Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 20/12)
VN - Index 956,41 0,44%
HNX - Index 102,42 0,41%
D.JONES CK Mỹ 28.455,09 0,28%
STOXX CK C.Âu 3.776,56 1,00%
CSI 300 CK TQ 4.017,25 0,25%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 23/12)
SJC Ng.đ/L 41.660 0,07%
Quốc tế USD/Oz 1.474,70 0,24%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.159 0,00%
EUR/USD 1,1077 0,38%
Dầu
WTI USD/th 60,41 1,13%
Theo các chuyên gia, sau khi Moody’s hạ
triển vọng tín nhiệm Việt Nam, đương nhiên
các tổ chức, DN tại Việt Nam, trong đó có các
NH Việt Nam được Moody’s xếp hạng đều bị
hạ triển vọng tín nhiệm. Vì các tổ chức này
thông thường gắn với trần xếp hạng tín nhiệm
quốc gia. Khi trần xếp hạng tín nhiệm quốc
gia bị hạ thì các tổ chức này vẫn sẽ bị hạ theo.
Còn hệ thống NH vẫn rất ổn, thậm chí năm
nay còn có xu hướng tốt lên.
Tin nổi bật
Moody’s hạ triển vọng tín nhiệm không phải vì
Việt Nam thiếu tiền trả nợ
Không ngạc nhiên khi Moody’s hạ triển vọng ngân
hàng Việt?
Cao điểm tái cơ cấu ngân hàng năm 2020
Thủ tướng đối thoại với lãnh đạo hơn 1.000 doanh
nghiệp
Dòng tiền rời đi cao kỷ lục, Trung Quốc lo sợ kịch
bản 4 năm trước lặp lại, khi hàng trăm tỷ USD dự
trữ "bốc hơi"
Thứ Hai, ngày 23/12/2019
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Không ngạc nhiên khi Moody’s hạ
triển vọng ngân hàng Việt?
Đó là ý kiến của các chuyên gia khi nhận định về việc tổ chức xếp hạng
tín nhiệm Moody's Investors Service (Moody's) thông báo hạ triển vọng
tín nhiệm của 18 ngân hàng tại Việt Nam vào sáng ngày 20/12/2019.
Đánh giá về việc này, TS. Đinh Thế Hiển - Chuyên gia kinh tế cho biết,
việc Moody’s hạ bậc tín nhiệm các ngân hàng Việt Nam là không ngạc
nhiên. Do trước đây, Việt Nam đã có giai đoạn bùng nổ nợ xấu gắn liền
với bất động sản. “Vào năm 2012, trong lúc các ngân hàng vẫn báo cáo
nợ xấu trong khoảng an toàn dưới 3%. Lúc đó, Fitch đã đưa tỷ lệ nợ xấu
1 số ngân hàng có thể lên đến 14% nhưng một số chuyên gia và ngân
hàng trong nước không đồng ý. Tuy nhiên sau đó phải thừa nhận việc
này và buộc thành lập công ty VAMC xử lý nợ xấu.
Đến bây giờ, số nợ xấu của giai đoạn 2010-2012 vẫn chưa xử lý ổn thỏa.
Nhắc lại để thấy rằng giữa báo cáo ngân hàng và thực tế có thể có chênh
lệch, và thường nằm trong giai đoạn đẩy mạnh tín dụng bất động sản.
Quan sát tín dụng bất động sản, từ năm 2013-2015 tương đối tốt, tỷ lệ
tăng trưởng tín dụng khoảng 12%. Đến năm 2016-2018, tín dụng tăng
rất mạnh, đến 17-18%. Dòng tiền đổ vào bất động sản rất mạnh, giá bất
động sản tăng cao ở tất cả các phân khúc. Đến đầu năm 2019 thì NHNN
siết chặt tín dụng bất động sản, tín dụng chỉ tiêu xuống 12%, các quy
định về cho vay bất động sản đều tăng mức độ quản lý rủi ro để khống
chế tín dụng bất động sản. Có nghĩa là NHNN thừa nhận rằng các năm
gần đây tín dụng bất động sản tăng trưởng quá mạnh, làm gia tăng rủi
ro. Như vậy, với tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng công bố vẫn trong hạn
an toàn và việc Moody’s hạ thấp bậc tín nhiệm các ngân hàng Việt Nam
cho thấy sự chênh lệch. Và độ chênh lệch đó gắn với tăng trưởng tín
dụng mạnh và gắn với bất động sản, sau đó NHNN mới chỉ đạo siết tín
dụng bất động sản. Do đó, việc Moody’s hạ bậc tín nhiệm hoàn toàn
không ngạc nhiên”.
Trong khi đó, TS. Cấn Văn Lực - Cố vấn cấp cao Chủ tịch HĐQT Ngân
hàng BIDV chia sẻ, sau khi Moody’s hạ triển vọng tín nhiệm Việt Nam,
đương nhiên các tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam, trong đó có các
ngân hàng Việt Nam được Moody’s xếp hạng đều bị hạ triển vọng tín
Tài chính – Ngân hàng
3
nhiệm. Vì các tổ chức này thông thường gắn với trần xếp hạng tín nhiệm
quốc gia. Khi trần xếp hạng tín nhiệm quốc gia bị hạ thì các tổ chức này
vẫn sẽ bị hạ theo. Còn hệ thống ngân hàng vẫn rất ổn, thậm chí năm
nay còn có xu hướng tốt lên.
Cao điểm tái cơ cấu ngân hàng
năm 2020
Năm 2020 đang đến gần. Hệ thống các TCTD Việt Nam chỉ còn đúng 1
năm để hoàn thành nhiều yêu cầu, mục tiêu lớn đặt ra trong Đề án “Cơ
cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”.
Tại thời điểm này, ngay ở một trường hợp cụ thể, có lộ trình định rõ,
nhưng vẫn chưa thể thực hiện như nêu trong Đề án. Đó là trường hợp
VAMC. Đầu mối từng có vai trò lớn nhất trong gánh vác trên 300.000 tỷ
đồng nợ xấu các TCTD bán sang những năm qua chỉ có vốn điều lệ
2.000 tỷ đồng. Định hướng chuyển sang mua nợ theo giá thị trường, tham
gia xử lý nợ xấu thực chất cho hệ thống, thế nhưng đến nay vẫn chưa
có bất kỳ thông tin nào tăng vốn được công bố.
Mở rộng ra, tương tự, phương án và mục tiêu tăng vốn tại VietinBank và
Agribank cũng không thể thực hiện cho đến nay. Còn lại 1 năm nữa,
phương án bố trí nguồn và tăng vốn vẫn chưa rõ ràng. Trong khi đó, đây
là hai trụ cột của hệ thống. Kết quả tích cực nhất trong thực hiện Đề án
đến lúc này là áp dụng Basel II. Đề án đặt mục tiêu có 12-15 ngân hàng
thương mại đạt chuẩn mực này đến 2020, thì đến 2019 đã có 18 thành
viên áp dụng trước hạn. Mục tiêu tiếp theo, đến 2020 có ít nhất từ 1 đến
2 ngân hàng thương mại nằm trong top 100 ngân hàng lớn nhất trong
khu vực châu Á. Kết quả sẽ phải chờ bảng xếp hạng năm tới, còn hiện
Việt Nam có nhóm “Big 4” đạt quy mô tổng tài sản vượt trên 1 triệu tỷ
đồng mỗi thành viên.
Theo Đề án, cao điểm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tập
trung trong năm 2020, với những mục tiêu lớn và cả những sức ép lớn.
Trước hết, như định hướng thời gian qua, năm tới các ngân hàng thương
mại cổ phần còn lại sẽ phải thực hiện niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng
khoán. Bao trùm và áp lực nhất là mục tiêu đến 2020 toàn hệ thống phải
đưa được nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện
các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%. Tỷ lệ này từng được đề cập
trong năm 2019 vào khoảng 4,8-5%. Mục tiêu trên còn gặp thách thức
đi kèm là yêu cầu phải phân bố số lãi dự thu của các khoản nợ xấu của
TCTD chưa thoái theo quy định ghi nhận đến thời điểm 31/12/2016 theo
quy định của pháp luật.
4
Còn thách thức lớn nhất đề ra tại Đề án, cũng như dồn thực hiện trong
năm 2020 - năm còn lại của lộ trình, là xử lý dứt điểm các ngân hàng
thương mại yếu kém. Điểm nổi bật trong Đề án ngay từ khi ban hành hồi
tháng 7/2017 đã được chú ý là Chính phủ đã nêu cả các biện pháp giải
thể, phá sản theo quy định của pháp luật khi thực hiện tái cơ cấu giai
đoạn này. Đây có thể nói là mục tiêu, yêu cầu được chú ý nhất trong
năm 2020 theo lộ trình của Đề án.
Trong năm 2019, cũng như trước đó, có những thông tin về việc đàm
phán với đối tác nước ngoài, những cuộc tiếp xúc cụ thể…, nhưng đến
nay chưa có hiện thực nào về cú hích lớn tái cơ cấu ở đây. Trong khi đó,
vừa qua đã có trường hợp phải thông báo tìm đối tác có nguồn lực để có
thể có một hướng tháo gỡ nào đó.
Ngân hàng 'ngóng' room tín dụng
mới
Trong bối cảnh dư nợ tín dụng đã tăng kịch hạn mức (room) được cấp
từ đầu năm nay, nhiều ngân hàng sốt ruột “ngóng” thông tin nới room từ
NHNN và cả room tín dụng năm 2020. OCB, VIB, TPBank,
Techcombank... là những ngân hàng sớm cạn room tín dụng trong 3 quý
đầu năm 2019. Trong đó, OCB, VIB đặt mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín
dụng cả năm nay lần lượt ở mức 30% và 35%, nhưng chỉ được cấp hơn
phân nửa. Cả năm 2019, NHNN mới chấp thuận tăng hạn mức tăng
trưởng tín dụng cho ACB từ 13% lên 17%, VPBank từ 12% lên 16%,
Techcombank từ 13% lên 17%, MB từ 13% lên 17%. Nhiều ngân hàng
khác đã hoàn tất chuẩn Basel II là Vietcombank, VIB, OCB, TPBank và
MSB, song đến nay chưa có thông tin nới room.
Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng các tháng cuối năm 2019 của Công
ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BSC) đánh giá, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống có thể sẽ đạt 12-
13%, chủ yếu do nhu cầu tín dụng giảm ở nhiều ngành nghề kinh doanh
đang gặp khó khăn (bất động sản, thép...), nhu cầu tín dụng mảng khách
hàng cá nhân có thể bị ảnh hưởng do nền kinh tế đang giảm tốc. TS.
Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính, ngân hàng cho rằng, khả năng tăng
trưởng tín dụng năm 2019 là hơn 13%. Các ngân hàng, nhất là những
ngân hàng sớm cạn room tín dụng, đang chờ năm tài chính 2019 kết
thúc để bắt đầu mở rộng cho vay.
Việc giảm mục tiêu tăng trưởng tín dụng là phù hợp với chủ trương “nắn”
dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát vốn ngân hàng ở lĩnh
vực bất động sản. Theo TS. Trần Du Lịch, thành viên Tổ Tư vấn kinh tế
5
của Thủ tướng, việc giảm mục tiêu tăng trưởng tín dụng là phù hợp với
chủ trương “nắn” dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát vốn
ngân hàng ở lĩnh vực bất động sản.
6
Thủ tướng đối thoại với lãnh đạo
hơn 1.000 doanh nghiệp
Sáng 23/12, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đối thoại với cộng đồng
doanh nghiệp lần thứ ba kể từ đầu nhiệm kỳ. Theo ban tổ chức, sự kiện
năm nay thu hút khoảng 1.600 đại biểu lãnh đạo hơn 1.000 doanh nghiệp
khắp cả nước. Ngoài ra còn có đại diện các hiệp hội ngành nghề, tổ chức
quốc tế. Khoảng 200 đại biểu đến từ các bộ, ngành cũng sẽ tham dự
buổi đối thoại cùng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Bên lề hội nghị sẽ có
triển lãm trưng bày các thành tựu kinh tế, sản phẩm hàng hóa tiêu biểu
của cộng đồng doanh nghiệp.
Người đứng đầu Chính phủ sẽ lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp,
chuyên gia, hiệp hội, tổ chức quốc tế đề xuất các giải pháp để thúc đẩy
lực lượng doanh nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững trong bối cảnh
hội nhập quốc tế. Sau đó, Thủ tướng sẽ cùng một số bộ trưởng, trưởng
ngành đối thoại, trả lời câu hỏi của cộng đồng doanh nghiệp trong việc
đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh an toàn và thuận lợi, các chính
sách, chương trình, hành động hỗ trợ phát triển…
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan được Thủ tướng giao tổ chức hội nghị,
cho biết Chính phủ muốn truyền tải thông điệp: “Thế giới đang thay đổi,
hội nhập mạnh mẽ, thách thức về môi trường, các vấn đề xã hội ngày
một phức tạp, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân cần tăng cường
đoàn kết, liên kết sức mạnh, phát huy lòng tự hào dân tộc để phát triển
lớn mạnh, đồng thời có trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội, với quốc
gia, dân tộc, tạo dựng đất nước độc lập, tự chủ, bền vững và hùng
cường”.
Từ đầu nhiệm kỳ, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng
liên tục. Trung bình giai đoạn 2016-2019, mỗi năm có trên 126.000
doanh nghiệp thành lập mới. Năm 2019, dự kiến đạt 136.000 doanh
nghiệp thành lập mới, tổng số vốn đăng ký khoảng 1,7 triệu tỷ đồng. Cả
nước đang có khoảng 760.000 doanh nghiệp, tiến sát mục tiêu 1 triệu
vào năm 2020.
Kinh tế Việt Nam
7
Moody’s hạ triển vọng tín nhiệm
không phải vì Việt Nam thiếu tiền
trả nợ
Việc Moody’s hạ triển vọng tín nhiệm của Việt Nam không phải là vì Việt
Nam thiếu tiền trả nợ mà vì những thủ tục, quy trình, trình tự ở Việt Nam
đối với vấn đề này dường như quá phức tạp, rắc rối và trong nhiều trường
hợp nó gây ra ảnh hưởng tiêu cực không cần thiết, TS. Ousmane Dione,
Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam nói. “Đây là một hồi chuông cảnh
tỉnh”, TS.Ousmane Dione bình luận như vậy khi trả lời phỏng vấn của
Thời báo Ngân hàng về thông báo của Moody’s. “Moody’s hạ tín nhiệm
của Việt Nam không phải là vì Việt Nam thiếu tiền để trả nợ đúng hạn.
Việc Việt Nam chậm trả nợ lần này nói lên tình trạng thủ tục, quy trình,
trình tự ở Việt Nam quá là phức tạp, rắc rối và trong nhiều trường hợp nó
gây ra ảnh hưởng tiêu cực một cách không cần thiết”. “Có thể gọi đây là
một vết thương mà mình tự gây ra”, ông nói.
“Rõ ràng đây là sự chậm trễ vì thủ tục, vì trình tự. Tôi nghĩ rẳng nó có
thể sửa chữa được bằng một vài cách khác nhau”, ông Ousmane Dione
nói. Thứ nhất, theo ông, quy định, luật pháp của Việt Nam cần phải được
hài hòa, thống nhất với nhau hơn. “Chúng ta thấy là có quá nhiều cơ
quan cùng làm một việc hoặc là có những việc chẳng có cơ quan nào
làm”, ông nói. Thứ hai, làm thế nào để các quy trình, trình tự thủ tục hành
chính được đơn giản hóa hơn và nó hiệu quả hơn. Hiện nay, có quá nhiều
cơ quan phải cùng phê duyệt một khoản thanh toán nào đấy với quá
nhiều quy trình thủ tục làm mất nhiều thời gian dẫn đến tình huống mà
Việt Nam đang gặp phải. Thứ ba, Chính phủ Việt Nam đã mở cổng dịch
vụ công trực tuyến thì cần mở rộng nhiều dịch vụ công trực tuyến hơn
nữa, ví dụ như một người quê ở Quảng Nam, sống ở Hà Nội không cần
phải quay về Quảng Nam để được cấp giấy phép lái xe... Cải thiện được
3 điểm này thì Việt Nam sẽ không gặp phải vấn đề như hiện nay.
8
Dòng tiền rời đi cao kỷ lục, Trung
Quốc lo sợ kịch bản 4 năm trước
lặp lại, khi hàng trăm tỷ USD dự
trữ "bốc hơi"
Bắc Kinh đang đẩy mạnh cuộc chiến ngăn chặn tiền chảy ra khỏi Trung
Quốc vì đất nước này hiện phải đối mặt với những tai ương kinh tế và
căng thẳng chiến tranh thương mại (dù đã giảm bớt nhưng không có
dấu hiệu chấm dứt hoàn toàn). Theo các nhà phân tích, tiền đã rời khỏi
quốc gia này với một con số kỷ lục vào đầu năm nay thông qua các
kênh trái phép. Vào cuối tuần trước, cơ quan quản lý ngoại hối nhà nước
(SAFE) đã bắt đầu "mạnh tay" với việc nguồn vốn bị chảy ra nước ngoài.
"Việc kiểm soát dòng tiền chảy ra nước ngoài ngày càng khắt khe hơn",
Alicia Garcia Herrero, nhà kinh tế trưởng phụ trách khu vực châu Á Thái
Bình Dương tại Ngân hàng Natixis, cho biết.
Nguy cơ dòng vốn bị chảy ra nước ngoài bắt nguồn từ những lo ngại về
nền kinh tế của đất nước này bị tổn thương do nhu cầu trong nước giảm
và cuộc chiến thương mại với Mỹ vẫn kéo dài. Ngân hàng nhân dân
Trung Quốc cũng cho phép đồng nhân dân tệ yếu đi, như là một cách
giúp nước này chống lại tác động của thuế quan cao hơn từ Mỹ đối với
hàng xuất khẩu của họ. Tuy nhiên, một đồng tiền yếu hơn làm tăng nguy
cơ mọi người sẽ cố gắng chuyển tiền ra khỏi đất nước, khiến giá trị của
đồng nhân dân tệ có thể còn bị đẩy xuống thấp hơn nữa.
"Trung Quốc cũng đã cố gắng giúp nền kinh tế của mình bằng cách cắt
giảm lãi suất chuẩn, nhưng điều này có thể sẽ làm tăng lượng tiền rời
khỏi Trung Quốc", Herrero, nhà kinh tế của Ngân hàng Natixis, phân
tích. Và dù Trung Quốc và Mỹ gần đây đã đạt được một thỏa thuận
thương mại "giai đoạn 1", điều mà có thể làm dịu căng thẳng giữa hai
nước, nhưng Herrero cho rằng thỏa thuận này không có khả năng giảm
bớt hoàn toàn áp lực đối với Trung Quốc.
Trung Quốc có lý do chính đáng để giữ tiền của họ trong nước. Lần cuối
cùng Trung Quốc bị rút vốn ào ạt là vào năm 2015 và 2016, khi nền
kinh tế bắt đầu giảm tốc và Ngân hàng nhân dân Trung Quốc bất ngờ
phá giá đồng nhân dân tệ, làm rung chuyển thị trường tài chính toàn
cầu. Trung bình, số tiền rời khỏi Trung Quốc tương đương với 6% GDP
của đất nước trong hai năm đó, theo ước tính của Viện khoa học xã hội
Trung Quốc. Tổng cộng, Trung Quốc đã mất 1,28 nghìn tỷ USD và buộc
Kinh tế Quốc tế
9
phải dùng đến nguồn dự trữ ngoại hối của mình để ngăn chặn đồng tiền
của họ không bị mất giá nhanh hơn nữa. Dự trữ ngoại hối của Trung
Quốc đã giảm hơn 800 tỷ USD trong hai năm đó trước khi phục hồi một
ít trong năm 2017. Kể từ đó, Bắc Kinh đã thắt chặt kiểm soát vốn và
khiến cho mọi người gặp khó khăn hơn khi đổi tiền lấy ngoại tệ hoặc
chuyển tiền ra nước ngoài.
10
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492
8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH https://ndh.vn/ngan-hang/ngan-hang-ngong-room-tin-dung-moi-1260491.html
https://vietstock.vn/2019/12/khong-ngac-nhien-khi-moody8217s-ha-trien-vong-ngan-hang-viet-
757-720855.htm
http://cafef.vn/cao-diem-tai-co-cau-ngan-hang-nam-2020-20191223073612076.chn
Tin KT vĩ mô https://ndh.vn/thoi-su/thu-tuong-doi-thoai-voi-lanh-dao-hon-1-000-doanh-nghiep-1260516.html
https://vietnambiz.vn/moodys-ha-trien-vong-tin-nhiem-khong-phai-vi-viet-nam-thieu-tien-tra-no-
20191223073125371.htm
Tin KT Quốc tế http://cafef.vn/dong-tien-roi-di-cao-ky-luc-trung-quoc-lo-so-kich-ban-4-nam-truoc-lap-lai-khi-hang-
tram-ty-usd-du-tru-boc-hoi-20191222230922717.chn
11
Danh mục viết tắt
B K
Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng DN KHDN
Bảo hiểm BH Khách hàng cá nhân KHCN
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Kinh tế KT
Bảo hiểm y tế BHYT Kinh tế xã hội KTXH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Kinh tế vĩ mô KTVM
Bảo hiểm xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Kết quả KQ
BĐS BĐS Khu vực KV
Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN
C
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L
Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS
Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH
Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT
Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST
Công nghệ thông tin CNTT
Công ty cổ phần CTCP M
Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A
Cơ sở hạ tầng CSHT
Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N
Cơ quan Nhà nước CQNN Nhà đầu tư NĐT
D Nhà đầu tư nước ngoài NĐTNN
Dịch vụ DV NH NH
DN DN NH liên doanh NHLD
DN nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN
DN tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD
DN vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN
Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW
Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH
Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN
G Ngân sách địa phương NSĐP
Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK
Giá trị gia tăng GTGT Nợ xấu NX
Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH
H
Hợp tác xã HTX
12
P V
Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL
Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC
Vốn chủ sở hữu VCSH
Q Văn bản pháp luật VBPL
Quản lý rủi ro QLRR
Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X
Xã hội XH
S Xuất khẩu XK
Sản xuất SX Xuất nhập khẩu XNK
Sản xuất kinh doanh SXKD Xây dựng XD
So với SV Xây dựng cơ bản XDCB
T Quốc gia/Tổ chức
Tài chính - NH TC-NH Việt Nam VN
Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN
TTTD TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)
TTCK TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT
Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN
Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VERP
Thu nhập DN TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
TCTD TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE
Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU
Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB
TP Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB
TP DN TPDN NH trung ương châu Âu ECB
NH trung ương Trung Quốc PBOC
NH trung ương Nhật Bản BOJ
NH TTQT BIS
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD
Trung Quốc TQ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF