đến cuối năm tổng dân số toàn quốc trong Đại lục là 1,36782 tỉ người,
tăng thêm 7,1 triệu người so với năm trước, trong đó, dân số cư trú ở thành thị
là 749,16 triệu người, chiếm tỉ trọng 54,77% dân số. Dân số đông đặt ra
không ít khó khăn và thách thức đối với Trung Quốc trong việc thực hiện các
chính sách phát triển văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình cải cách,
Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là trong giáo dục, y
tế và an sinh xã hội.
Sự nghiệp giáo dục của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phát triển tương
đối nhanh, quy mô giáo dục ngày càng lớn. Năm 2014, Trung Quốc tuyển sinh
621.000 nghiên cứu sinh, số người đang học nghiên cứu sinh là 1,848 triệu
người, số đã tốt nghiệp là 536.000 người. Số lượng tuyển sinh vào các cơ sở
giáo dục đại học, cao đẳng phổ thông chính quy là 7,214 triệu học sinh, số
lượng đang theo học là 254,77 triệu học sinh, đã tốt nghiệp là 6,594 triệu học
sinh. Số lượng tuyển sinh vào phổ thông trung học là 7,966 triệu học sinh, đang
theo học là 24,005 triệu học sinh, tốt nghiệp là 7,996 triệu học sinh. Tuyển sinh
trung học cơ sở là 14,478 triệu học sinh, đang theo học là 43,846 triệu học sinh,
đã tốt nghiệp là 14,135 triệu học sinh. Tuyển sinh tiểu học là 16,584 triệu học
sinh, đang theo học là 94,511 triệu học sinh, tốt nghiệp là 14,766 triệu học sinh.
Số trẻ em đang học mẫu giáo là 40,507 triệu trẻ [Dẫn theo 35, tr.85].
Sự nghiệp y tế và dịch vụ xã hội không ngừng được cải thiện. Tính đến
cuối năm 2014, Trung Quốc có tổng cộng 982.443 cơ sở y tế, trong đó, có
25.865 bệnh viện, 36.899 viện y tế xã thôn, 34.264 trung tâm (trạm) dịch vụ y
tế cộng đồng, 188.415 phòng khám bệnh (phòng y tế, trạm xá), 646.044
phòng y tế thôn, 3491 trung tâm dự phòng khống chế dịch bệnh, 2.975 cơ sở
128
kiểm nghiệm giám sát y tế. Cả nước có 2,82 triệu bác sĩ, 2,92 triệu hộ lý, 6,52
triệu giường, viện y tế xã thôn có 1,17 triệu giường [Dẫn theo 36, tr.85]. Cả
năm cứu trợ cho 13,109 triệu lượt quần chúng khó khăn ở thành thị tham gia
bảo hiểm y tế, cứu trợ cho 41,189 triệu lượt quần chúng khó khăn ở nông thôn
tham gia y tế hợp tác nông thôn kiểu mới.
Số lượng người có việc làm tiếp tục tăng. Tính đến cuối năm 2014, số
lượng người có việc làm trong cả nước là 772,53 triệu người, trong đó người
có việc làm ở thành thị là 393,01 triệu người. Số việc làm tăng mới ở thành
thị trong cả nước là 13,22 triệu người. Số lượng nông dân cả nước năm 2014
là 273,95 triệu người.
Công tác an sinh xã hội có nhiều tiến bộ mới, tính đến cuối năm 2014,
Trung Quốc có 341,15 triệu người tham gia bảo hiểm dưỡng lão. Số người
tham gia bảo hiểm y tế cơ bản là 597,74 triệu người. Số người tham gia bảo
hiểm thất nghiệp là 170,43 triệu. Số người tham gia bảo hiểm tai nạn lao
động là 206,21 triệu người. Số người tham gia bảo hiểm thai sản là 170,35
triệu người [Dẫn theo, 35, tr.84].
Ở Lào, quá trình đổi mới cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời
sống nhân dân không ngừng được tăng lên, thu nhập bình quân đầu người
trong năm 2015 đạt 1970 USD, vượt 16 lần so với năm 1985. Giáo dục và y tế
được quan tâm. Việc làm được cải thiện. Tỉ lệ hộ nghèo trong toàn quốc liên
tục giảm từ 27,7% vào năm 2003 xuống còn 20,4% vào năm 2010 [30, tr.2].
Đặc biệt, với chính sách đổi mới ngày càng mạnh mẽ, tỉ lệ hộ nghèo ở Lào
giai đoạn 2010 - 2015 đã giảm mạnh, cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo ở Lào
còn 6,59%, tỉ lệ hộ gia đình tiêu thụ điện trên phạm vi toàn quốc chiếm 89%,
100% các huyện trên phạm vi toàn quốc sử dụng điện thoại, hơn 51.597 km
đường giao thông.
Ở Cuba, cải cách kinh tế ở luôn gắn liền với việc ổn định xã hội. Trong
tình hình kinh tế khó khăn nhất, Chính phủ Cuba vẫn khẳng định: “quyết
129
không để cho một ai phải lang thang ngoài đường kiếm sống” [101], “không
ai bị bỏ rơi trong xã hội xã hội chủ nghĩa của Cuba”. Trong quá trình cải cách
kinh tế, Cuba vẫn đảm bảo chế độ miễn phí toàn dân đối với giáo dục, y tế và
bảo hiểm xã hội. Việc cải cách doanh nghiệp nhà nước đã làm cho nhiều công
nhân mất việc. Để đảm bảo cuộc sống cho họ, chính phủ quy định: “những
công nhân mất việc được hưởng 60% lương gốc 4 năm và khi họ kiếm được
việc làm thì mức lương mới không được thấp hơn 80% lương gốc của họ
trước đây” [101]. Có thể coi đây là một kỳ tích, một nét rất độc đáo trong quá
trình cải cách kinh tế của Cộng hòa Cuba.
Hơn 50 năm qua, ngành giáo dục và y tế Cuba đã có bước tiến vượt bậc
về số lượng và chất lượng, được nhiều nước và các tổ chức quốc tế đánh giá
cao. Sau khi cách mạng thành công, từ một quốc gia có tới 30% số dân không
biết đọc, biết viết, ngày nay Cuba trở thành điểm sáng về giáo dục ở khu vực
và trên thế giới với tỷ lệ người mù chữ chỉ còn 0,2% trong tổng số 11,2 triệu
dân. Giáo dục ở Cuba là miễn phí và 100% số trẻ em trong độ tuổi đi học đều
được cắp sách đến trường. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận Cuba là nước đầu tiên ở Mỹ Latinh hoàn
thành chỉ tiêu chương trình "Giáo dục cho mọi người" do Liên Hiệp Quốc đề
ra tại diễn đàn thế giới tổ chức tại Đắc-ca (Băng-la-đét) năm 2000 và xếp
nước này đứng thứ 23 trên thế giới về thành tích giáo dục. Chính phủ Cuba
luôn ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục. Ngân sách đầu tư giáo dục của nước
này chiếm tới 13,8% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), trong khi nhiều nước
Mỹ Latinh tỷ lệ này chỉ khoảng 5%. Cuba đang tiến hành cách mạng giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo ở các bậc học và thực hiện nhiều
biện pháp cải tiến giảng dạy và học tập ở trung học cơ sở. Nhiều trường đại
học của Cuba rất có uy tín trên thế giới và được nhiều sinh viên nước ngoài
theo học như các trường y, dược. Với 10.300 tiến sĩ và 45.000 thạc sĩ, Cuba là
một trong những nước đứng hàng đầu khu vực Mỹ Latinh và Ca-ri-bê về đào
130
tạo sau đại học. Trung bình, mỗi năm có khoảng 500 người nhận bằng tiến sĩ
và thạc sĩ tại nước này [50].
Cùng với giáo dục, thành tựu y tế của Cuba cũng rất đáng tự hào. Nhờ
có định hướng đúng đắn và chính sách ưu tiên phát triển y tế của Đảng và
Nhà nước Cuba, từ năm 1959 đến nay, Cuba đã đào tạo được hơn 75 nghìn
bác sĩ trong đó hơn 60 nghìn bác sĩ có bằng thạc sĩ. Hệ thống y tế và mạng
lưới các trường y, dược không ngừng được mở rộng, nâng cấp và hiện đại
hóa. Cuba hiện có hơn 300 bệnh viện, 12 viện nghiên cứu y tế, nhiều trung
tâm dưỡng lão và hơn 20 trường đại học với tỷ lệ bình quân một bác sĩ cho
khoảng 150 người, một tỷ lệ cao trên thế giới. Mặc dù kinh tế còn khó khăn,
nhưng Chính phủ Cuba vẫn duy trì và không ngừng cải thiện điều kiện an sinh
xã hội, mọi dịch vụ y tế đều được miễn phí [50].
Như vậy, những thành tựu mà các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được,
khẳng định tính đúng đắn của đường lối cải cách, đổi mới, từ đó giúp củng cố
niềm tin, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc cải cách, đổi mới, đưa đất
nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
4.1.2.2. Góp phần đấu tranh chống những quan điểm sai trái trong
nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của
chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay
Thứ nhất, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin về những giá trị phổ biến của chủ nghĩa xã hội
Trong công cuộc cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa luôn
phải đối mặt với những tư tưởng chống đối, thù địch phủ nhận chủ nghĩa Mác
- Lênin về giá trị phổ biến của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, từ sau sự thất bại
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch càng đẩy
mạnh việc chống phá, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã “lỗi thời”, “lạc
hậu”, đề cao “đấu tranh giai cấp”, chỉ phù hợp với điều kiện thế kỷ XIX,
không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay… Các thế lực thù địch cũng phủ
131
nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa xã hội, trong đó, tập trung phủ
nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gắn với vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội; phủ nhận chế
độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; phủ nhận sự kết hợp giữa chủ
nghĩa xã hội và kinh tế thị trường…
Tuy nhiên, chính từ thực tiễn cải cách, cải tổ, đổi mới ở các nước xã hội
chủ nghĩa cho thấy, những nước xã hội chủ nghĩa đã kiên định với chủ nghĩa
Mác - Lênin, với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội, vận dụng
và phát triển sáng tạo những nguyên lý đó vào thực tiễn mỗi nước đã giành
được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước vượt qua
khó khăn, khủng hoảng để phát triển. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông
Âu xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời những vấn đề có tính phổ biến của
chủ nghĩa xã hội nên bị thất bại, đổ vỡ. Như vậy, thực tiễn là thước đo, là câu
trả lời rõ nhất cho thấy chủ nghĩa Mác - Lênin, nguyên lý phổ biến của chủ
nghĩa xã hội vẫn còn nguyên giá trị và sức sống trong thời đại hiện nay. Đó
vẫn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản
để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo dân tộc mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội trong thời đại mới cần phải được tiếp tục được bảo vệ, nghiên
cứu, bổ sung, phát triển để tiếp thêm nguồn năng lượng, sức sống mới.
Thứ hai, đấu tranh chống quan điểm cực đoan mới đề cao tính đặc thù
của các quốc gia, coi nhẹ tính phổ biến và ngược lại
Nếu thời kỳ trước cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa thường
tập trung nhấn mạnh tính phổ biến mà coi nhẹ tính đặc thù, dẫn đến những hệ
quả nghiêm trọng đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thì hiện
nay, trong quá trình cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa lại đang
diễn ra một xu hướng ngược lại, đó là, tập trung nhấn mạnh cái đặc thù và coi
nhẹ cái phổ biến. Khuynh hướng này thậm chí coi lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ còn là vấn đề phương pháp luận, tham
132
khảo mà không chú ý đầy đủ đến những nguyên lý, nội dung khoa học của
học thuyết này. Đồng thời, khuynh hướng này tuyệt đối hóa cái riêng, cái đặc
thù, cho rằng hoàn toàn có thể dựa vào đó để xây dựng con đường, hướng đi
riêng cho dân tộc mình.
Khuynh hướng này đã xuất hiện ở một số nước xã hội chủ nghĩa thời
gian qua và đã có những biểu hiện tiêu cực như: phủ nhận những giá trị phổ
biến, đề cao quá mức tính đặc thù dẫn đến tư tưởng bài ngoại, chủ nghĩa dân
tộc cực đoan, coi thường quan hệ quốc tế nhất là quan hệ quốc tế của giai cấp
công nhân.
Trái ngược với khuynh hướng đề cao tính đặc thù, vẫn còn khuynh
hướng tuyệt đối hóa tính phổ biến và ngần ngại hoặc từ chối bổ sung và phát
triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học từ những thành tựu khoa học và lý
luận hiện đại. Khuynh hướng này thể hiện sự bảo thủ, trì trệ, làm mất đi tính
khoa học, tính cách mạng và tính thực tiễn của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nghiên cứu tính phổ biến và
tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay cho thấy, khuynh
hướng tuyệt đối hóa tính phổ biến hay tính đặc thù đều là những khuynh
hướng cực đoan, sai lầm. Khuynh hướng này đã, đang và có thể gây ra những
hệ quả nghiêm trọng đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong nhận
thức về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong giải
quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội
trên thực tế, các nước xã hội chủ nghĩa cần kiên quyết đấu tranh chống lại
những khuynh hướng đó, chống lại chủ nghĩa cực đoan mới, phê phán loại bỏ
tư tưởng dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi; đấu tranh chống những tư tưởng trì trệ,
bảo thủ, không chịu tìm tòi, đổi mới và xa rời thực tiễn… Từ đó, kết hợp chặt
chẽ, hài hòa giữa tính phổ biến và tính đặc thù, quán triệt những nguyên lý
phổ biến nhưng phải sáng tạo và linh hoạt cho phù hợp với thực tiễn đất nước
và bối cảnh thời đại.
133
4.2. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRÊN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
4.2.1. Ý nghĩa lý luận
4.2.1.1. Góp phần khẳng định rõ nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới là đúng đắn, vừa mang
tính phổ biến vừa mang tính đặc thù
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã căn cứ
vào những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
thực tiễn đất nước, kinh nghiệm của các đảng cộng sản và bối cảnh thời đại
để phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội nhằm giải đáp những vấn đề cấp thiết mà thực tiễn đổi mới đã đặt ra.
Qua 30 năm đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từng bước
được làm rõ.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua (6-1991), Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng, đó là xã hội:
Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới [24, tr.17-18].
Mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những đặc trưng cơ
bản đã bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội, phản ánh sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực
134
tiễn cách mạng nước ta. Đây là mục tiêu vươn tới, là định hướng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng cho hoạt động của toàn Đảng, toàn dân hướng tới xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đại
hội XI của Đảng (2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Trong
Cương lĩnh này, Đảng ta đã xác định rõ 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [25, tr.70].
Để thực hiện thành công mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ
nghĩa, tạo cơ sở để Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề ra 8
phương hướng cơ bản. Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là,
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân
135
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh:
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc
biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn: quan
hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ [25, tr.72-73].
Đại hội XI đã chỉ ra 08 mối quan hệ lớn và đến Đại hội XII, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã bổ sung, phát triển, nêu rõ 09 mối quan hệ cần nắm vững và
giải quyết, đó là:
Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất
và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước
và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ [26, tr.17-18].
136
Như vậy, qua 30 năm đổi mới, việc nhận thức về mô hình và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có những bước phát triển quan
trọng, với nhiều nội dung nhận thức mới, nhiều nội dung được làm sáng tỏ
hơn. Việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về
CNXH trên thế giới hiện nay góp phần khẳng định, nhận thức mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam về CNXH là đúng đắn, đó vừa là sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn nước ta, vừa là sự
tổng kết thực tiễn đổi mới gắn với bối cảnh thời đại, là kết quả của sự kết hợp
giữa những nguyên lý có tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học, của
CNXH hiện thực trên thế giới với tính đặc thù của dân tộc Việt Nam.
4.2.1.2. Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay góp phần bổ sung, phát
triển, hoàn thiện hơn lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Thứ nhất, từ những bài học của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế
kỷ XX; từ những thành tựu của sự nghiệp cải cách, đổi mới của các nước xã
hội chủ nghĩa trên thế giới giúp chúng ta củng cố niềm tin, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - con đường mà lịch sử và nhân dân
ta đã lựa chọn. Trong giai đoạn hiện nay, việc giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đang trở thành một vấn đề thực tiễn cấp
thiết, điều đó đòi hỏi cần tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân thế giới để bảo vệ vững chắc nền độc lập, tạo môi
trường hòa bình và điều kiện để đưa nước ta tiếp tục vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ hai, trong xây dựng mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, cần giữ vững những quy luật có tính phổ biến của chủ nghĩa xã
137
hội khoa học, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn cách mạng Việt
Nam và thế giới.
Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh,
Bởi lẽ, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Đó là tư
tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước phải trải qua chiến tranh với
hai nhiệm vụ ở hai miền Bắc - Nam; là tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở “một nước nông nghiệp lạc hậu, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”…
Khi áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, cần quán
triệt những quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về việc bổ sung những cơ sở
lịch sử có tính đặc thù cho học thuyết này. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “dù
sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng
cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được.
Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn
thể nhân loại…”; Vì vậy, cần “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của
nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông” [66, tr.465].
Bàn về mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã
hội, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập
kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là phạm
phải chủ nghĩa giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân
tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản
của các nước anh em, thì sẽ mắc phải sai lầm nghiêm trọng của chủ
nghĩa xét lại. Vì vậy, song song với việc nhấn mạnh sự quan trọng
của học tập lý luận, chúng ta phải luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc
lý luận liên hệ với thực tế [68, tr.499].
138
Khi miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, một lần nữa, Người
lại nhắc nhở rằng, “tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể một sớm một chiều”
do “ta không giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch
sử khác… Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội” [68,
tr.227-228]. Vì vậy, “Làm trái với Liên Xô, đó cũng là mácxít” [67, tr.572].
Những khẳng định đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có những giá trị lý luận
và thực tiễn trong thời đại ngày nay, tiếp tục gợi cho chúng ta suy nghĩ
nghiêm túc và sâu sắc khi bàn đến tính phổ biến và tính đặc thù, cái chung và
cái riêng của chúng ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại, thường xuyên bổ sung, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện
hiện nay.
Thứ ba, kiên trì thực hiện đường lối, mục tiêu đổi mới toàn diện đất
nước, không ngừng sáng tạo, lấy thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng
đắn của nhận thức chân lý, không ngừng tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển
lý luận, nghiên cứu những giá trị, xu hướng tiến bộ của đất nước, thời đại, để
làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ tư, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của những
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới giúp Việt Nam tham khảo
những kinh nghiệm hay, sự sáng tạo, những khảo nghiệm thành công của
các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản để từ đó bổ sung và phát
triển lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời,
cũng nhận thức rõ những tồn tại, hạn chế trong nhận thức và mô hình chủ
nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay để tránh mắc phải những sai lầm, khuyết
139
điểm; loại bỏ dần những nhận thức bảo thủ, giáo điều, không còn phù hợp
với điều kiện hiện nay.
4.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
4.2.2.1. Việc kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong quá
trình đổi mới giúp Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, từ đó, củng cố niềm tin, ý chí quyết tâm của Đảng và Nhân dân vào
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Qua 30 năm đổi mới đất nước, nhờ việc kết hợp giữa những vấn đề có
tính phổ biến với tính đặc thù của dân tộc, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Thành tựu trên lĩnh vực chính trị
Trong quá trình đổi mới, Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, phá thế bao vây, cấm vận, giữ vững được sự ổn định chính trị, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… Không ngừng xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, bảo đảm và giữ vững sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; tiếp tục
hoàn thiện, đổi mới tổ chức, hoạt động, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội,
các đoàn thể nhân dân tích cực đóng góp cho sự phát triển xã hội; tăng cường
mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội.
Thành tựu rên lĩnh vực kinh tế
Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt quá
trình đổi mới, làm cho diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, tiềm lực và quy
mô nền kinh tế tăng lên, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Khi
bước vào đổi mới (1986-1990), GDP bình quân hàng năm của Việt Nam tăng
4,4%. Gần 20 năm sau, Việt Nam đã có mức độ tăng trưởng rất ấn tượng: giai
140
đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000, mặc dù
chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, thiên tai nghiêm trọng
xảy ra liên tiếp, nhưng Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng GDP đạt 7%/năm;
giai đoạn 1991-2000 GDP tăng 7,6%/năm. Giai đoạn 2001-2005 GDP tăng
bình quân 7,34%/năm; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt
Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm; giai đoạn
2011-2015, GDP (ước) tăng bình quân 5,9%/năm [46, tr.102].
Quy mô của nền kinh tế tiếp tục tăng: năm 2012, quy mô nền kinh tế
đạt khoảng 153,3 tỷ USD; năm 2014, đạt khoảng 186,2 tỷ USD [100]; năm
2015, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 41,92 nghìn tỷ đồng, tương đương
193,5 tỉ USD.
GDP bình quân đầu người tăng, đưa Việt Nam thoát khỏi nước kém
phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình. Năm 1992, GDP bình quân
đầu người Việt Nam chỉ ở mức 140 USD. Năm 2003, GDP bình quân đầu
người mới đạt 471 USD/năm (theo giá cố định năm 1993). Đến năm 2009,
GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã vượt ngưỡng 1000 USD/năm, bắt
đầu bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê công bố ngày 26-12-2015, tăng trưởng GDP Việt Nam tăng 6,68%,
đạt mức cao nhất trong 5 năm qua, GDP bình quân đầu người của Việt Nam
ước đạt 45,7 triệu đồng, tương đương 2.109 USD. Như vậy, so với năm 1992,
GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 15 lần.
Thành tựu rên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Trong 30 năm đổi mới, Việt Nam đã luôn kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát
triển kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách, phát triển hài hòa đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Những kết quả của Việt Nam trong phát triển
văn hóa, xã hội là hết sức quan trọng, được nhân dân trong nước và thế giới
đánh giá cao.
141
Giáo dục và đào tạo của Việt Nam trong 30 năm đổi mới đã thu được
nhiều thành tựu quan trọng, quy mô, số lượng, chất lượng giáo dục được tăng
lên. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến cuối năm 2015, cả nước có
37/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi, trong đó, 12 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học mức độ 2. Tại thời điểm đầu năm học 2015 - 2016, số
giáo viên mẫu giáo là 231 nghìn người; số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng
dạy là 829 nghìn người, bao gồm: 365 nghìn giáo viên tiểu học; 313 nghìn
giáo viên trung học cơ sở và 151 nghìn giáo viên trung học phổ thông. Trong
năm học này, cả nước có 3,9 triệu trẻ em đi học mẫu giáo; 7,7 triệu học sinh
tiểu học; 5,1 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,4 triệu học sinh trung học phổ
thông. Tính đến tháng 7 năm 2014, cả nước có 472 trường đại học và cao
đẳng, với trên 2 triệu sinh viên.
Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng có nhiều tiến bộ. Hệ thống
cơ sở y tế được hình thành trong cả nước; số bác sỹ, số giường bệnh trên một
vạn dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế được nâng cao về chất lượng. Tuổi
thọ trung bình của dân số cả nước năm 2015 là 73,3 tuổi, trong đó của nam là
70,7 tuổi và của nữ là 76,1 tuổi.
Trong 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những
chính sách giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp.
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5 - 2%/năm; năm 1993, tỷ lệ hộ
nghèo cả nước còn 58,1%, đến năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%, năm
2013 còn 7,8% và năm 2015 còn 6% [46, tr.179]. Thành tựu về giảm nghèo
của Việt Nam đã được Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế công nhận và
đánh giá cao.
Trong lĩnh vực lao động - việc làm cũng đạt được nhiều kết quả quan
trọng. Mỗi năm bình quân tạo ra 1,6 triệu việc làm mới. Tính đến thời điểm
01/01/2016, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 54,61 triệu
142
người; lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 48,19 triệu. Tỷ lệ thất
nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2015 là 2,31%, trong khu vực thành
thị là 3,29%, khu vực nông thôn là 1,83%. Tỷ lệ lao động thiếu việc làm trong
độ tuổi lao động năm 2015 là 1,82%.
Về chính sách ưu đãi người có công, hiện Việt Nam có khoảng 8,8
triệu người có công, chiếm khoảng 10% dân số và khoảng 1,4 triệu người
được hưởng trợ cấp thường xuyên. Tính đến ngày 12-1-2015, đã có 95,04%
người có công được hưởng đầy đủ chế độ, chính sách; 96% gia đình có công
đạt mức sống trung bình trở lên so với mức sống chung của địa phương nơi
họ cư trú.
Hệ thống an sinh xã hội cũng được mở rộng và ngày càng hiệu quả,
trong đó có sự quan tâm đặc biệt đến những người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo. Đến năm 2014, cả nước có hơn 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc, 190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hơn 9
triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 64 triệu người tham gia bảo
hiểm y tế (chiếm gần 70,72% dân số). Tổng chi cho an sinh xã hội chiếm gần
12% GDP, có 2,7 triệu người được hưởng chính sách trợ cấp tiền mặt thường
xuyên tại cộng đồng. Số đối tượng được nuôi dưỡng, chăm sóc tại cơ sở bảo
trợ xã hội là trên 41,4 nghìn người.
Như vậy, những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được qua 30 năm đổi
mới là hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử, điều đó đã minh chứng cho việc
kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã
hội, chứng minh sự nghiệp đổi mới ở nước ta thời gian qua là đúng đắn. Điều
đó góp phần củng cố niềm tin của Đảng, của nhân dân vào con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, từ đó nâng cao quyết tâm chính trị, tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
- con đường mà lịch sử và nhân dân ta đã lựa chọn.
143
4.2.2.2. Góp phần đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù
địch trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính
đặc thù của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa
tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội còn tồn tại những khuynh
hướng, quan điểm trái ngược nhau, phản ánh những tư tưởng tả khuynh, hữu
khuynh, cực đoan, sai trái, phản động cần đấu tranh, phê phán
Thứ nhất, khuynh hướng tuyệt đối hóa chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi áp
dụng nguyên những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học vào
thực tiễn đất nước. Đây là tư tưởng bảo thủ, ngại sự thay đổi, ngại sáng tạo,
ngại tìm kiếm những nét đặc thù, không chịu chấp nhận việc bổ sung cho học
thuyết Mác - Lênin những thành quả lý luận và khoa học hiện đại, kiên trì với
xu hướng nhận thức cũ, xơ cứng, lạc hậu.
Thứ hai, khuynh hướng nhân danh “sáng tạo”, “tư tưởng đột phá”
nhằm phủ nhận, đòi thoát ly chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ những nguyên lý
phổ biến của chủ nghĩa xã hội để tìm ra con đường riêng dựa trên đặc thù
dân tộc. Khuynh hướng này biểu hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:
Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách
là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những quan điểm này
cho rằng, chính chủ nghĩa Mác - Lênin là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại
của chủ nghĩa xã hội hiện thực; chủ nghĩa Mác - Lênin là những tư tưởng
“ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp đối với Việt
Nam”; “học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác là sai lầm, lỗi thời”;
“Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng là sai lầm, bảo thủ, giáo điều”; hoặc cũng có
quan điểm cho rằng, ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh, không cần
chủ nghĩa Mác - Lênin…
144
Phủ nhận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, “chủ nghĩa tư bản là vĩnh hằng, là
chế độ cuối cùng trong lịch sử”; “Việt Nam lựa chọn con đường độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sai lầm lịch sử; nhà nước nào, chế độ
nào cũng được miễn là dân giàu, nước mạnh”; “chủ nghĩa xã hội là ảo
tưởng, không bao giờ thực hiện được”; “Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái với tự nhiên và quy luật khách quan,
là duy ý chí”…
Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực
hiện đang nguyên chính trị, đa đảng đối lập: những quan điểm này tập
trung đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, điều này quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”; phê phán bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cho
rằng: “giai cấp công nhân không thể lãnh đạo cách mạng trong điều kiện
ngày nay, chỉ có trí thức mới lãnh đạo được”, cho rằng, chỉ có đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập mới dân chủ…
Đòi thay đổi bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường đối với xây dựng chủ nghĩa
xã hội, cho rằng, “kinh tế thị trường không thể đi đôi với định hướng xã hội
chủ nghĩa, như nước với lửa”; hoặc không thể có “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”…
Phủ nhận vai trò nền tảng của chế độ công hữu trong xây dựng quan
hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, đòi xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế quốc dân, thay vào đó là vai trò của kinh tế tư nhân…
Đồng thời với việc phủ nhận những nguyên lý phổ biến, phủ nhận
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những người theo khuynh hướng này
thường nhấn mạnh cái đặc thù, cho rằng cần dựa trên điều kiện cụ thể của
đất nước để xây dựng con đường đi riêng, một số lực lượng còn đưa ra ưu
145
sách chính trị đòi “cách mạng Việt Nam ngày nay phải chuyển hẳn sang
đường lối dân tộc và dân chủ”… mà theo cách giải thích của họ là con
đường TBCN.
Những khuynh hướng chính trị này thường lợi dụng những dịp sinh
hoạt chính trị: thông qua góp ý Văn kiện Đại hội Đảng, góp ý sửa đổi Hiến
pháp… sử dụng các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng Internet…
để đưa ra những quan điểm của mình.
Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay cho chúng ta những cơ
sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đấu tranh chống lại những khuynh
hướng đó. Đồng thời, chính sự thất bại của Liên Xô và Đông Âu trong quá
trình cải tổ đã cho thấy rằng, việc xa rời những nguyên lý phổ biến là một
sai lầm nghiêm trọng của các Đảng Cộng sản, nhưng nếu áp dụng máy
móc, giáo điều những nguyên lý phổ biến đó mà không tính đến yếu tố đặc
thù thì cũng gây ra những hậu quả khôn lường.
Việt Nam trong quá trình đổi mới tiếp tục giữ vững con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý phổ biến
của chủ nghĩa xã hội khoa học đã thu được nhiều thành quả to lớn, có ý
nghĩa lịch sử đã giúp chúng ta củng cố niềm tin, khẳng định tính đúng đắn
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, khẳng định giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn của những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Mặt khác,
hiện nay, chủ nghĩa tư bản cũng đang lâm vào khủng hoảng ở hàng loạt
nước: các cuộc khủng hoảng tài chính, nợ công ở nhiều nước tư bản; vấn
đề chiến tranh, khủng bố, phân hóa giàu nghèo… đã chứng minh những
mâu thuẫn vốn có của CNTB là không thể khắc phục được, nó không thể là
146
“chế độ vĩnh hằng”, “chế độ cuối cùng trong lịch sử”, lịch sử phát triển của
nhân loại nhất định sẽ đi tới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
tiến bộ hơn.
Qua thực tiễn cải cách, đổi mới, nhiều vấn đề lý luận cũng dần được
làm sáng tỏ và trở thành những vấn đề có tính phổ biến như: xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vấn đề phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng trong nền kinh tế; vấn đề đảng
viên được làm kinh tế tư nhân… Những nhận thức mới này đã phát huy
những tác dụng to lớn, đóng góp vào thành công của sự nghiệp cải cách,
đổi mới thời gian qua. Đó cũng là minh chứng rõ nhất, phản bác lại những
quan điểm sai trái, thù địch đòi thay đổi bản chất nhà nước; phủ nhận vai
trò của kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội…
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH trên thế
giới hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên thế giới nói chung và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam
nói riêng.
Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH trên thế giới: ý nghĩa lý luận của
việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù chỉ ra rằng, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nước cần kết hợp giữa tính phổ biến và tính
đặc thù để tìm ra con đường đúng đắn, phù hợp với từng quốc gia dân tộc,
trong đó phải kiên định và vận dụng sáng tạo những nguyên lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước; bổ sung, “cập
147
nhật” những giá trị phổ biến mới, tiến bộ của nhân loại, làm phong phú thêm
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện mới hiện nay; Trên cơ sở nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của
chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa có thể trao
đổi, học tập, rút kinh nghiệm… Về mặt thực tiễn, việc quán triệt và vận dụng
những giá trị phổ biến và đặc thù trong nhận thức và xây dựng CNXH trên thế
giới đã giúp sự nghiệp cải cách, đổi mới ở các nước XHCN thu được những
thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, điều đó càng củng cố niềm tin và
thúc đẩy các nước XHCN tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới, đưa
đất nước vững bước đi lên CNXH. Đồng thời, đấu tranh chống những quan
điểm sai trái trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và
tính đặc thù trên thế giới
Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam: việc nghiên cứu tính
phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về CNXH trên thế giới có ý nghĩa
quan trọng đối với việc xây dựng mô hình và con đường đi lên CNXH, giúp
chúng ta củng cố niềm tin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; giữ vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới; kiên trì thực
hiện đường lối, mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước, tham khảo những kinh
nghiệm hay, những nét sáng tạo, những khảo nghiệm thành công của các
nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản để từ đó bổ sung và phát triển lý
luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, giúp Việt
Nam đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch trong nhận thức
và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
148
KẾT LUẬN
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước như Trung Quốc, Việt
Nam, Lào, Cuba đều kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, các nước đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về mô
hình và con đường xây dựng xã hội mới, hình thành những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội không phải là sự phủ nhận sạch trơn
đối với những nhận thức trước cải cách, đổi mới là mà sự kế thừa, bổ sung và
phát triển cho phù hợp với điều kiện mới, là kết quả của quá trình vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước,
là sự tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự
nghiệp cải cách, đổi mới đặt ra.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội bao gồm những vấn đề có tính phổ
biến được các đảng cộng sản ở các nước nhận thức, bổ sung, phát triển trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là, về vị trí, vai trò lãnh đạo của đảng
cộng sản; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; mở rộng và phát huy dân chủ; về phát triển lực lượng
sản xuất; về xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên cả 3 mặt sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối; về xây dựng nền văn hóa kết tinh những
giá trị của dân tộc và nhân loại… và những quy luật phổ biến mới, được các
đảng cộng sản rút ra trong quá trình cải cách, đổi mới như: phát triển kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức… Nhận thức mới về chủ nghĩa
xã hội cũng bao gồm những vấn đề có tính đặc thù thể hiện sự tìm tòi, sáng
tạo của các đảng cộng sản trong việc xác định con đường phát triển riêng, phù
hợp với đặc điểm mỗi nước.
Việc vận dụng những quy luật phổ biến và đặc thù trong quá trình cải
cách, đổi mới đã giúp các nước xã hội chủ nghĩa vượt qua nhiều khó khăn,
149
thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nâng cao
vị thế của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, phát triển mạnh nền kinh tế, xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới; mở rộng quan hệ đối ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại tạo tiền đề quan trọng cho đất nước bước vào một giai đoạn
phát triển mới.
Hiện nay, sự nghiệp cách mạng vĩ đại đang đặt ra những nhiệm vụ
quan trọng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi mỗi nước phải tiếp
tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới, đưa đất nước phát triển đất
nước toàn diện, đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, đối
ngoại… Để đạt được điều đó, các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng
sản tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đất nước; tăng cường tổng kết thực tiễn,
trao đổi lý luận giữa các đảng cộng sản; bổ sung, phát triển nhận thức mới
về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cần phải nắm vững bài học về kết hợp chặt
chẽ giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phát huy trí tuệ của Đảng, sức mạnh của nhân dân, đưa đất
nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam, những thành tựu quan trọng của 30 năm đổi mới
giúp chúng ta giữ vững niềm tin, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, kiên định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Hiện nay, đất
nước ta đang đứng trước những thời cơ đan xen với những khó khăn, thách
thức, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, về mặt lý luận
phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện đặc thù của dân tộc, mặt khác, phải
tăng cường tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm với các đảng cộng sản,
150
hoàn thiện hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội. Về mặt thực tiễn, cần tăng cường
công tác xây dựng Đảng để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người;
bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển… hướng tới xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thế Tùng (2015), "Chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu - lý luận, thực
tiễn và ý nghĩa đối với Việt Nam", Tạp chí Thông tin khoa học lý luận
chính trị, 3(4), tr.35-41.
2. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Bàn thêm về vận dụng lý luận
mácxít về hình thái kinh tế - xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, (293), tr.44-46.
3. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Quan niệm mới của các học
giả Nga về chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Tuyên giáo, (4), tr.19-22.
4. Vũ Thế Tùng (2015), "Những điểm tương đồng và khác biệt trong nhận
thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa
học Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những vấn đề lý
luận và thực tiễn, cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, tr.83-95.
5. Đỗ Thị Thạch, Vũ Thế Tùng (2015), "Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước",
trong cuốn Đại thắng mùa xuân 1975 sức mạnh đoàn kết thống nhất
non sông, cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Nxb Lý luận chính trị, tr.16-25.
6. Vũ Thế Tùng, Trịnh Văn Hiệp (2016), "Một số quan điểm của Đảng về chủ
nghĩa xã hội (1976-2011)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (302), tr.61-66.
7. Vũ Thế Tùng (2016), "Quan điểm của các nước xã hội chủ nghĩa về phát
triển kinh tế thị trường", Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, (12).
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. M. Ru-mi-an-txép (1986), Chủ nghĩa cộng sản khoa học Từ điển, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
2. Admi Valhuerdi Cepero (2013), “Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba và
công cuộc cập nhật hóa mô hình kinh tế Cuba”, Đảng Cộng sản lãnh
đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô hình phát triển kinh tế
- xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.166-178.
3. Trần Thị Phúc An (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Đức Bách (2005), "Một số vấn đề lý luận về mục tiêu - con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần được làm rõ hơn",
Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, Nxb
Lý luận Chính trị, Hà Nội, tập 1, tr.154-172.
5. Hoàng Chí Bảo (chủ biên) (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hoàng Chí Bảo (2012), Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hoàng Chí Bảo (2012), Giá trị bền vững và sức sống của chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Bình (chủ biên) (2003), Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
9. Nguyễn Đức Bình (chủ nhiệm) (2006), Về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng quan đề tài KX 01-01,
Hà Nội.
10. Nguyễn Đức Bình (2010), Vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153
11. Bosẻngkhăm Vôngđala (2013), “Một số điểm nổi bật về đổi mới văn hóa
- xã hội tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Hội động Lý
luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong
quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Chalơn Diapaohơ (2013), “Củng cố quyền lực Nhà nước ở Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào”, Hội động Lý luận Trung ương, Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công cuộc
đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Trọng Chuẩn, Hồ Sĩ Quý và Phạm Văn Đức (1997), Những
quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Chương Xổm Bun Khẳn (2013) “Tiếp tục đổi mới là sự nghiệp, nhiệm
vụ và trách nhiệm cao cả của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào”, Hội
động Lý luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu
trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Phạm Đình Đảng (2000), Tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa
xã hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Cuba (1997), Điều lệ Đảng Cộng sản Cuba (được sửa
đổi và thông qua tại Đại hội V, tháng 10/1997), Bản dịch của Ban
Đối ngoại Trung ương.
17. Đảng Cộng sản Cuba (2011), Nghị quyết về định hướng chính sách kinh
tế, xã hội của Đảng và Cách mạng, Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba,
bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương.
18. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XV Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154
19. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2013), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,
VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản và Công nhân các nước xã hội chủ nghĩa (1958), Cương
lĩnh của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tại Đại hội lần
thứ VI, Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương, Hà Nội.
29. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương tại Đại hội VII Đảng Nhân dân Cách mạng Lào,
Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương, Hà Nội.
30. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào khóa VIII tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, bản dịch của Ban Đối
ngoại Trung ương.
155
31. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương.
32. Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực (đồng chủ biên) (2013), Tính phổ
biến và đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Gennady Zyuganov (2016), "Nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội - một
xu hướng không thể cưỡng lại", Tạp chí Lý luận Chính trị, (2), tr.3-12.
34. Vương Ngọc Giác (2015), “Tư duy chiến lược “bốn toàn diện”: phát
triển mới của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”,
Thông tin những vấn đề lý luận, (12), tr.32-43.
35. Nguyễn Thanh Giang (2015), "Công báo thống kê tình hình phát triển
kinh tế và xã hội quốc dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
2014, Nghiên cứu Trung Quốc, (7), tr.83-87.
36. Nguyễn Thanh Giang (2015), "Công báo thống kê tình hình phát triển
kinh tế và xã hội quốc dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
2014", Nghiên cứu Trung Quốc, (8), tr.85-88.
37. Vũ Văn Hiền (2014), Việt Nam và thế giới đương đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Thu Hiền, Võ Thị Minh Lệ (2015), “Kinh tế Trung Quốc
năm 2014 và triển vọng 2015”, Nghiên cứu Trung Quốc, 4 (164),
tr.12-19.
39. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2001), Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Trương Duy Hòa (2012), Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế
của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Hội đồng Lý luận Trung ương (2013), Đảng Cộng sản lãnh đạo quá
trình đổi mới ở Việt Nam, cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế -
xã hội tại Cuba Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
156
42. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách Khoa Việt Nam
(1995), Từ điển Bách Khoa Việt Nam 1, Trung tâm biên soạn Từ điển
Bách Khoa, Hà Nội.
43. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết
học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Huyên (2011), "Mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Lý luận chính trị, (8).
45. Nguyễn Văn Huyên (2012), Giải phóng, đổi mới phát triển vì chủ nghĩa
xã hội, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
46. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Trương Lôi Khắc, Tự Lập Bình (1997), Lịch sử, hiện trạng, tương lai
chủ nghĩa xã hội”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Lưu Ngọc Khải (2013), "Về tính phổ biến và tính đặc thù trong đổi mới
chủ nghĩa xã hội hiện nay", Tạp chí Triết học, (1).
49. Không rõ tên (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
50. Không rõ tên (2012), Những thành tựu giáo dục và y tế nổi bật ở Cuba,
tại trang http://www.baomoi.com, [truy cập ngày 20/10/2015].
51. Bùi Thị Ngọc Lan (2015), "Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ
Latinh - thực trạng và triển vọng", Thông tin khoa học Lý luận chính
trị, tr.48-52.
52. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
53. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
54. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
55. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
56. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
57. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
157
58. Trang Phúc Linh (chủ biên) (2004), Lịch sử chủ nghĩa Mác, tập 4, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2009), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận
mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
60. Phạm Quý Long (2009), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong
thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
61. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
62. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
63. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
64. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
65. Maria De Jesús Calderius Fernández (2013), “Vai trò lãnh đạo và kiểm tra
của Đảng đối với Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh”,
Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô
hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.207-218.
66. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Vũ Trung Mỹ (2016), “Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng
tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững”,
Tạp chí Cộng sản, (883).
70. Nguyễn Thị Ngân (2011), “Quan điểm của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và
nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Tạp chí Tuyên Giáo, (5).
158
71. Lê Hữu Nghĩa và các cộng sự (2013), Xây dựng đảng cầm quyền trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Nguyễn An Ninh (chủ biên) (2006), Về triển vọng chủ nghĩa xã hội trong
hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyễn An Ninh (2010), Những nhân tố mới tác động đến triển vọng
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Nguyễn An Ninh (2012), Về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của
khu vực Mỹ la tinh hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Nguyễn An Ninh (2015), “Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay”, Tạp chí Thông tin Lý
luận chính trị, (3), tr.10-17.
76. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Quyết (2015), “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, (3), tr.42-47.
77. Nguyễn Văn Oánh (1996), “Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa”,
Tạp chí Cộng sản, (4), tr.16-19.
78. Nguyễn Văn Oánh (1996), “Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Tạp chí Công tác tư tưởng - văn hóa, (5).
79. Nguyễn Văn Oánh (2015), Chủ nghĩa xã hội - Lịch sử và hiện đại. Ý
nghĩa đối với Việt Nam, Hội thảo khoa học Nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.1-9.
80. Nguyễn Quốc Phẩm (2006), “Đại hội X tiếp tục làm sáng tỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
81. Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch (2012), Nhận thức mới về chủ nghĩa
xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
159
82. Nguyễn Quốc Phẩm, Nguyễn Chí Dũng (2015), Những vấn đề cấp bách
trong vận dụng, phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hoàng Phê (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức
lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (1998), Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
86. Roberto Montesino Perez (2014), “Cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã hội
và tăng cường công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Cuba”, Tạp chí
Lý luận và thực tiễn.
87. Rosario Pentón Diaz (2013), “Về vai trò của Đảng Cộng sản Cuba trong
cuộc cập nhật mô hình xã hội chủ nghĩa Cuba quá trình lịch sử”.
Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô
hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.67-77.
88. Tô Huy Rứa (2010), Bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 của Đảng
- Cơ sở lý luận và thực tiễn, Đề tài KX.04.01/06-10, Cơ quan chủ trì:
Hội đồng Lý luận Trung ương.
89. Salvador Valdés Mesa (2014), “Hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, con đường
duy nhất để củng cố vững chắc nền độc lập, tự do, phát triển, phúc lợi,
sự công bằng và công lý xã hội”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn, (16).
90. Đỗ Tiến Sâm (chủ biên) (2008), Trung Quốc với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Đỗ Tiến Sâm (2009), “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình
hình thành và phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (12).
160
92. Sinlavông Khutphaithun (2013), “Các yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành
công của việc đổi mới kinh tế”, Hội đồng Lý luận Trung ương, Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công
cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Trần Lập Tân, Trần Tuyết Cường (1997), “Ba phát triển trọng đại về lý
luận giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Lý luận và cải cách.
94. Tạ Ngọc Tấn (chỉ đạo biên soạn) (2013), Những tranh luận mới của các
học giả Nga về chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2015), Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những
vấn đề lý luận từ công cuộc đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
96. Đỗ Thị Thạch (2011), “Mô hình (đặc trưng) chủ nghĩa xã hội trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011)”, Tạp chí Khoa học chính trị, (2).
97. Trần Thành (2013), Chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những quan điểm lý
luận cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
98. The World Bank (2015), tại trang http://data.worldbank.org/country/cuba,
[truy cập ngày 12/8/2015].
99. The World Bank (2015), tại trang http://data.worldbank.org/en/country/china,
[truy cập ngày 12/8/2015].
100. The World Bank (2015), tại trang http://data.worldbank.org
/indicator/NY.GDP.MKTP.CD, [truy cập ngày 10/9/2015].
101. Thông tấn xã Việt Nam (2013), "Về quá trình cải cách và mở cửa ở
Cuba", Tin tham khảo chủ nhật, ngày 12/1/2013.
102. Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Khánh Bật (đồng chủ biên) (1998), Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Trịnh Quốc Tuấn (Chủ nhiệm) (2001), Về chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc - những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi
mới ở nước ta. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ.
161
104. Trịnh Quốc Tuấn (2008), Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
105. Đinh Công Tuấn (2011), Mô hình phát triển Bắc Âu, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
106. Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Đổng Liên Tường (2010), Cải cách xã hội Trung Quốc và những sáng tạo,
đổi mới trong xây dựng Đảng cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Văn kiện Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế tại
Mátxcơva (1961), Nxb Sự thật, Hà Nội.
109. Văn tuyển Đặng Tiểu Bình (1995), quyển 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Chu Thượng Văn, Chu Cẩm Uy và Trần Tích Hỷ (1999), Chủ nghĩa xã
hội là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?
111. Xỉlửa BunKhăm (2004), Xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.