ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNHSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
Năm 2018
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. ANTT :An ninh trật tự
2. BQL : Ban quản lý
3. BCTMT : Ban công tác mặt trận
4. BTC : Ban tổ chức
5. CLB : Câu lạc bộ
6. CTMT : Công tác mặt trận
7. DSVH : Di sản văn hóa
8. DSVHPVT : Di sản văn hóa phi vật thể
9. DSVHQG : Di sản văn hóa quốc gia
10. ĐU : Đảng ủy
11. HĐND : Hội đồng nhân dân
12. LSVH : Lịch sử văn hóa
13. MTTQVN : Mặt trận tổ quốc Việt Nam
14. QLDT : Quản lý di tích
15. SVHTT&DL
: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
16. TDTT :Thể dục thể thao
17. Tp. : Thành phố
18. TT : Thông tư
19. TW : Trung ương
20. UBND : Ủy ban nhân dân
21. UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
22. VHTT : Văn hóa, Thông tin
23. VHTT&DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch
24. VHNT : Văn hóa Nghệ thuật
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
I. THỜI GIAN THỰC HIỆN CÔNG TÁC KIỂM KÊ KHOA HỌC............3
II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC KIỂM KÊ KHOA HỌC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ..............................................................................................3
III. QUY ĐỊNH VỀ NHẬN DIỆN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.....3
3.1. Tiêu chí nhân diện di sản văn hóa phi vật thể....................................3
3.2. Tiêu chí về người nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể.......................4
3.3. Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể.............................................4
IV. QUY TRÌNH KIỂM KÊ DSVHPVT......................................................6
4.1. Quy trình tổ chức kiểm kê DSVHPVT..............................................6
4.2. Nguyên tắc kiểm kê............................................................................7
4.3. Hướng dẫn điền thông tin vào phiếu kiểm kê....................................7
V. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG KIỂM KÊ KHOA HỌC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ...........................................................................8
VI. HIỆN TRẠNG DSVHPVT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH...........................................................................................................10
VII. KẾT QUẢ KIỂM KÊ DSVHPVT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH.................................................................................................83
7.1. Về địa bàn kiểm kê DSVHPVT.......................................................83
7.2. Kết quả kiểm kê DSVHPVT trên địa bàn thành phố Thái Bình......84
VIII. MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG CÔNG TÁC KIỂM KÊ DSVHPVT.................................................................................88
8.1. Một số khó khăn...............................................................................88
8.2. Một số thuận lợi...............................................................................89
IX. TỔNG KẾT VẤN ĐỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY DSVHPVT............90
MỞ ĐẦU
Luật Di sản văn hóa năm 2001 định nghĩa: “Di sản văn hóa Việt Nam
là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của
di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta”. Trong đó “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh
thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên
quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng,
không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” (Luật Di
sản văn hóa sửa đổi năm 2009). Về cơ bản, Luật DSVH được thông qua ngày
14/6/2001 tại kỳ họp thứ 9, Quốc Hội khoá X vừa qua là cơ sở pháp lý quan
trọng để đẩy mạnh việc đổi mới các hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hoá ở Việt Nam, thiết thực góp phần triển khai những đường lối,
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới đất nước nói chung,
cùng xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc nói riêng. Nhằm bảo vệ và phát huy giá trị DSVHPVT, Luật DSVH
đã dành trọn vẹn Chương III, từ Điều 17 đến Điều 27 để đề cập đến vấn đề
này từ trách nhiệm của nhà nước, các cơ quan nhà nước đến các nguyên tắc
bảo vệ và phát huy. Tại Điều 17. Nhà nước bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể thông qua các biện pháp sau đây: 1) Tổ chức nghiên cứu,
sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn hóa phi vật thể; 2) Tổ chức truyền dạy,
phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình di sản văn hóa phi
vật thể; 3) Khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu
tầm, lưu giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; 4) Hướng
dẫn nghiệp vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể theo đề
nghị của tổ chức, cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể; 5) Đầu tư kinh
phí cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, ngăn
ngừa nguy cơ làm mai một, thất truyền di sản văn hóa phi vật thể.” Điều 20:
1
“Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để
bảo vệ DSVHPVT ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất
truyền”. Hoặc điều 26: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với
nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí
quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt”. Vì tính chất quan trọng của di sản văn
hóa phi vật thể mà Luật di sản văn hóa đã quy định kiểm kê là một trong
những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự tồn tại và sức sống của di sản. Thực
hiện Thông tư số 04 /2010/TT-BVHTTDL, ban hành ngày 30 tháng 06 năm
2010 quy định việc kiểm kê DSVHPVT và lập hồ sơ khoa học DSVHPVT để
đưa vào danh mục DSVHPVT quốc gia. Tính đến hết năm 2018, sau 08 năm
triển khai thực hiện Thông tư số 04/2010/TT- BVHTTDL của Bộ trưởng Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có gần 100 ngàn di sản văn hóa phi vật thể
của 63 tỉnh/thành phố được kiểm kê và đó là cơ sở để các cấp có thẩm quyền
xét duyệt, tôn vinh các di sản có giá trị, theo các cấp quốc gia và cấp tỉnh (địa
phương). Hàng năm, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu các xã cập
nhật thông tin kiểm kê và gửi báo cáo cập nhật cho Cục Di sản văn hóa. Từ
năm 2012, Việt Nam lập Danh mục di sản văn hóa quốc gia và tính đến tháng
09 năm 2018 đã có hơn 250 Di sản văn hóa phi vật thể được công nhận trong
Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Việc ghi danh đem lại hiệu
ứng tích cực trong việc nâng cao nhận thức của giới trẻ, công chúng nói
chung về giá trị di sản văn hóa của các địa phương, các tộc người. Từ đó,
công tác xã hội hóa, đóng góp công sức, tiền của cho việc bảo vệ di sản văn
hóa tiến triển tốt hơn, như việc khôi phục những di sản đã bị mai một, các
nghệ nhân tham gia tích cực hơn trong việc trao truyền các kỹ năng của di sản
cho thế hệ trẻ. Ở cấp độ địa phương và quốc gia, việc ghi danh và Danh mục
di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tạo thêm nhiều động lực cho cộng đồng,
nhất là giới trẻ hiểu rõ hơn, cũng như nhận diện giá trị vô giá của các di sản
và vì vậy nâng cao ý thức của họ trong công tác bảo vệ cũng như tích cực
tham gia thực hành các di sản.
2
I. THỜI GIAN THỰC HIỆN CÔNG TÁC KIỂM KÊ KHOA HỌC
- Từ ngày 13 đến ngày 14 tháng 06 năm 2018 Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Thái Bình (SVHTT&DL) phối hợp với Phòng Văn hóa, Thông
tin thành phố Thái Bình (VHTT) tiến hành mở lớp tập huấn kiểm kê dựa vào
cộng đồng cho các cán bộ công chức văn hóa các xã/phường.
- Từ ngày 20 đến ngày 31 tháng 07 năm 2018, nhóm kiểm kê được
chia làm 03 nhóm gồm chuyên viên Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh,
Phòng Văn hóa, cán bộ công chức các xã/phường có Di sản văn hóa phi vật
thể (DSVHPVT) tiến hành công tác kiểm kê Di sản văn hóa phi vật thể trên
địa bàn các xã/phường của thành phố Thái Bình.
II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC KIỂM KÊ KHOA HỌC DI SẢN VĂN
HÓA PHI VẬT THỂ
- Khảo sát, đánh giá thực trạng các Di sản văn hóa phi vật trên địa bàn
các thôn/làng của các xã/phường trong phạm vi thành phố Thái Bình.
- Bước đầu, tập hợp một cách có hệ thống những di sản cụ thể do cộng
đồng thực hành trên địa bàn.
- Các di sản được kiểm kê đảm bảo có đầy đủ thông tin về nhận diện, ý
nghĩa, chức năng của di sản, về thực trạng, bối cảnh thực hành, số lượng nghệ
nhân, biện pháp bảo vệ di sản, những sáng kiến của cộng đồng thực hành và
bảo vệ di sản.
- Đề xuất kế hoạch, biện pháp tiếp tục triển khai hoạt động sưu tầm, bảo
vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
III. QUY ĐỊNH VỀ NHẬN DIỆN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
3.1. Tiêu chí nhân diện di sản văn hóa phi vật thể
- Di sản đang tồn tại, được cộng đồng thực hành thường xuyên.
- Được cộng đồng sáng tạo, duy trì và trao truyền từ đời này sang đời khác.
- Được cộng đồng xem là một phần quan trọng trong đời sống, tạo nên
bản sắc của họ.
3
- Di sản phản ánh sự đa dạng văn hóa và tôn trọng lẫn nhau giữa các
cộng đồng và nhóm người.
3.2. Tiêu chí về người nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể
- Là người am hiểu, có kỹ năng, kỹ thuật, bí quyết về di sản.
- Là người có thâm niên trong thực hành di sản.
- Là người tham gia tổ chức, hoặc thực hiện DSVHPVT liên tục.
- Có đóng góp trong việc truyền dạy DSVHPVT.
- Được cộng đồng công nhận.
- Những người nắm giữ di sản không giới hạn tuổi, giới tính, nghề
nghiệp. Họ có thể là trưởng thôn, Mạnh bái, thợ cả, ông trùm phường, nghệ
nhân, võ sư, thầy cúng, v.v.., nhưng là những người có hiểu biết và thực
hành di sản.
3.3. Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể
a) Di sản truyền khẩu
Di sản được thực hành bằng cách truyền khẩu trong hình thức ngôn từ,
bao gồm các loại hình ngữ văn dân gian, văn hóa truyền miệng được truyền
tải bằng lời nói như sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ
tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru, bài cúng và các biểu
đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết.
b) Nghệ thuật trình diễn dân gian
Di sản được thực hành bằng hình thức trình diễn, diễn xướng dân gian,
bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian
khác, ví dụ, hát chèo, múa giáo cờ, giáo quạt, múa đùng, múa rối nước, hát ca
trù, hát văn, múa sênh tiền, múa bát dật, múa lân, múa rồng, múa quạt, múa
rối cạn, tuồng, cải lương, v.v.
- Các trò chơi dân gian: Cờ tướng, cờ người, đi cà kheo, chọi gà, đánh
đu, đánh roi, bắt vịt, bắt dê, bắt lợn, đập niêu, v.v.
- Các môn thể thao dân gian: vật, vật cầu, võ truyền thống, kéo co, bơi
chải, đua thuyền, v.v.
4
- Các thú chơi nghệ thuật: chơi hoa, cây cảnh, chơi chim, chơi cá, chơi
gà chọi, v.v..
c) Tập quán xã hội
Các tập quán xã hội bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức,
nghi lễ và các phong tục khác. Thí dụ các tập tục và nghi lễ liên quan đến
vòng đời con người như sinh nở (những kiêng kị cho người mẹ, cách nhận
biết giới của trẻ sắp sinh, khi sinh, sau khi sinh, thôi nôi, đầy tháng, đầy năm,
đặt tên, đứa trẻ sơ sinh đi xa, bán khoán, cưới hỏi (xem ngày, giờ, các nghi lễ,
quy định của làng, v.v..), lễ lên lão tháng thượng thọ, các thực hành và tín
ngưỡng liên quan đến người chết, tang ma, lễ cầu siêu, chạp tổ, giỗ, các tập
tục và nghi lễ có liên quan đến chu kỳ mùa, lễ tết (dựng cây nêu, hạ nêu, lễ
xuống đồng, Tết nguyên Đán, rằm tháng giêng, thanh minh, Hàn thực, Đoan
ngọ, Rằm tháng Bảy, Trung thu), các phong tục và nghi lễ khác (tục kết chạ,
ăn trầu, nhuộm răng, làm đẹp, cầu đảo, các tập tục liên quan đến tín ngưỡng
phồn thực, v.v.)
d) Lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống ở các làng xã Việt Nam bao gồm lễ hội làng,
tưởng nhớ và tôn thờ các vị Thành Hoàng, những người có công với dân với
nước, được thờ cúng ở đình, đền, chùa, miếu, từ, ví dụ; hội chùa Keo, v.v.
đ) Nghề thủ công truyền thống
Các làng nghề thủ công truyền thống được cộng đồng làng xã thực hành
từ nhiều năm qua, từ làm bằng tay thủ công, đến nay có sự kết hợp với máy
móc, công nghệ. Tuy nhiên, kỹ năng làm nghề vẫn chủ yếu bằng tay với trí
thức được trao truyền giữa các thế hệ như nghề trồng dâu nuôi tằm, mây tre
đan, làm bánh đa, làm chiếu cói, nghề rèn, nghề thuê, làm nước mắm….
e) Tri thức dân gian
Các tri thức được tích lũy từ nhiều thế hệ và trao truyền cho thế hệ trẻ
bao gồm tri thức về thiên nhiên, về mùa màng, về thời tiết, về khí hậu, về gieo
hạt, về đi biển, đi rừng, về đời sống con người, lao động sản xuất, y, dược học
5
cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác.
Tri thức dân gian bao gồm:
- Y học dân gian (cách chữa bệnh của ông lang, bà lang về gãy xương,
bong gân, hóc xương, đau răng, xơ gan, thần kinh, các bệnh ngoài da, tri thức
về dược học dân gian về các cây thuốc bài thuốc.
- Tri thức về nông nghiệp (dự báo thời tiết, sâu bọ, mùa màng, chăn
nuôi, nông lịch, bảo quản giống, v.v.).
- Tri thức về môi trường tự nhiên, thiên nhiên (cách tìm mạch nước,
khoan giếng, xem trăng, xem sao, con nước, hướng gió, v.v.).
- Kinh nghiệm chế tạo và sử dụng công cụ trong kinh tế và đời sống
như; cày, bừa, cào cỏ, liềm hái, dao, kéo, búa, rìu, bẫy, dụng cụ săn bắt (đó,
đơm, vó, lờ, nơm, lưới, lưỡi câu, bẫy, trúm, v.v.), cách xử lý nguyên vật liệu
(ngâm tre, hun khói, gác bếp, hong khô, v.v.).
- Tri thức về cách lựa chọn chế biến, bảo quản nông, hải sản….
- Tri thức về cách chế biến và kết hợp nguyên liệu các món ẩm thực….
- Tri thức gắn với tập quán như ăn trầu, nhuộm răng, làm đẹp, gội đầu.
IV. QUY TRÌNH KIỂM KÊ DSVHPVT
4.1. Quy trình tổ chức kiểm kê DSVHPVT
- Sở mở lớp tập huấn, phổ biến kiến thức về DSVHPVT, Công ước
2003, Luật DSVH, Thông tư 04. Tại lớp tập huấn, các cán bộ của Cục Di sản
Văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam phổ biến một số điều
khoản trong Công ước 2003 và Luật DSvH, hướng dẫn cán bộ văn hóa của
các xã/phường trên địa bàn thành phố Thái Bình cách thức, nội dung, phương
pháp kiểm kê. Nhóm tập huấn hướng dẫn chi tiết hình thức điền thông tin vào
mẫu phiếu kiểm kê do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình (Sở
VHTT&DL) ban hành dựa vào Mẫu phiếu của thông tư 04, phù hợp với tình
hình di sản tại địa bàn thành phố Thái Bình.
- Cán bộ công chức văn hóa xã/phường và Phòng VHTT thành phố phối
hợp với cộng đồng tổ chức khảo sát, điền thông tin vào phiếu kiểm kê.
6
- Tổ kiểm kê gồm: 01 cán bộ Phòng Nghiệp vụ Văn hóa của Sở
VHTT&DL; 01 cán bộ Phòng VHTT; 01 cán bộ công chức văn hóa
xã/phường; 01 cán bộ nghiên cứu; 01 chuyên gia về DSVHPVT) chịu trách
nhiệm đánh giá sơ bộ, thẩm định kết quả kiểm kê và đề xuất danh mục, thỏa
thuận với cộng đồng có di sản tương ứng để hoàn thiện hồ sơ kiểm kê.
- Tổng hợp kết quả kiểm kê (gồm Báo cáo, Danh mục di sản, hồ sơ
kiểm kê) nộp về Sở VHTT&DL.
- Sở VHTT&DL tỉnh Thái Bình đánh giá, thẩm định danh mục và báo
cáo lãnh đạo tỉnh.
4.2. Nguyên tắc kiểm kê
- Kiểm kê toàn bộ di sản đang tồn tại trên địa bàn huyện.
- Chú trọng điều tra thực trạng, bối cảnh thực hành, những biện pháp
nhà nước và cộng đồng đã và đang nỗ lực bảo vệ di sản, những nguy cơ làm
hủy hoại đến di sản, lập danh sách những cá nhân nắm giữ di sản.
- Công tác kiểm kê phải đảm bảo sự đa dạng văn hóa, tôn trọng ý kiến
của cộng đồng.
- Lưu ý tính tổng thể của di sản, bao gồm các yếu tố của di sản, từ
không gian thực hành, địa điểm, điều kiện thực hành, người thực hành, các
thành tố (vật thể, phi vật thể, âm nhạc, ca từ, nghi lễ, v.v.).
- Lưu ý phạm vi về thời gian và không gian, và quy mô tồn tại của di
sản, đặc biệt là di sản nằm trên nhiều thôn, xã, để đảm bảo thôn tin về di
sản đầy đủ.
4.3. Hướng dẫn điền thông tin vào phiếu kiểm kê
* Nguyên tắc điền thông tin vào phiếu kiểm kê
- Phiếu kiểm kê phải được điền đầy đủ thông tin theo quy định của
Thông tư 04 và theo tinh thần của Luật DSVH và Công ước 2003.
- Phiếu kiểm kê phải được viết rõ ràng, không viết chữ in hoa, không
viết mực đỏ.
7
- Người cung cấp thông tin có thể là cá nhân, nhóm người địa phương
(thôn, làng) có am hiểu và nắm giữ DSVHPVT được kiểm kê, trong trường
hợp có thông tin khác biệt thì ghi lại tất cả các ý kiến.
- Ghi lại chính xác thông tin từ người cung cấp (trước khi ghi ra phiếu
các bí quyết, điều thiêng, đời tư cần phải có sự đồng ý và thỏa thuận của
người cung cấp thông tin hoặc cộng đồng).
- Thông tin cơ bản theo các mục trong phiếu kiểm kê, nhưng cần vận
dụng linh hoạt, đặt nhiều câu hỏi phụ và trao đổi để lấy thông tin từ người
được phỏng vấn.
- Không hỏi những câu hỏi mang tính “gợi ý” câu trả lời. Không bỏ sót
các câu hỏi. Những câu hỏi không có thông tin thì ghi rõ “Không có thông tin”.
- Phiếu được lập bằng máy tính, cần nộp cả hai bản in có chữ ký và bản
mềm (định dạng MS.Word).
- Người lập phiếu và Tổ trưởng tổ kiểm kê chịu trách nhiệm về nội
dung và chất lượng, yêu cầu của phiếu kiểm kê.
- Phiếu nộp cho Ban kiểm kê phải có đầy đủ chữ ký của người lập
phiếu và tổ trưởng tổ kiểm kê.
V. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG KIỂM KÊ KHOA HỌC
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
Các phương pháp được sử dụng để thu thập thông tin kiểm kê gồm
phỏng vấn bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát, ghi chép thông qua thảo luận
nhóm, hồi cố, thống kê. Các thông tin thu thập đều tuân thủ và tôn trọng quan
điểm,tiếng nói của cộng đồng trong việc đồng thuận với các nội dung liên
quan đến di sản văn hóa do chính cộng đồng sáng tạo và bảo tồn hàng trăm
năm qua.
- Rà soát tài liệu lưu trữ: Là việc ra soát các báo cáo, các nghiên cứu,
phim tư liệu, ảnh, bản đồ, tư liệu liên quan đến các DSVHPVT để tránh trùng
lặp gây mất thời gian và để kiểm chứng thông tin thu được từ cộng đồng. Kết
hợp sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành (thư tịch học, khảo cổ học,
văn bản học, bảo tàng học,…) trong việc phân tích, đối chiếu, so sánh các
8
nguồn tư liệu để xác định đối tượng khảo sát, kiểm kê.
- Phương pháp quan sát và ghi chép: Đây là hữu ích cho việc thu thập
kiến thức địa phương và các loại hình DSVHPVT cụ thể. Quan sát bao gồm
việc lưu tâm đến ngôn từ và hành động của con người, bao gồm cả cách
cộng đồng sử dụng không gian riêng, không gian chung và các gợi ý họ đưa
ra xung quanh việc kiểm kê. Ghi chép điền dã được dùng để ghi lại những
quan sát trực tiếp, để thu thập bất cứ loại hình DSVHPVT nào được sử dụng
và các ý tưởng phát sinh xung quanh các loại hình đó.
- Phương pháp phỏng vấn: Nhóm kiểm kê tiến hành phỏng vấn những
người có hiểu biết trong cộng đồng như các nghệ nhân, những người lão
thành, giới trẻ, các cán bộ thôn, cán bộ văn hóa để nắm bắt di sản và ghi âm
về những nội dung liên quan đến danh mục kiêm kê.
- Chụp ảnh: Là phương thức hiệu quả trong việc thu thập thông tin
hình ảnh về hiện trạng của DSVHPVT. Hơn thế, các bức ảnh không chỉ là
những tư liệu lưu trữ và nghiên cứu mà còn là những công cụ hữu ích để
nhận diện trực quan về sự tồn tại của di sản trong thực hành. Sử dụng các
bức ảnh có thể giúp tăng cường tính trực quan sinh động và nội dung của
hoạt động kiểm kê. Các thành viên cộng đồng và những người khác có liên
quan đến việc thu thập và trình bày thông tin về các loại hình DSVHPVT có
thể chụp lại hình ảnh của người, địa điểm, vật hay sự kiện.
- Quay phim: Là phương pháp hữu ích trong việc thu thập sự kiện, tình
cảm hay những thực hành của các loại hình DSVHPVT trong một bối cảnh
nhất định. Thông qua việc sử dụng phim, các thành viên cộng đồng có thể dễ
dàng mô tả các hành động, tập quán hay niềm tin liên quan đến loại hình
DSVHPVT, những thứ khó có thể được truyền tải hay giải thích đầy đủ bằng
các tư liệu khác. Tư liệu phim có thể sử dụng để phổ biến các loại hình
DSVHPVT trong các nhóm người không cùng sử dụng một ngôn ngữ nói hay
viết, và từ đó góp phần đóng góp vào việc nâng cao nhận thức của người dân
9
về di sản (một trong những mục tiêu chính của Công ước).
- Ghi âm: Là một kỹ thuật có thể được áp dụng cho nhiều phương pháp
tạo thông tin khác nhau thí dụ như: Được dùng để thu thập các loại hình
DSVHPVT khi mà âm thanh là thành tố chính (âm nhạc, khiêu vũ, ca hát…)
trong danh mục kiểm kê. Ghi âm dùng trong phỏng vấn để ghi lại suy nghĩ,
phản hồi của các thành viên cộng đồng liên quan đến loại hình DSVHPVT.
Mỗi tư liệu có thể được ghi lại với một mục đích nhất định, nhưng cũng có
thể sẽ được dùng để giải quyết các vấn đề khác trong tương lai.
- Lập bản đồ: Được tiến hành để lưu giữ tư liệu về cảnh quan văn hóa
và lãnh thổ của một cộng đồng và các loại hình DSVHPVT có liên quan. Lập
bản đồ cảnh quan văn hóa (và không chỉ cảnh quan lãnh thổ) liên quan đến
việc xác định các nét đặc trưng hình thành nên giá trị xã hội, các chuẩn mực,
tập quán của một cộng đồng, và loại hình DSVHPVT có liên quan. Việc lập
bản đồ có thể giúp thu thập thông tin về cách thức mà các địa phương tương
tác với các loại hình DSVHPVT và có thể đem lại thông tin hữu ích về quy
hoạch không gian cho các cơ quan bên ngoài.. Rộng hơn, việc lập bản đồ tạo
cơ hội để công nhận rộng rãi hơn di sản văn hóa phi vật thể...
VI. HIỆN TRẠNG DSVHPVT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
THÁI BÌNH
Qua công tác kiểm kê cho đến tháng 06 năm 2018 trên địa bàn toàn
thành phố Thái Bình có 14/19 xã/phường có di sản văn hóa phi vật thể với
tổng số 24 DSVHPVT, trong đó lễ lễ hội truyền thống có 22 di sản (chiếm tỉ
lệ 91,7 %), nghề thủ công truyền thống có 01 di sản (chiếm 4,2 %), nghệ thuật
trình diễn dân gian có 01 di sản (chiếm 4,2 %).
1) Xã Đông Hòa
Xã Đông Hòa nằm ở phía Bắc của Thành phố Thái Bình, cách trung
tâm thành phố khoảng 5 km. Phía Bắc giáp xã Đông Thọ, phía Nam giáp
phường Hoàng Diệu, phía Đông giáp xã Đông Mỹ, phía Tây giáp sông Trà
10
Lý. Tổng diện tích tự nhiên là 559,4ha, dân số là 9.500 nhân khẩu, với 3.585
hộ1. Xã Đông Hòa hiện có 7 thôn là Hiệp Trung, Nam Hiệp Trung, Trung
Nghĩa, Nghĩa Phương, Nghĩa Thắng, Nam Cầu Nhân, Cầu Nhân.
Xã Đông Hòa có 03 DSVHPVT là loại hình lễ hội truyền thống là hội
miếu Vua Lẫm, hội đình Hiệp Trung, hội đền Đông Côn.
- Hội miếu Vua Lẫm
(Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: bà Trần Thị Nguyệt
Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(2) Họ và tên: Ông Hà Duy
Sinh năm: 1944 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(3) Họ và tên: Ông Hà Văn Cường
Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(4) Họ và tên: Ông Dương Đức Long
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(5) Họ và tên: Ông Hà Văn Cảo
Sinh năm: 1948 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình1 Ban chấp hành Đảng bộ xã Đông Hòa (2014), Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Đông Hòa (1930-2010), Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 13.
11
(6) Họ và tên: bà Dương Thị Bạn
Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
Nhận diện Hội miếu Vua Lẫm:
Miếu Vua Lẫm thờ Đức thánh Đông Hải Đại vương tương truyền là
người có công xây dựng kho vũ khí, lương thực phục vụ cho công cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm thời dưới thời nhà Trần. Năm 2005 miếu Vua Lẫm đã
được UBND tỉnh Thái Bình cấp bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Từ đó
đến nay nhân dân địa phương thường xuyên tổ chức lễ hội vào ngày mồng 2
tháng 2 âm lịch.
Vào ngày lễ hội nhân dân trong thôn cùng nhau đứng ra tổ chức với
những nghi thức chính như Khai mạc lễ hội, lễ dâng hương, tế thánh của đội
tế nam quan với lễ vật là hoa quả, trầu, rượu, xôi, thịt, bánh kẹo và những sản
vật địa phương.
Lễ hội là dịp cộng đồng địa phương tế lễ thành hoàng, cầu mùa màng
bội thu và cầu cho gia đình, cá nhân, con cái được mạnh khỏe, ấm no, hạnh
phúc. Lễ hội miếu Vua Lẫm hàng năm được tổ chức có ý nghĩa quan trọng
đối với đời sống cộng đồng của nhân dân trong thôn làng. Ngày hội là dịp để
người dân trong làng và con em xa quê về dự hội, xum họp gia đình.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của
chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:
- Hội miếu Vua Lẫm hàng năm được UBND xã Đông Hòa chỉ đạo Ban
công tác mặt trận thôn, BQLDT thành lập BTC lễ hội để tổ chức duy trì
thường xuyên nhằm giữ gìn phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp đã được lưu
truyền nhiều năm của nhân dân thôn Nam Cầu Nhân.
- Lễ hội được cộng đồng làng, trong đó có Ban Khánh tiết lễ hội, dưới
sự chỉ đạo của lãnh đạo địa phương và sự tham gia của các đoàn thể tổ chức
12
với sự tham gia của các cá nhân, gia đình và sự tham gia đóng góp của mọi
người dân trong thôn.
- Hội đình Hiệp Trung
(Thôn Hiệp Trung, xã Đông Hòa, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Ông Phạm Văn Quang
Sinh năm: 1965 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hiệp Trung, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(2) Họ và tên: Ông Nguyễn Văn Rạng
Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hiệp Trung, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(3) Họ và tên: Ông Bùi Văn Toàn
Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hiệp Trung
(4) Họ và tên: Ông Nguyễn Đức Ngọc
Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hiệp Trung, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(5) Họ và tên: Trần Văn Phô
Sinh năm: 1956 Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hiệp Trung, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(6) Họ và tên: Bà Dương Thị Bình
Sinh năm: 1953 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hiệp Trung, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
13
Nhận diện hội đình Hiệp Trung:
Đình Hiệp Trung thờ tướng quân Lê Công Điện đã có công khai khẩn
mở mang vùng đất trang Bài Cát, tổng Cát Đàm nay là các xã thuộc phía
Đông Bắc của thành phố Thái Bình. Ngài cũng là người có công giúp Lý Bí
đánh đuổi giặc Lương xâm lược nước Đại Việt vào thế kỷ thứ VI. Ngày nay
đình Hiệp Trung còn phối thờ 02 tiến sĩ đầu tiên của làng là Trần Quang
Chiểu và Phạm Đình Lư. Năm 1992 Đình Hiệp Trung được nhân dân trong
làng đóng góp tiền của công sức để trùng tư tôn tạo xây dựng lại khang trang
như ngày hôm nay. Năm 2003 đình Hiệp Trung được UBND tỉnh Thái Bình
công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Hàng năm, nhân dân làng Hiệp Trung cùng BTC lễ hội đình Hiệp
Trung, UBND xã Đông Hòa tổ chức lễ hội vào ngày 20 tháng 09 âm lịch để
tưởng nhớ đến công đức của tướng quân Lê Công Điện.
Ngày 25 tháng 08 âm lịch BTC lễ hội họp bàn cùng với lãnh đạo
UBND xã, lãnh đạo thôn thống nhất xây dựng Kế hoạch tổ chức lễ hội ngày
20 tháng 09. Ban tổ chức lễ hội gồm 22 thành viên, Trưởng BTC lễ hội là
đồng chí Phó chủ tịch UBND xã, cùng 05 Phó trưởng BTC lễ hội là đồng chí
Trưởng thôn, trưởng Ban khánh tiết, trưởng đội tế nam quan và đội tế nữ quan
cùng các ủy viên là thành viên trong Ban quản lý di tích, đội tế nam quan, đội
tế nữa quan và một số thành viên khác trong làng cùng tham gia BTC lễ hội.
7h30’ sáng ngày 20 tháng 09 lễ hội đình Hiệp Trung được khai mạc với màn
múa lân và văn nghệ chào mừng các vị đại biểu, lãnh đạo UBND xã, lãnh đạo
thôn cùng toàn thể nhân dân, du khách gần xa về tham dự lễ hội. 8h30’ là
nghi thức thượng cờ tuyên bố khai mạc lễ hội. Nghi thức diễn xướng thông
dịch sắc phong được ông chủ tế đọc để tri ân tưởng nhớ đến công đức của
tướng quân Lê Công Điện. Sau đó là lễ tế nam quan của các thành viên trong
đội tế làng Hiệp Trung thực hiện theo nghi thức truyền thống. Buổi chiều là lễ
dâng hương, lễ tế nữ quan của đoàn tế nữ quan trong làng tế tạ Thánh kết thúc
lễ hội.
14
Lễ hội đình Hiệp Trung nhằm kỉ niệm ngày mất của tướng quân Lê
Công Điện, nhằm phát huy truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của
ông cha và công lao khai khẩn quê hương làng xã. Đồng thời lễ hội được tổ
chức nhằm giáo dục phát huy những giá trị văn hóa lịch sử truyền thống yêu
nước của người dân địa phương
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Lễ hội truyền thống đình Hiệp Trung hàng năm được chính quyền xã
chỉ đạo, quan tâm và tạo mọi điều kiện để cộng đồng duy trì thường xuyên
theo quy định về tổ chức lễ hội của địa phương.
- Cộng đồng tự nguyện tham gia đóng góp tiền để tôn tạo di tích và
tham gia lễ hội nhiệt tình và lễ hội chính là dịp họ thể hiện tấm lòng và tình
cảm với vị thành hoàng. Và vì vậy, họ sẵn sàng tham gia vào các hoạt động tổ
chức lễ hội.
- Hội đền Đông Côn
(Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Ông Hà Quang Hòe
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(2) Họ và tên: Ông Hà Văn Cường
Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(3) Họ và tên: Ông Hà Văn Truyện
Sinh năm 1954 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(4) Họ và tên: Ông Vũ Văn Túy
15
Sinh năm 1964 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(5) Họ và tên: Ông Hà Văn Quỳnh
Sinh năm: 1959 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(6) Họ và tên: Trần Thị Thịnh
Sinh năm: 1970 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
(7) Họ và tên: Trần Thị Nguyệt
Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Cầu Nhân, xã Đông Hòa, TP. Thái Bình
Nhận diện hội đền Đông Côn:
Đền thờ Đức vua Nam Hải Đại vương làm thành hoàng làng. Năm
2003 đền Đông Côn được UBND tỉnh Thái Bình cấp bằng di tích cấp tỉnh. Từ
đó đến nay hàng năm lễ hội được mở vào ngày 15 đến ngày 16 tháng 3 âm
lịch. Các nghi thức chính trong lễ hội bao gồm nghi lễ cáo yết và thông dịch
sắc phong do ban khánh tiết trong làng thực hiện. Sau đó là nghi lễ tế Thánh
do đội tế nữ quan thực hiện. Lễ vật dâng lên đức thánh bao gồm xôi gà, thủ
lợn, rượu, trầu cau và các sản vật của địa phương.
Lễ hội là dịp cộng đồng, nhân dân địa phương tụ họp, thể hiện ý thức
tập thể, sự cộng cảm, mối quan hệ xóm giềng. Trong những ngày lễ hội người
dân trong làng cùng con em xa quê trở về lễ thánh và đoàn tụ gia đình. Đây
cũng là dịp để mọi người cùng nhau cầu cúng thành hoàng phù hộ độ trì cho
gia đình và dân làng.
16
Lễ hội đền Đông Côn diễn ra có ý nghĩa nhân văn sâu sắc đối với đời
sống của nhân dân trong thôn Nam Cầu Nhân, góp phần gìn giữ vốn văn hóa
truyền thống của địa phương. Lễ hội cũng là dịp để người dân thể hiện lòng
tôn kính tới vị thành hoàng và tri ân những người có công với dân với nước.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Lễ hội đền Đông Côn được nhân dân địa phương tham gia bảo vệ và
phát huy giá trị của di sản thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội hàng năm.
- Hiện nay, lễ hội được UBND xã Đông Hòa chỉ đạo, nhân dân thôn
Nam Cầu Nhân tuyên truyền khuyến khích lớp trẻ tham gia lễ hội.
- Trong ngày lễ hội con em xa quê và khách thập đã hảo tâm công đức,
ủng hộ tiền của để tổ chức lễ hội hàng năm.
2) Xã Đông Thọ
Xã Đông Thọ được chính thức sáp nhập về thành phố Thái Bình từ
tháng 01 năm 2008, hiện nay xã có 6 thôn là Thống Nhất, Đoàn Kết, Hồng
Phong, Quang Trung, Trần Phú và Nam Sơn trên diện tích 1,69 km2, với
1.674 hộ/4.764 người.
Xã Đông Thọ có 04 DSVHPVT trong đó có 03 di sản thuộc loại hình
lễ hội truyền thống là hội Đền Đông Hải, hội đình Nam Thọ, hội đền Đức Bà
và 01 di sản thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian là Chiếu Chèo
truyền thống.
- Hội đền Đông Hải
(Thôn Đoàn Kết, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Cao Luyện
Sinh năm: …. Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND xã
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Tường
Sinh năm: …… Dân tộc: Kinh
17
Nghề nghiệp: Phó CT UBND xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Đông Thọ
(3) Họ và tên: Ni sư Thích Đàm Thảo
Sinh năm:…… Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Chủ trì chùa Cát Hộ
Địa chỉ liên lạc: Chùa Cát Hộ xã Đông Thọ, tp Thái Bình
(4) Họ và tên: Nguyễn Văn Tuân
Sinh năm: 1959 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Công chức VH xã
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Đông Thọ
(5) Họ và tên: Phạm Văn Thống
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tịch MTTQ xã
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Đông Thọ
(6) Họ và tên: Nguyễn Văn Thiệu
Sinh năm: 1936 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nam Sơn, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình
(7) Họ và tên: Nguyễn Văn Minh
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Đoàn Kết, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình
(8) Họ và tên: Nguyễn Văn Tốn
Sinh năm: 1930 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hồng Phong, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình
Nhận diện đền Đông Hải:
Đền thờ Đức Đông Hải Đại vương làm thành hoàng làng. Lễ hội truyền
thống đền Đông Hải được tổ chức định kỳ 3 năm/lần vào ngày 22 tháng 08
18
âm lịch. Việc tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ công ơn của Đức Đông Hải Đại
Vương và cầu may có nước để mùa màng bội thu. Tương truyền, Đức Thánh
ngài Đông Hải Đại Vương là quan thời Lê sơ cuối thế kỷ 15, ngài có tài ngoại
giao và là vị tướng giỏi tài ba đóng góp công sức trí tuệ phò vua, cứu dân,
chống giặc ngoại xâm, làm rạng danh non sông đất Việt, được nhân dân tôn
kính phụng thờ.
Những nghi thức chính trong lễ hội bao gồm lễ rước nước, lễ dâng
hương, tế lễ khai mạc lễ hội. Nghi lễ rước nước diễn ra tại khu vực sông Trà
Lý (khoảng 3 km) từ bến đò Hộ đến vụng Cống Đồn thuộc xã Đông Dương,
huyện Đông Hưng. Đoàn thuyền rồng xuất phát từ bến đò Hộ đi sang đền
Quan Hà (phía bên kia bờ sông) để làm lễ trình, sau đó đi đến vụng Cống Đồn
để lấy nước. Phía trên bờ sông là đoàn rước nước đi theo thứ tự: đội rồng, tứ
linh, cờ Tổ quốc, cờ thần, trống ngũ lôi, nhạc bát âm, kiệu bát cống, kiệu
thuyền chiến, kiệu bát biểu, kiệu hoa, kiệu phật, kiệu võng, các đoàn thể, cán
bộ và nhân dân xã Đông Thọ, các địa phương lân cận. Dưới sông đoàn thuyền
rồng cùng lễ vật dâng tế thần đi song song cùng đoàn đi bộ trên đê đến vụng
Cống Đồn làm lễ và xin rước nước về đền. Sau đó cả hai đoàn trên bộ và dưới
sông mang nước về đền dâng nước và làm lễ cầu cho nhân dân trong làng. Lễ
tế thần do đội tế nam quan và đội tế nữ quan của làng thực hiện với những lời
thỉnh cầu, ước mong về cuộc sống tốt đẹp cho người dân trong làng. Phần hội
có các hoạt động văn hoá văn nghệ, thi đấu TDTT như: biểu diễn, giao lưu
văn nghệ quần chúng, hát chèo, đấu vật, kéo co, cờ tướng, tổ tôm, đánh gậy...
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Hội đền Đông Hải đã đáp ứng nhu cầu văn hóa tín ngưỡng của người
dân trong xã, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa lịch sử của quê hương,
gắn kết các mặt hoạt động đời sống kinh tế chính trị của địa phương.
- Hội làng là dịp người dân tham gia tế lễ, cầu cúng, cũng như các trò
chơi dân gian, thể hiện sự giao hòa, cộng cảm giữa các cá nhân trong cộng
đồng làng, đồng thời là dịp để mọi người đi làm xa về hội tụ với gia đình
19
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Chính quyền nhân dân xã đã chỉ đạo và thực hiện tốt công tác bảo vệ
dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo từ Phòng Văn hóa và Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh
- Cộng đồng nhân dân nhiệt tình tham gia các hoạt động và đóng góp
tiền của cho việc tổ chức lễ hội.
- Hội đình Nam Thọ
(Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Tuân
Sinh năm: 1959 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Công chức Văn hóa
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Đông Thọ
(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Đức
Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình
(3) Họ và tên : Phạm Văn Thống
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Hưu trí
Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Trung, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình
(4) Họ và tên: Hà Thị Ngát
Sinh năm: 1975 Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ phụ nữ
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(5) Họ và tên: Nguyễn Thị Phúc
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Trung, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình
20
(6) Họ và tên: Nguyễn Đức Chiến
Sinh năm: 1943 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tịch Người cao tuổi
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Trung, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình
(7) Họ và tên: Nguyễn Văn Kế
Sinh năm: 1946 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
- Nhận diện hội đình Nam Thọ:
Đình Nam Thọ thờ Lê Điện Tướng quân làm Thành hoàng làng, lễ hội
hàng năm tổ chức vào ngày 20 tháng 9 âm lịch.
Trước đây lễ hội tổ chức rước kiệu từ đình Nam Thọ đón bát hương của
Á Thánh em trai của tướng quân Lê Điện được thờ tại miếu Nam Thọ về đình
Nam Thọ để mở lễ hội Sau đó tổ chức lễ và tế nam quan cùng các hoạt động
văn hóa thể thao. Trong những năm kháng chiến miếu Nam Thọ bị phá dỡ
nên dân làng đã chuyển long ngai, bài vị của đức Thánh về phối thờ tại đình
từ đó đến nay không tổ chức rước kiệu mà chỉ có các nghi thức dâng hương,
tế lễ của các quan viên trong làng. Lễ vật chính trong lễ hội là xôi, gà, lợn đen
và các loại nông sản của quê hương. Trong những ngày lễ hội dân làng còn
được thưởng thức nghệ thuật Múa rối và tham gia vào các trò chơi dân gian
như chọi gà, kéo co, đánh gậy, cờ tướng, vật võ.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội đình Nam Thọ được diễn ra nhằm giáo dục gìn giữ lịch sử văn
hóa của cha ông phát huy giá trị lịch sử quê hương.
- Lễ hội có vai trò qua trọng trong việc thúc đẩy sự tương tác, mối cộng
cảm và tình làng nghĩa xóm
- Lễ hội cũng là đời sống tinh thần không thể thiếu của làng, là dịp để
mọi người giao hòa, cộng cảm và đoàn kết, tương tác lẫn nhau
21
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Chính quyền làm tốt vai trò chỉ đạo, hướng dẫn và vận động nhân dân
tham gia đóng góp tổ chức lễ hội
- Người dân cùng tham gia vào bảo vệ di tích, nghệ thuật kiến trúc điêu
khắc gỗ và đá của ngôi đình và nhiệt tình tham gia tổ chức lễ hội hàng năm.
- Cộng đồng mong muốn khôi phục lại lễ rước kiệu và tu sửa những nơi
đã bị hủy hoại do thời gian và chiến tranh.
- Hội đền Đức Bà
(Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Ry
Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tế
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Phạm Thị Đức
Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tế nữ quan
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Đức
Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Nguyễn Văn Nam
Sinh năm: 1937 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Giáo viên về hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(5) Họ và tên: Nguyễn Đức Chiến
Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu
22
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
- Nhận diện hội đền Đức Bà:
Đền thờ bà Hồ Thị Ngọc Oánh. Hàng năm đền có 03 kỳ lễ Thánh đó là
ngày mồng 01 tháng Giêng là ngày tế chính Đám, ngày 15 tháng Giêng là
ngày tế Xuân Thủ và ngày chính hội hàng năm tổ chức vào ngày 23 tháng 10
âm lịch là ngày lễ Thường Tân. Trong ngày lễ hội dân làng lễ tế Đức thánh
Bà do đội tế nam quan thực hiện. Lễ vật dâng lên Đức thánh Bà là xôi, gà,
chuối, trầu cau và không thể thiếu một nắm cơm và quả trứng. Nội dung của
bài văn tế ca ngợi công đức của Đức thánh Bà và hậu thần Phạm Thị Chích.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Hội đền Đức Bà được tổ chức để cho người dân trong làng tri ân công
đức những người có công với làng với nước và tạo sự gắn kết trong cộng
đồng khi cùng nhau tham gia tổ chức lễ hội.
- Lễ hội cũng là dịp cộng đồng làng thể hiện mối giao hòa xã hội và
tâm thức đối với vị thành hoàng.
Những biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- UBND xã quan tâm đến bảo vệ di sản và góp phần trong việc khuyến
khích, vận động, kiểm tra giám sát và chỉ đạo cộng đồng, các tổ chức, đoàn
thể tham gia tổ chức lễ hội
- Cộng đồng nhiệt tình tham gia thực hành di sản và đóng góp công sức
và tiền của cho việc tổ chức lễ hội, Nhiều cá nhân, tập thể đã công đức cho
đình và tổ chức lễ hội.
- Chiếu Chèo
(Xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Đức Chất
Sinh năm: 1940 Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Nhạc công
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, Thành phố Thái Bình
23
(2) Họ và tên: Nguyễn Thị Đức
Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ nhiệm CLB Văn hóa dân gian
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Đoàn Kết, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Trần Thị Thìn
Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Hồng Phong, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(5) Họ và tên: Nguyễn Văn Khương
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Thống Nhất, xã Đông Thọ, thành phố Thái Bình
(6) Họ và tên: Phạm Văn Tiêm
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Trung, xã Đông Thọ, TP. Thái Bình Danh sách những người thực hành có uy tín và nắm giữ tri thức,kỹ năng của nghệ
thuật trình diễn này:
STTHọ và tên Giới
tínhNăm sinh
Số năm thực hành
Kỹ năng nổi bật, vai trò trong
trình diễn
Địa chỉ, điện thoại, email
1 Nguyễn Đức Chất Nam 1940 40 Nhạc công thôn Thống Nhất
2 Hoàng Thị Nữ 1956 40 Hát chèo thôn Thống Nhất
24
Phương
3 Trần Thị Phương Nữ 1964 30 Hát chèo thôn Thống Nhất
4 Hà Văn Vọng Nam 1966 15 Hát chèo thôn Quang
Trung
5 Nguyễn Văn Thọ Nam 1963 20 Hát chèo thôn Đoàn Kết
6 Nguyễn Văn Ngọc Nam 1960 25 Hát chèo thôn Đoàn Kết
7 Nguyễn Văn Tuân Nam 1959 40 Nhạc công thôn Đoàn Kết
8 Trần Thị Tâm Nữ 1956 43 Hát chèo thôn Hồng Phong
9 Hà Văn Chí Nam 1958 35 Nhạc công thôn Đoàn Kết
10 Nguyễn Thị Tâm Nữ 1960 30 Hát chèo thôn Hồng Phong
- Nhận diện di sản chiếu chèo xã Đông Thọ:
Chiếu Chèo xã Đông Thọ có từ trước những năm 1930 của thế kỷ XX.
Hiện nay xã có 4 CLB chèo của 04 thôn Đoàn Kết, Thống Nhất, Hồng Phong,
Quang Trung.
Các làn điệu chính có lơ lớ, quân tử vu dịch, đào liễu, trúc cân hài văn,
đường trường thu không, đường trường phải chiều, xa lệch chênh. Các vở
diễn: Đôi ngọc lưu ly, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Cô Bích
tòng quân. Nhạc cụ biểu diễn có trống cái, trống chèo, mõ, nhị, lứu, đàn tam,
đàn tranh, đàn nguyệt, sáo, tiêu vv...
Hiện trạng về người thực hành nghệ thuật trình diễn này:
Số gia đình, nhóm người đang thực hành 4
Số người đang thực hành 30
Số người có khả năng truyền dạy 2
Số người đang học 50
25
Ý nghĩa của nghệ thuật trình diễn này đối với cồng đồng địa phương:
Đối với người dân xã Đông Thọ chiếu chèo sân đình được biểu diễn
trong những dịp hội làng, những ngày vui của cộng đồng đã trở thành thói
quen như một phần cuộc sống của họ.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Đối với các lễ hội tại xã Đông Thọ đã được lãnh đạo Đảng, chính
quyền đoàn thể nhân dân trong và ngoài xã luôn có những đóng góp thiết thực
về kinh phí, công sức, trí tuệ để tu bổ di tích cũng nhưng tham gia lễ hội nhiệt
tình trách nhiệm. Cộng đồng chính quyền địa phương thực hiện công tác
tuyên truyền và cùng nhau thực hiện tốt các nội quy quy định của lễ hội cũng
như luôn đề cao Luật di sản văn hóa. Chính quyền địa phương hàng năm có
kế hoạch cụ thể tổ trong công tác chức lễ hội, đấu tranh và ngăn chặn kịp thời
các hủ tục lạc hậu và biểu hiện phi văn hóa và vi phạm nội quy quy định của
địa phương. UBND xã tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa lễ
hội văn hóa tín ngưỡng trong những ngày lễ hội, nhằm phát huy giá trị, truyền
thống uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của địa phương. Vận động mọi người mọi
gia đình nêu cao tinh thần ý thức trách nhiệm gìn giữ bảo vệ di tích và lễ hội.
- Đối với chiếu Chèo truyền thống tại địa phương, UBND xã đã cho
thành lập các Câu lạc bộ chèo, 4 trên 6 thôn của xã đã có Câu lạc bộ chèo duy
trì hoạt động thường xuyên trong lễ hội làng. Bên cạnh đó các CLB còn tham
gia biểu diễn giao lưu trong cộng đồng trong những sự kiện, những ngày lễ
của thôn, xã. Các CLB đã được sự quan tâm của Đảng, chính quyền đoàn thể
nhân dân trong xã để phát huy được nghệ thuật chèo của quê hương.
3) Xã Đông Mỹ
Xã Đông Mỹ có 5 thôn là An Lễ, Gia Lễ, Tống Thỏ Nam, Tống Thỏ
Trung và Tống Thỏ Bắc nằm trải dài trên diện tích 4,22 km² với dân số trên
6.435 người. Xã Đông Mỹ có 01 DSVHPVT thuộc loại hình lễ hội truyền
thống là hội đình Tống Thỏ.
- Hội đình Tống Thỏ
26
(Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Phạm Bình Đăng
Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Phạm Đình Hòa
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng Ban bảo vệ di tích
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(3) Họ và tên: Phạm Công Cự
Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Phó Ban bảo vệ di tích
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(4) Họ và tên: Phạm Công Mong
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Phó Ban bảo vệ di tích
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(5) Họ và tên: Phạm Công Trí
Sinh năm: 1953 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban bảo vệ di tích
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(6) Họ và tên: Phạm Công Chinh
Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tế
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(7) Họ và tên: Phạm Công Miền
Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Đội tế nam quan
27
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(8) Họ và tên: Phạm Thị Thinh
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Tế nữ quan
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Nam, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(9) Họ và tên: Phạm Thị Vân
Sinh năm: 1968 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
(10) Họ và tên: Phạm Văn Bộ
Sinh năm: 1969 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tống Thỏ Bắc, xã Đông Mỹ, TP. Thái Bình
Nhận diện hội đình Tống Thỏ:
Đình Tống Thỏ thờ Ngũ vị đại vương là Diệu Cảm tôn thần, Hoành
Hưu tôn thần, Hoằng Hựu tôn thân, Hoằng Dực tôn thân, Phổ Huệ tôn thần
cùng Thất vị tòng tự là Ngọ Công Đại tướng quân, Tứ Nương phi, Lục Cung
Hoàng hậu, Hiếu Hiển linh tôn thần, Hắc Hiển linh tôn thần, Thiệu Hiển linh
tôn thần, Tam vị Bát Nạn tôn thần. Năm 1993 đình làng Tống Thỏ được công
nhận di tích lịch sử văn hóa quốc gia, hàng năm lễ hội đình được tổ chức từ
ngày mồng 3 đến mồng 4 tháng Giêng âm lịch.
Ngày 3 tháng Giêng BTC sắp xếp kiện toàn công tác chuẩn bị lễ hội.
Ngày 4 tháng Giêng từ 7 giờ đến 9 giờ sáng là lễ rước đón chân nhang từ đền
Gốc Vải (thờ Đức Thánh Trần) đền Quan Hà (thờ ngài Hắc Hiển Linh) Chùa
Thiên Ứng (thờ thánh mẫu Liễu Hạnh) và từ nhà thờ chi họ Thiên (người có
công xây dựng Đình làng) về đình Tống Thỏ tổ chức lễ hội. Sau đó là lễ khai
mạc do đại diện UBND xã điều hành. Trong ngày diễn ra lễ hội các dòng họ,
các gia đình trong thôn làng ra đình làm lễ dâng hương tế thần. Lễ tế nam
quan, lễ tế nữ quan được diễn ra vào các buổi chiều với lễ vật là xôi gà, trầu
28
rượu. Ngoài những nghi thức tế lễ linh thiêng dân làng còn được tham gia vào
các trò chơi như cờ tướng, kéo co, đu quay.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội đình Tống Thỏ đã trở thành hoạt động tâm linh không thể thiếu
trong nhân dân các làng Tống Thỏ. Mỗi khi vào dịp lễ hội nhân dân trong
làng nô nức mở hội, con em xa quê trở về quê hương cúng lễ cầu an.
- Lễ hội được duy trì là sợi dây cố kết cộng đồng địa phương, động viên
con cháu hướng về cội nguồn.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Sau mỗi mùa lễ hội UBND xã cùng với BTC lễ hội tổ chức công tác
sơ kết, tổng kết, biểu dương khen thưởng đối với những cá nhân, tổ chức
tham gia tích cực vào các hoạt động trong ngày hội, rút kinh nghiệm trong
công tác quản lý và tổ chức lễ hội sau khi kết thúc lễ hội để làm tốt hơn trong
những mùa hội sau.
- Chính quyền xã đã cử ra Ban khánh tiết để trông coi bảo vệ di tích và
tổ chức lễ hội. Năm 2017 cùng với kinh phí của thành phố của tỉnh và sự ủng
hộ giúp đỡ kinh phí của ông Phạm Văn Thọ hơn 100 triệu đồng, bà Phạm Thị
Trung 100 triệu đồng, ông Phạm Tiến Huy 30 triệu đồng, bà Phạm Thị Sen 20
triệu đồng cùng với sự công đức đóng góp của nhân dân địa phương đình
Tống Thỏ đã sửa chữa, trùng tu toàn bộ phần đình ngoài hết hơn 500 triệu
đồng. Đây là những đóng góp tích cực trong công tác bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa tại địa phương.
4) Xã Phú Xuân
Xã Phú Xuân có 03 DSVHPVT thuộc loại hình lễ hội truyền thống là
hội chùa Phú Lạc, hội đình Nghĩa Chính và hội đình Đại Lai.
- Hội chùa Phú Lạc
(Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Ông Hoàng Văn Biền
29
Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Phó Chủ tịch UBND xã
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
(2) Họ và tên: Ông Nguyễn Công Chánh
Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ hưu xã
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
(3) Họ và tên: Bà Khiếu Thị Thanh
Sinh năm: 6/3/1951 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ trưởng ban CTMT
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
(4) Họ và tên: Nguyễn Thị Rự
Sinh năm:… Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
(5) Họ và tên: Đại đức Thích Thanh Toàn
Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nhà sư
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
Các tổ chức chính trị, xã hội tham gia tổ chức lễ hội
Cấp ủy, chính quyền, ban công tác mặt trận, Ban ngành đoàn thể thôn Phú
Lạc, thôn Xuân Lôi, tổ 1 và tổ 2 thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
(1) Tên tổ chức: Hội nông dân
Họ và tên người đại diện: Ông Trần Anh
Sinh năm: 1942 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
(2) Tên tổ chức: Hội cựu chiến binh
Họ và tên người đại diện: Nguyễn Quang Tuân
30
Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
(3) Tên tổ chức: Hội phụ nữ
Họ và tên người đại diện: Khiếu Thị Miện
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Tp. Thái Bình.
Danh sách những người tham gia thực hành lễ hội hàng năm:
STT Họ và tên Giới tính
Năm sinh
Địa chỉ, điện thoại, email
1 Nguyễn Công
Chánh
Nam 1952 thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân
2 Khiếu Thị Thanh Nữ 1951 thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân
6 Nguyễn Thị Diên Nữ 1978 thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân
7 Nguyễn Hoàng
Diệu
Nam 1972 thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân
8 Nguyễn Hữu Kha Nam 1951 tổ 2 Thôn Phú Lạc, xã Phú
Xuân
9 Nguyễn Xuân Sáng Nam 1962 Tổ 1 Thôn Phú Lạc, xã Phú
Xuân
11 Khiếu Đức Mạnh Nam 1942 thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân
Nhận diện hội chùa Phú Lạc:
Chùa thờ Phật và thờ thần Thành hoàng làng là tướng quân Trần Lãm.
Theo truyền thuyết xưa xứ quân Trần Lãm vào thế kỷ thứ 10 đã đóng quân và
luyện tập võ nghệ cho quân binh tại thôn Phú Lạc. Khi ngài mất dân làng lập
31
đền thờ để tưởng nhớ đến công lao to lớn của ngài. Hàng năm dân làng mở
hội vào ngày 1 tháng 2 âm lịch lễ để trai trong làng tham gia đua tài vật võ.
Năm 2004 UBND tỉnh Thái Bình công nhận chùa Phú Lạc là di tích lịch sử
văn hóa và từ đó việc tổ chức lễ hội ngày càng chu đáo hơn. Trong ngày lễ
hội các đoàn tế của thôn Phú Lạc, thôn Xuân Lôi về chùa dâng hương tế lễ
với nội dung cầu thần phật phù hộ độ trì cho dân làng, bách gia trăm họ mạnh
khỏe, bình an. Ngoài ra ban tổ chức lễ hội còn mời các đoàn tế của các thôn
Đại Lai, Vĩnh Gia, Thắng Cựu, xã Tân Bình về tế lễ tại chùa trong những
ngày lễ hội. Lễ vật chính trong lễ hội bao gồm xôi, thịt, hương hoa, quả.
- Giá trị của lễ hội đối với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội được tổ chức có giá trị lớn đối với cộng đồng là tạo ra không
khí phấn khởi, cán bộ và nhân dân thi đua đoàn kết, tình làng nghĩa xóm gần
gũi với nhau hơn và cùng nhau dâng nén tâm hương cầu nguyện mọi sự tốt
lành nơi chốn tâm linh.
- Lễ hội nơi tâm linh của bách gia trăm họ nên sự gắn kết của cả tập thể
với dân làng thể hiện tinh thần đoàn kết, sức mạnh cộng đồng.
- Chùa làng vừa thờ Phật, vừa thờ Thành Hoàng cũng thể hiện sự tương
tác giữa các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng, thể hiện sự hòa hợp giữa các tôn
giáo tại các thôn làng ở Việt Nam.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- UBND xã đã tổ chức công tác tuyên truyền nâng cao ý thức trách
nhiệm của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường mỹ quan nơi tâm linh.
- Cấp ủy, chính quyền từ xã đến thôn duy trì và mở rộng các hoạt động
tại lễ hội để thu hút khách về dự hội, có kế hoạch đảm bảo lễ hội an toàn về
mọi mặt và có kế hoạch duy tu bảo dưỡng các tài sản quý hiếm bao đời để lại.
- Người dân trong thôn tham gia hưởng ứng các hoạt động tổ chức lễ
hội, tham gia công đức để tổ chức lễ hội.
- Hàng năm để duy trì lễ hội tốt hơn thì cán bộ và nhân dân đoàn kết,
thống nhất, khắc phục mọi khó khăn cùng nhau đem tâm công đức, phối hợp
32
nhịp nhàng, phát huy những kết quả đạt được, khắc phục thiếu sót thì lễ hội sẽ
thành công viên mãn.
- Hội đình Nghĩa Chính
(Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Ông Hoàng Văn Biền
Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ xã
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Phú Xuân
(2) Họ và tên: Đặng Thanh Vịnh
Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn, bí thư chi bộ, trưởng ban CTMT
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Trần Thị Lụa
Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm nông nghiệp
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Nguyễn Thị Hằng
Sinh năm: 1972 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm nông nghiệp
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(5) Họ và tên: Trần Quốc Bảo
Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm nông nghiệp
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
Các tổ chức chính trị, xã hội tham gia tổ chức lễ hội
(1) Tên tổ chức: Hội nông dân
Họ và tên người đại diện: Trần Thị Lụa
Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh
33
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(2) Tên tổ chức: Hội phụ nữ
Họ và tên người đại diện: Lê Thị Muối
Sinh năm: Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm nông nghiệp
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(2) Tên tổ chức: Hội Cựu chiến binh
Họ và tên người đại diện: Trần Quốc Bảo
Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Chính, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
Danh sách những người tham gia chính thực hành lễ hội hàng năm
STT Họ và tên Giới
tính
Năm
sinh
Địa chỉ, điện thoại, email
1 Đặng Thanh Vịnh Nam 1962 thôn Nghĩa Chính
2 Nguyễn Văn Rỵ Nam 1940 thôn Nghĩa Chính
3 Nguyễn Văn
Phương
Nam 1962 thôn Nghĩa Chính
4 Trần Văn Tịch Nam 1940 thôn Nghĩa Chính
Nhận diện hội đình Nghĩa Chính:
Đình Nghĩa chính thờ Tam vị Đại vương là Nam Hải Đại vương, Đông
Hải Đại vương, Tây Hải Đại vương làm Thành hoàng làng có công diệt giặc
cỏ và giúp dân chống bão lũ, cải tạo sản xuất vùng cửa biển. Hiện nay đình
còn lưu giữ 6 đạo sắc phong gồm 03 đạo sắc phong của vua Thiệu Trị, 03 đạo
sắc dưới thời vua Khải Định. Đình làng Nghĩa Chính xây dựng lại từ năm
34
1912 đến nay đã ba lần tu sửa vào các năm 1965, 1985, 2006 kinh phí do
nhân dân địa phương công đức đóng góp xây dựng.
Lễ hội năm được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch, nhân dân tổ
chức tế lễ với mục đích là lễ động thổ cầu an cho nhân dân, cầu mưa thuận
gió hòa quanh năm tươi tốt. Hàng năm tổ chức lễ hội nhân dân tới dự dâng
hương công đức tạo nguồn kinh phí chi cho các hoạt động lễ hội và tích lũy tu
sửa đồ thờ tế khí.
Giá trị của lễ hội đối với đời sống cộng đồng
- Hội đình diễn ra là để nhân dân tri ân công đức với các vị thần đánh
giặc cứu dân và cùng với nhân dân sản xuất dựng làng. Đồng thời tạo không
khí phấn khởi ngày hội đầu xuân nhân dân đoàn kết gắn bó với nhau hơn.
- Các hiện vật quý như 6 sắc phong từ thời triều Nguyễn, bát hương câu
đối, khảm, đại tự, mũ quan, câu đối đã được cố nhà nho Nguyễn Đức Thái
dịch sang chữ quốc ngữ có ý nghĩa giáo dục truyền thống, động viên các thế
hệ giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa quê hương.
Các biện pháp bảo vệ di sản:
- Đảng và nhà nước có Chủ trương, chính phủ ban hành luật tín ngưỡng
tôn giáo. UBND xã, Ban quản lý di tích chỉ đạo chặt chẽ và sâu sắc việc tổ
chức lễ hội truyền thống tạo điều kiện những thôn có di tích lịch sử tổ chức
thành công trong quá trình lễ hội. Đồng thời quản lý chặt chẽ các hoạt động
theo đúng trình tự và đúng pháp luật quy định.
- Trong những năm qua nhân dân làng Nghĩa Chính với ý thức trách
nhiệm cao, tự nguyện ủng hộ kinh phí để từng bước nâng cấp, sửa chữa, tu bổ
ngôi đình làng khang trang bền vững.
- Để duy trì lễ hội tốt hơn nữa người dân làng Nghĩa Chính cần nâng
cao ý thức trách nhiệm tới dự đông đủ và đóng góp công sức, tiền của để xây
dựng và bảo vệ công trình. Đối với chính quyền xã phải chung tay, đoàn kết
tổ chức duy trì và chặt chẽ không buông lỏng sự quản lý.
- Hội đình Đại Lai.
35
(Thôn Đại Lai, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Hoàng Văn Biên
Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ xã
Địa chỉ liên lạc: Xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Bùi Văn Kiễm
Sinh năm: 1978 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ xã
Địa chỉ liên lạc: Xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Bùi Văn Chiến
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ thôn Đại Lai 1
Địa chỉ liên lạc: Thôn Đại Lai 1, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Nguyễn Khắc Hảo
Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ thôi Đại Lai 2
Địa chỉ liên lạc: Thôn Đại Lai 2, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(5) Họ và tên: Nhà sư Thích Đàm Nhung
Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nhà sư
Địa chỉ liên lạc: Trụ trì chùa Đại Lai
Các tổ chức chính trị, xã hội tham gia tổ chức lễ hội
(1) Tên tổ chức: Hội nông dân
Họ và tên người đại diện: Nguyễn Duy Tuân
Sinh năm: 1948 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Đại Lai 2, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(2) Tên tổ chức: Hội phụ nữ
36
Họ và tên người đại diện: Nguyễn Thị Ngạn
Sinh năm: 1947 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm nông nghiệp
Địa chỉ liên lạc: Thôn Đại Lai 2, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
(3) Tên tổ chức: Hội CCB
Họ và tên người đại diện: Bùi Đình Nung
Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu
Địa chỉ liên lạc: Thôn Đại Lai 2, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình
Danh sách những người tham gia chính thực hành lễ hội hàng năm
STT Họ và tên Giới
tính
Năm
sinh
Địa chỉ
5 Nguyễn Xuân
Điều
Nam 1960 Thôn Đại Lai, xã Phú Xuân
6 Trịnh Thị Oanh Nữ 1960 Thôn Đại Lai, xã Phú Xuân
7 Nguyễn Văn
Thêm
Nam 1950 Thôn Đại Lai, xã Phú Xuân
8 Bùi Công Luận Nam 1948 Thôn Đại Lai, xã Phú Xuân
10 Nguyễn Đức Tấn Nam 1948 Thôn Đại Lai, xã Phú Xuân
11 Bùi Đình Hồi Nam 1954 Thôn Đại Lai, xã Phú Xuân
Nhận diện hội đình Đại Lai:
Đình Đại Lai thờ hai vị tướng thời Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo và Lý
Triệu Long làm Thành hoàng làng. Tương truyền vào khoảng thế kỷ thứ VI
Lý Nam Đế và Lý Triệu Long về vùng đất này lập căn cứ kháng chiến chống
quân xâm lược Nhà Lương đã cho xây dựng chùa Đại Lai để dân làng phụng
thờ sau ban cho chùa tên là Quốc Bảo Tự. Đình, chùa Đại Lai còn là căn cứ
hoạt động cách mạng bí mật trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
37
Năm 2003 UBND tỉnh Thái Bình quyết định số 381/2003/QĐ/UB công nhận
đình chùa Đại Lai là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Lễ hội đình chùa Đại Lai hàng năm được tổ chức từ ngày 14 đến ngày
15 tháng Giêng âm lịch với những nghi lễ chính như: Đại diện UBND xã làm
lễ chào cờ, tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, tóm tắt giá trị lịch sử và kết quả
công tác quản lý di tích trong những năm qua. Trong hai ngày tổ chức lễ hội
UBND xã, chính quyền thôn căn cứ vào thời gian, vào chức năng nhiệm vụ để
sắp xếp lịch trình phù hợp với lễ hội vừa đảm bảo về thời gian và an toàn
trong quá trình tổ chức lễ hội.
05 năm làng tổ chức rước kiệu chân nhang Thành hoàng một lần, đoàn
rước xuất phát từ sân đình đi vòng quanh làng. Đội hình rước bao gồm cờ tổ
quốc, cờ hồng kỳ, cờ hội, đội kỳ lân, bát biểu, 2 kiệu bát cống và các đoàn tế,
các đoàn thể, mỗi đoàn thể 15 đến 20 người tham gia. Lễ hội là dịp để cho
dân làng ra đình làm lễ dâng hương tưởng nhớ đến Thành hoàng làng và ra
chùa lễ phật cầu may. Đây cũng là dịp để các đoàn tế trong và ngoài xã về
dâng hương tế Thành hoàng làng với nhiều thức như; dâng lễ vật, chỉnh y
trang phục, củ soát lễ vật và trình tế, dâng hương, dâng hoa, tửu, trà, dâng sớ,
đọc sớ, hóa sớ với mong muốn Thành hoàng làng về chứng giám phù hộ độ trì
cho bách gia trăm họ.
Trong những ngày lễ hội nhân dân trong thôn ngoài xã còn tham gia
vào các hoạt động biểu diễn văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống và tổ
chức các hoạt động thể thao như cờ tướng, cờ biển, tổ tôm, chắn điếm, chọi
gà, vui tươi phấn khởi.
Giá trị của lễ hội đối với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội được tổ chức là nơi hội tụ các tầng lớp nhân dân địa phương
cũng như con em xa quê và quý khách xa gần cùng về dâng nén tâm hương
tưởng nhớ công ơn người có công mở mang bờ cõi, người có công với cách
mạng và hướng đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
38
- Đến với lễ hội người dân được đắm mình trong không khí của nghi lễ,
sự tri ân của các hoạt động tế lễ và được thưởng thức những trích đoạn các vở
chèo cổ hướng con người đến đạo lý ăn quả nhớ người trồng cây.
- Lễ hội khiến cho những người dân trong làng đoàn kết hơn để cùng
nhau đem tâm, công đức, trí tuệ để duy trì và phát triển lễ hội.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Hàng năm Ban tổ lễ hội chức viết giấy mời các cấp, cách ngành, các
đoàn thể, các cơ quan, cán bộ và nhân dân và phật tử xa gần, con em xa quê
về dự lễ hội đã phát tâm công đức cho các hoạt động tổ chức lễ hội và tạo
nguồn kinh phí sửa chữa và bảo vệ di sản.
- Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước từ trung ương tới địa phương đã
thường xuyên chỉ đạo về việc bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống bản sắc
quý báu xa xưa để lại..
- Chính quyền quyền tỉnh, thành phố cần chỉ đạo cho địa phương để
khơi dậy và phát huy hơn nữa trong quá trình tổ chức lễ hội đúng với tâm
nguyện của nhân dân.
- Cộng đồng người dân nhiệt tình tham gia hành hội, đóng góp công
sức, tiền của để duy trì lễ hội.
5) Xã Tân Bình
Nằm trong dải đất vùng châu thổ sông Hồng có lịch sử hình thành cách
đây trên dưới 2000 năm gắn liền với tướng công Bùi Quang Dũng chiêu mộ
binh sĩ lập nên ấp Hàm Châu. Xã Tân Bình có diện tích 3,79 km², dân số
khoảng 4.674 người, mật độ dân số đạt 1.233 người/km² phân bố trong 05
thôn làng Đồng Thanh, Chành, Tú Linh, Trường Mại, Tân Quan.
Xã Tân Bình có 01 DSVHPVT thuộc loại hình lễ hội truyền thống là
hội chùa Trừng Mại.
- Hội chùa Trừng Mại
(Thôn Trường Mại, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
39
(1) Họ và tên: Bùi Đức Cực
Sinh năm: 1978 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ xã
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Tân Bình, tp Thái Bình
(2) Họ và tên: Phạm Văn Túc
Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Công chức văn hóa
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Tân Bình, tp Thái Bình
(3) Họ và tên: Thích Thanh Trừng thượng tọa
Sinh năm: 1969 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Thượng tọa, trụ trì chùa Trừng Mại
Địa chỉ liên lạc: Chùa Trừng Mại thôn Trường Mại xã Tân Bình
(4) Họ và tên: Lê Văn Chính
Sinh năm: 1960 Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng thôn
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trường Mại, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình.
(5) Họ và tên: Nguyễn Thị Nhuần
Sinh năm: ... Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trường Mại, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình.
(6) Họ và tên: Nguyễn Thị Sáu
Sinh năm: ... Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trường Mại, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình.
(7) Họ và tên: Vũ Văn Tuyến
Sinh năm: ... Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trường Mại, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình.
(8) Họ và tên: Vũ Thị Đào
40
Sinh năm: ... Dân tộc : Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tân Quán, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình.
Các tổ chức chính trị, xã hội tham gia tổ chức lễ hội
(1) Tên tổ chức: Ban công an xã Tân Bình
Họ và tên người đại diện: Lê Chí Thành
Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Công chức, trưởng công an xã
Địa chỉ liên lạc: UBND xã Tân Bình, tp Thái Bình
(2) Tên tổ chức: Mặt trận tổ quốc xã
Họ và tên người đại diện: Hoàng Văn Khải
Sinh năm: 1969 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tịch MTTQ xã Tân Bình
Địa chỉ liên lạc: Xã Tân Bình, tp Thái Bình
(3) Tên tổ chức: Ban công tác Mặt trận thôn Trường Mại
Họ và tên người đại diện: Lê Công Đoán
Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban CTMT thôn Trường Mại
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trường Mại, xã Tân Bình, tp Thái Bình
Nhận diện hội chùa Trừng Mại
Chùa Trừng Mại thờ Phật cùng phối thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh, đình
thờ Thành hoàng làng Lý Triệu Long Tướng quân và Lý Thiên Bảo Tướng
quân cùng quan đại thần Bùi Mộc Đạc. Lễ hội hàng năm diễn ra trong 03
ngày từ ngày mồng 04 đến ngày mồng 06 tháng 2 âm lịch. Hội chùa được lưu
truyền từ thế kỷ XIX, đến đầu thế kỷ XX do chiến tranh, giặc dã nên không
tiến hành, từ những thập niên 90 thế kỷ XX hội được khôi phục lại do Đại đức
Thích Thanh Hùng về trụ trì và phát triển đến ngày nay gần 30 năm.
Nghi thức chính của lễ hội có lễ dâng hương, rước kiệu, tế Thánh, tế
Phật, tế Mẫu. Đám rước xuất phát từ sân chùa ra đường làng, đường mới cửa
41
chùa, đường S1 tuyến tránh quốc lộ 10 (700m), đường nhánh phía tây nam
cuối làng Trường Mại 300m, đường làng Trường Mại 500m, về chùa. Thứ tự
đoàn rước có cờ hội, cờ thần, trống, chiêng, kiệu lễ, cầu phật, phật đình, đội
bát âm, kiệu bát cống long đình, đoàn tế nữ quan, trống ngũ lôi, chấp kích, tứ
linh, bát cống hậu hành, tế nam quan, bát biểu, bát âm, kiệu song hành long
đình, tế nam quan, trống rước, kiệu võng, kiệu Mẫu thôn Tân Quán, nhân dân
và du khách thập phương với khoảng 1000 người tham gia. Quãng đường
rước kiệu thánh, kiệu Phật xung quanh làng với chiều dài hơn 2 km.
Trong những ngày lễ hội người dân được tham gia vào các trò chơi dân
gian có kéo co, bắt vịt, đập niêu đất, đi cầu cạn...
Giá trị của lễ hội đối với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội là dịp bà con, phật tử thể hiện tâm thức tâm linh thờ Phật-Mẫu-
Thánh, mang đậm văn hóa Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Sự hòa quyện giữa
ba hình thức tôn giáo, tín ngưỡng là một hình thức hỗn dung tôn giáo, mà
cộng đồng làng xã đã thực hành hàng trăm năm nay. Đây là một loại hình di
sản đáp ứng nguyện vọng của tín đồ, phật tử và cộng đồng nhân dân địa
phương, quý khách gần xa.
- Lễ hội chùa Trừng Mại cũng là dịp để đông đảo bà con, người dân,
làng xóm, gia đình, bạn bè tụ họp, thể hiện sự gắn kết cộng đồng địa phương,
làm tăng thêm sự đối thoại,giao lưu văn hóa giữa các tín đồ, phật tử và khách
thập phương.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản:
- Cộng đồng đã tích cực tham gia công tác quản lý, bảo tồn di tích, từ
1990 đến nay sư trụ trì của Thượng tọa Thích Thanh Hùng cùng nhiều cá
nhân, quý khách thập phương công đức trùng tu, tôn tạo, xây dựng số tiền
khoảng 43 tỷ.
- Chính quyền, nhân dân địa phương chung tay quản lý và bảo vệ để công
trình sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân được bảo tồn và phát triển.
42
- UBND xã xây dựng chương trình kế hoạch bảo tồn lễ hội, đầu tư kinh
phí trùng tu tôn tạo di tích, duy trì lễ hội thường xuyên, quảng bá rộng rãi
hình ảnh, hoạt động của lễ hội, của di tích.
BTC lễ hội đã phát huy mặt tốt, hạn chế tồn tại trong tổ chức hoạt động
lễ hội không để thương mại hóa lễ hội. Phát huy và thúc đẩy lễ hội truyền
thống đảm bảo đời sống tâm linh của nhân dân, tham gia vào các hoạt động lễ
hội, các trò chơi dân gian.
6) Phường Đề Thám
Phường Đề thám là một trong những phường trung tâm của thành phố
Thái Bình được thành lập từ năm 1981 có địa giới hành chính phía Bắc giáp
phường Bồ Xuyên, phía Nam giáp phường Kỳ Bá, phía Đông giáp phường Lê
Hồng Phong, phía Tây giáp phường Quang Trung và phường Trần Hưng Đạo;
phường có 16 tuyến phố đi qua, trong đó có 5 tuyến phố chính đó là phố Lê
Lợi, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lý Bôn, Lê Quý Đôn; có 10/16 tuyến
phố đã được thành phố công nhận là tuyến phố văn hoá. Phường Đề Thám có
diện tích tự nhiên là 55,3 ha, dân số 2018 hộ /7724 khẩu chủ yếu là các hộ sản
xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ, cán bộ và hưu trí, không có hộ sản xuất
nông nghiệp, không có khu công nghiệp. Phường có 33 tổ dân phố, 15 Chi bộ
khu dân cư; 64 cơ quan, đơn vị hành chính, công ty, doanh nghiệp đóng trên
trên địa bàn. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo,
kinh tế phát triển, tỷ lệ hộ nghèo thấp (1,05%); tệ nạn xã hội được kiểm soát
và đẩy lùi; các hoạt động phong trào có nhiều chuyển biến tích cực, bộ mặt đô
thị ngày càng khởi sắc. Trên địa bàn phường có nhiều Trung tâm thương mại
lớn như Vincom Plaza, Trần Anh và 2 chợ, thu hút rất đông số lượt người từ
khắp các địa phương khác về phường tham gia các hoạt động giao thương,
kinh doanh, mua bán, do đó cấp ủy, chính quyền phường đã tập trung chỉ đạo,
tổ chức các biện pháp nhằm đảm bảo an ninh trật tự, trật tự đô thị, an toàn
giao thông, vệ sinh môi trường và thực hiện nếp sống văn hóa theo Quyết
định 17/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình.
43
Phường Đề Thám hiện nay có 03 di tích lịch sử văn hóa gồm chùa
Trung, đền Hai Bà Trưng và miếu xóm, trong đó có 01 di sản văn hóa phi vật
là hội đền Hai Bà Trưng
- Hội đền Hai Bà Trưng
(Ngõ 102, Hai Bà Trưng, tổ 19 phường Đề Thám, thành phố Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Bùi Thị Hương
Sinh năm:1974 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND phường Đề Thám
Địa chỉ liên lạc: UBND phường Đề Thám, số 128 phố Lê Lợi, thành
phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
(2) Họ và tên: Tạ Đức Thụ
Sinh năm:1944 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ hưu
Địa chỉ liên lạc: Tổ 19, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh
Thái Bình.
(3) Họ và tên: Nguyễn Minh Quang
Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban quản lý đền
Địa chỉ liên lạc: Tổ 19, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh
Thái Bình.
(4) Họ và tên: Phạm Tú Quyên
Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban quản lý đền
Địa chỉ liên lạc: Tổ 19, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh
Thái Bình.
(5) Họ và tên: Trần Trung Kiên
Sinh năm:1978 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Công chức VHTT phường
44
Địa chỉ liên lạc: UBND phường Đề Thám, số 128 phố Lê Lợi, thành
phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
Nhận diện hội đền Hai Bà Trưng:
Đền thờ bà Trưng Trắc, Trưng Nhị và thân phụ, thân mẫu cùng phối
thờ Thổ công, Thập bát Long Thần, Đức thánh Trần, nhị vị công chúa là Đệ
nhất Đại Hùng công chúa và đệ nhị Quyên Thành công chúa. Theo truyền
thuyết đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt, bà Trưng Trắc cùng mẹ và em gái
đã dừng chân lưu lại kêu gọi, thu phục người hiền tài, các thủ lĩnh nghĩa quân
chuẩn bị quân lương theo về hợp sức dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng, đánh đuổi quân Đông Hán xâm lược nước ta. Sau khi Hai Bà Trưng về
trời, để tưởng nhớ đức độ, tấm lòng trong sáng và công lao to lớn của người
nhân dân thôn Trung làng Kỳ Bá (Kỳ Bố Hải Khẩu), nay thuộc tổ 19 phường
Đề Thám thành phố Thái Bình, đã phát tâm công đức xây dựng ngôi đền để
phụng thờ hai bà.
Hàng năm lễ hội tổ chức từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 3 âm lịch. Ngày
18 tháng 3 tế cáo yết nhằm tưởng nhớ Trưng Vương do đoàn tế Nữ quan đền
Hai Bà Trưng - Phường Đề Thám thực hiện. Ngày 19 đến ngày 21 tháng 3 âm
lịch tổ chức khai mạc lễ hội với các nghi thức trang nghiêm, dâng hương lễ
Thánh, đội tế nam quan và nữ quan do các đoàn tế trong phường và trong tỉnh
thực hiện với nội dung nêu rõ công trạng của Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh
của hai Bà. 05 năm đền Hai Bà Trưng tổ chức rước kiệu một lần vào những
năm chẵn. Kiệu rước bài vị gồm 3 kiệu đó là kiệu vua, kiệu bát cống và kiệu
mẫu, đoàn rước theo thứ tự đi đầu là kỳ lân, kèn, trống và kiệu, lễ vật xôi gà,
hoa quả và đi sau cùng là đoàn tế, nhân dân địa phương tham gia lễ hội. Đoàn
rước đi qua các đường phố chính trên địa bàn phường Đề Thám. Phần hội
trước đây có tổ chức các trò chơi dân gian như chọi gà, cờ tướng, kéo co
nhưng những năm gần đây do khuôn viên hạn hẹp nên những trò chơi dân
gian không còn tổ chức nữa mà chỉ có buổi tối là các đoàn văn nghệ quần
chúng biểu diễn.
Giá trị của hội đền Hai Bà Trưng đối với đời sống cộng đồng:
45
- Lễ hội đền Hai Bà Trưng diễn ra hằng năm nhằm giáo dục cho thế hệ
trẻ biết ơn công lao to lớn của Hai Bà Trưng trong cuộc khởi nghĩa giành độc
lập dân tộc, mang lại cuộc sống ấm lo, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân.
- Tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ, tri ân công đức hai vị nữ Anh hùng
dân tộc Trưng Trắc, Trưng Nhị và các tướng lĩnh của Hai Bà đã có công đánh
đuổi quân Đông Hán giành độc lập dân tộc.
- Lễ hội diễn ra nhằm bảo tồn phát huy các giá trị di sản văn hoá lịch sử
của ngôi đền, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đáp ứng nhu cầu đời sống văn
hoá tinh thần của nhân dân.
Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát
huy di sản văn hóa phi vật thể:
- Lãnh đạo, các nhà quản lý địa phương và đoàn thể chỉ đạo và hỗ trợ
việc tổ chức, hạnh hội.
- Thành lập Ban tổ chức lễ hội phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tiểu
ban cụ thể là Ban khánh tiết liên hệ thuê chỉ đạo tăng âm, ánh sáng, băng rôn,
khẩu hiệu, trang trí bàn tam cấp; Ban hậu cần mua sắm hoa quả, lễ vật, nước
uống ngày khai mạc, vệ sinh; Ban an ninh, sức khỏe xây dựng phương án bảo
đảm tuyệt đối an toàn về ANTT trong quá trình tổ chức lễ hội, phân công lực
lượng bảo vệ, trông coi, chuẩn bị cơ số thuốc, phân công cán bộ y tế trực cấp
cứu tại khu vực lễ hội; Ban tiếp nhận công đức chuẩn bị sổ sách, phiếu công
đức, sắp xếp bàn ghi công đức, theo dõi đôn đốc các thành viên trực, tiếp
nhận công đức của các tập thể, cá nhân.
- Cộng đồng địa phương tích cực tham gia vào công tác tổ chức được
phân công và tình nguyện tham gia việc chuẩn bị, tham gia tế lễ, lễ rước và
đóng góp công sức, tiền của cho lễ hội.
7) Phường Bồ Xuyên
Phường Bồ Xuyên được thành lập tháng 8 năm 1981 có vị trí địa lý
phía Bắc giáp với phường Tiền Phong, phía Đông giáp với sông Trà Lý, xã
Đông Hòa và xã Hoàng Diệu, phía Đông Nam giáp với phường Đề Thám và
46
phường Lê Hồng Phong, phía Tây Nam giáp với phường Trần Hưng Đạo,
phường Quang Trung. Diện tích tự nhiên của phường Bồ Xuyên là 0,83 km²,
dân số hơn 14.713 người, mật độ dân số đạt 17.727 người/km² sinh sống
trong 57 tổ dân phố.
Phường Bồ Xuyên hiện có di tích lịch sử chùa Bồ Xuyên (Vạn Xuân
tự) thuộc tổ 2 phường Bồ Xuyên, thành Phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Chùa
được xây dựng từ thời nhà Lê, là cơ sở cách mạng bí mật của Đảng, là nơi mở
lớp học truyền bá quốc ngữ, là nơi đi về của hoạt động của nhiều vị cách
mạng tiền bối của Đảng ở trung ương và địa phương. Chùa thờ vị sư tổ Tự
Thông Tiến là người có công che dấu, bảo vệ nhiều cán bộ của Đảng thời kỳ
bí mật, được nhà nước truy tặng Huy chương kháng chiến chống Pháp hạng
nhất. Phường Bồ Xuyên có 01 DSVHPVT thuộc loại hình lễ hội truyền thống
đó là hội chùa Vạn Xuân.
- Hội chùa Vạn Xuân
(Tổ 2, phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Đỗ Văn Liên
Sinh năm:1974 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND phường Bồ Xuyên
Địa chỉ liên lạc: UBND phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Thích Đàm Cầm
Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trụ trì chùa Bồ Xuyên
Địa chỉ liên lạc: Phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Nguyễn Minh Quang
Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban quản lý chùa
Địa chỉ liên lạc: Tổ 19, phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình.
(4) Họ và tên: Phạm Tú Quyên
47
Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban Quản lý đền
Địa chỉ liên lạc: Phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình.
(5) Họ và tên: Nguyễn Thị Lan
Sinh năm:1978 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban QLDT chùa
Địa chỉ liên lạc: Phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình.
Nhận diện hội chùa Vạn Xuân:
Chùa Bồ Xuyên tên chữ là Vạn Xuân Tự được xây dựng thời nhà Lê,
trải qua nhiều thiên tai, biến cố, thăng trầm đến năm Nhâm Thìn niên hiệu
Minh Mệnh thứ 13 dân làng xây dựng lại chùa như hiện nay. Công trình kiến
trúc gồm: Ngôi Tam Bảo nguy nga, phủ mẫu, nhà thờ tổ, nhà khách. Chùa
phối thờ tướng quân Trần Lãm người có công lao lớn trong việc tham gia dẹp
loạn 12 sứ quân. Tương truyền sau khi dẹp loạn thành công, Trần Lãm được
Đinh Bộ Lĩnh phong làm Phụ Dực quốc chính Thượng tướng quân, được
hưởng lộc ở đất Sơn Nam và mất ở đây. Thần phả đền Lạc Đạo chép: Thời
ông nhậm sự tại triều, đất nước thanh bình, vạn dân yên ổn, ông dâng biểu xin
vua đi chu du thiên hạ tìm đất kiến lập sinh từ để làm nơi hương hỏa về sau.
Ông chọn trang Lạc Đạo, phủ Thiên Trường (thuộc huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định), vua Đinh chấp nhận. Thần phả cho biết thêm ông đảm nhận việc
nước, phàm đông chinh bắc chiến, nơi đâu ông cũng lập chiến công hiển hách
được vua ban thưởng công lớn. Năm ông ngoài 60 tuổi đã dâng sớ xin trí sĩ tại
trang Lạc Đạo. Ngày nay tướng quân Trần Lãm được dân lập đền thờ ở đình
Xám (Lạc Đạo), đình Bo, chùa Bồ Xuyên (thành phố Thái Bình) và nhiều nơi
khác thờ vọng ông. Hàng năm lễ hội tổ chức vào 3 ngày từ ngày 20 đến 22
tháng 3 âm lịch.
Trong ngày lễ hội các đoàn đại biểu và toàn thể nhân dân lần lượt vào
dâng hương chư phật, tiếp đến về cửa mẫu dâng hương Thánh mẫu, sau đó về
nhà tổ dâng hương các vị sư tổ. Sau phần dâng hương là phần tế lễ gồm các
48
đoàn tế nữ quan chùa Vạn Xuân tế khai hội, tiếp đó là các đoàn tế nữ quan
của các phường trên địa bàn thành phố Thái Bình tham gia. Phần hội có tổ
chức các trò chơi dân gian như chọi gà, cờ tướng buổi tối là các đoàn văn
nghệ quần chúng biểu diễn.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội truyền thống chùa Vạn Xuân diễn ra hằng năm nhằm nâng cao
nhận thức, tự hào về truyền thống cách mạng vẻ vang của địa phương. Góp
phần thực hiện thắng lợi lớn các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
- Lễ hội chùa là nơi sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân
được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử thể hiện đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn”. Ngày hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của
cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị
“Thần” những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại đã co công
bảo vệ đất nước che chở xóm làng.
Các biện pháp bảo vệ hiện và phát:
- Thành lập ban tổ chức lễ hội phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tiểu
ban cụ thể như. Tổ chức tiếp nhận, sắp xếp, bố trí hợp lý các đội tế; Tổ chức
hợp triển khai kế hoạch, thành lập và phân công nhiệm vụ cụ thế cho các tiểu
ban phục vụ lễ hội, cùng với nhà chùa chuẩn bị cơ sở vật chất cho quá trình tổ
chức lễ hội; chịu trách nhiệm quản lý chung trong quá trình diễn ra lễ hội.
- Tuyên truyền giáo dục đảm bảo trong lễ hội không được diễn ra các
hoạt động mê tín dị đoan như bói toán, cờ bạc, không đốt vàng mã trong
khuôn viên di tích.
- Công an phường tham gia làm tốt công tác an ninh, trật tự và giải
quyết trật tự an toàn giao thông trong quá trình diễn ra lễ hội.
- Trạm y tế phường có trách nhiệm phân công cán bộ thường xuyên
thường trực tại khu vực lễ hội có biện pháp quản lý dịch bệnh và cấp cứu điều
trị khi có tình huống xấu xảy ra. Kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm trong
quá trình tham gia lễ hội.
49
- Cộng đồng nhân dân tích cực tham gia Ban tổ chức, và các tiểu ban
thi hành các nhiệm vụ được phân công. Nhiều cá nhân tình nguyện tham gia
phục vụ ban tế lễ, ban hậu cần
8) Phường Kỳ Bá
Phường Kỳ Bá được hình thành trên đất của ba ngôi làng cổ là Kỳ Bá,
An Tập, Đồng Lôi và một phần của An Chính. Diện tích tự nhiên của phường
là 169,37 ha, phía Bắc giáp với phường Lê Hồng Phong, phường Đề Thám,
phía Nam và Tây Nam giáp với phường Quang Trung, xã Vũ Chính, phía
Đông và Đông Nam giáp với phường Hoàng Diệu, phường Trần Lãm; Với
dân số trên 18 nghìn khẩu. Phường Kỳ Bá có hai con sông nhỏ, phía Bắc có
sông Vĩnh Trà, nối tiếp với sông Bo; phía Nam có sông 3-2. Nhân dân
phường Kỳ Bá có đời sống tinh thần lành mạnh, có truyền thống uống nước
nhớ nguồn. Phường Kỳ Bá hiện có chùa Tiền, đền Nhất Thanh, đền Đồng Lôi,
đình Bo và có 01 di sản văn hóa phi vật thể đó là hội truyền thống đình Bo.
- Hội đền đình Bo
(Tổ 16, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Lý
Sinh năm:1944 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ
Địa chỉ liên lạc: Tổ 16, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình.
(2) Họ và tên: Trần Thị Ngái
Dân tộc: Kinh
Sinh năm: 1948
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Tổ 19, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình.
(3) Họ và tên: Nguyễn Duy Linh
Sinh năm:1953 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ hưu
50
Địa chỉ liên lạc: Tổ 20, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình.
(4) Họ và tên: Phạm Hồng Thái
Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ VHTT
Địa chỉ liên lạc: UBND phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình.
Nhận diện hội đình Bo:
Đình Bo thờ tướng quân Trần Lãm, tức Trần Minh Công người có công
mở đất, giúp Ngô Quyền đánh đuổi giặc ngoại xâm, dẹp loạn 12 sứ quân, lập
lên nước Đại Cổ Việt. Truyền thuyết kể rằng năm 933 hưởng ứng lời kêu gọi
cứu nước của Ngô Quyền chống quân Nam Hán, Trần Minh Công đem lễ vật
và vận động nhân dân trong vùng tham gia chặt cây đẽo cọc, vận chuyển
lương thực góp phần vào chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng. Năm 944
Ngô Quyền mất loạn lạc “thập nhị sứ quân” Trần Lãm tự xưng là Minh Công
giữ miền Kỳ Bố Hải Khẩu đã trở thành một sứ quân có thế lực mạnh nhất
trong 12 sứ quân. Bước đầu dựng cờ, còn bao khó khăn nhân tài vật lực nên
Đinh Bộ Lĩnh đã chọn Trần Lãm và đất Kỳ Bố Hải Khẩu làm nơi tựa dựa.
Trần Lãm thấy Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô, lạ thường lại có khí độ, bèn nhận
làm con nuôi đối đãi ngày càng hậu. Trần Minh Công đem tài sản, binh quyền
và bầy mưu kế cho Đinh Bộ Lĩnh đánh bại 11 sứ quân khác, dựng nên nước
Đại Cổ Việt. Trong hoàn cảnh lịch sử đầy gian nguy lúc đó, kế nghiệp sự
nghiệp cha nuôi Đinh Bộ Lĩnh người anh hùng dân tộc ở đất Hoa Lư đã dẹp
tan được nạn cát cứ và nội chiến, thu lại giang sơn về một mối củng cố nền
độc lập dân tộc. Tướng quân Trần Lãm đã cống hiến tất cả sự nghiệp thống
nhất đất nước, nêu gương sáng về phẩm chất đạo đức. Trong triều đình Trần
Minh Công giữ chức “phụ dực quốc tể thượng tướng công”. Khi ngoài sáu
mươi, Trần Minh Công xin vua từ quan nộp ấn trở về Trang Đạo chu cấp cho
nhân dân 20 hốt vàng để sản xuất, khuyến khích nghề nông, trồng dâu nuôi
tằm, chăn nuôi gia súc gia cầm. Ngày 10 tháng 10 năm Ất Hợi Trần Công
Minh mất tại hành cung nhân dân trang Lạc Đạo thương tiếc đã lập đền thờ
51
ông. Để ghi nhớ công lao của Trần Lãm nhân dân vùng Kỳ Bố Hải Khẩu cũng
dựng đền thờ, suy tôn Trần Minh Công là thành hoàng bản cảnh.
Hàng năm tổ chức lễ hội truyền thống từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 8
âm lịch. Trước khi tổ chức lễ hội UBND phường thành lập ban tổ chức phân
công, các đơn vị phụ trách các công việc cho lễ hội được diễn ra thuận lợi
Trong 3 ngày hội nhiều hoạt động diễn ra như các nghi thức tế lễ do
đoàn tế của phường và các đoàn tế của các phường lân cận tham gia, dâng
hương. Ngoài ra còn tổ chức các trò chơi dân gian như đập niêu đất, cờ
tướng, chọi gà… và chương trình văn nghệ vào các buổi tối.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội đình Bo giúp nhân dân ôn lại những trang sử vẻ vang, oanh liệt
của con người Kỳ Bá trong cách mạng và trong các cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, là dịp con người được trở về cội nguồn có ý
nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Thể hiện sức mạnh cộng đồng
đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
- Lễ hội được tổ chức hàng năm giáo dục cho các thế hệ sau biết giữ
gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân
tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi giải trí.
- Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với
thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách
đến với ngày mai tươi sáng hơn.
Các biện pháp bảo vệ và phát:
- Phát huy vai trò lãnh đạo của chính quyền địa phương trong công tác
tổ chức và hướng dẫn, điều hành các hoạt động tại lễ hội, xác định đây là một
hoạt động lễ hội nghiêm túc, linh thiêng, có giá trị về mặt tâm linh đối với cư
dân địa phương và khách du lịch. Vì vậy,UBND phường xác định đúng vai
trò chủ đạo trong công tác tham mưu của Ban tổ chức lễ hội, Ban quản lý di
tích để giải quyết những vấn đề phát sinh diễn ra trong lễ hội một cách nhanh
nhất tránh xảy ra những vấn đề đáng tiếc ảnh hưởng đến giá trị tâm linh.
52
- Để lễ hội diễn ra thành công, hạn chế những vi phạm của người tham
gia lễ hội các Ban ngành địa phương đã phối hợp tổ chức, thanh tra, kiểm tra
thường xuyên, xử lý nghiêm minh những sai phạm tại lệ hội như biến tướng
cờ bạc, lừa bịp du khách.
- UBND phường đã tăng cường tuyên truyền thực hiện nếp sống văn
minh trong lễ hội để nâng cao ý thức của người dân và du khách khi tham gia
lễ hội trong việc bảo vệ và gìn giữ môi trường xanh, sạch, đẹp, bảo vệ di tích
không bị phá hủy những nét cổ vốn có.
- Cộng đồng tự nguyện tham gia các hoạt động tổ chức, thực hành hội.
9) Phường Hoàng Diệu
Phường Hoàng Diệu nằm ở tả ngạn sông Trà Lý, phía Đông giáp xã
Đông Mỹ, có đoạn sông Sa Lung dài hơn 2 km làm ranh giới, phía Tây và
Nam giáp sông Trà Lý với một vòng cung đê dài gần 7 km ôm lấy 2 mặt của
xã, bên hữu ngạn là trung tâm thành phố Thái Bình, phía Bắc giáp với xã
Đông Hòa. Diện tích tự nhiên của phường là hơn 1050 ha, trong đó đất canh
tác 365 ha, đất thổ cư 72 ha, bãi bồi 20 ha, dân số là 3.345 hộ/13.715 người
sinh sống trong 9 thôn. Trên địa bàn phường Hoàng Diệu có di tích lịch sử
kiến trúc nghệ thuật đền Quan, chùa Từ Xuyên, đình Bo, chùa Cộng Hòa. Có
01 di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình lễ hội truyền thống đó là lễ hội
Đền Quan.
- Hội đền Quan
(Tổ 27, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Phạm Văn Húng
Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND phường Hoàng Diệu
Địa chỉ liên lạc: UBND phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Bùi Văn Cần
Sinh năm: 1980 Dân tộc: Kinh
53
Nghề nghiệp: Phó chủ tịch UBND phường Hoàng Diệu
Địa chỉ liên lạc: UBND phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Trần Thị Sen
Sinh năm:1964 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ
Địa chỉ liên lạc: Tổ 28, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Phạm Đình Thắng
Sinh năm:1981 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Thủ nhang đền
Địa chỉ liên lạc: Tổ 27, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình
(5) Họ và tên: Vũ Văn Nhỏ
Sinh năm:1963 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Công chức VHTT phường
Địa chỉ liên lạc: UBND phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình
Nhận diện hội đền Quan:
Đền Quan là nơi thờ quan Hà Đê Sứ - Nam Đạo đại thần tướng họ
Trần, húy Thắng. Tương truyền quan “Hà Đê Sứ” là người có công dẹp giặc
ngoại xâm và giúp dân trị thủy sông Trà, vào những năm 903-905 quan lớn
được vua ban chiếu về trấn quản tại vùng cửa Kỳ Bố Hải Khẩu. Quan là
người có diện mạo oai phong khôi ngô, tuấn tú, học một biết mười. Năm 905
đê Tha Lũng nay là đê Sa Lung phường Hoàng Diệu bị vỡ nước lũ dâng trào
gây cảnh thiên nhiên thảm khốc quan lớn đã huy động quân lính và nhân dân
ngăn dòng lũ không được, ông giận bản thân mình không cứu được nhân dân
khỏi bị lũ ông đã cưỡi ngựa lao xuống dòng sông tuẫn tiết, nhân dân trong
vùng đã lập đền thờ cúng.
Lễ hội hàng năm diễn ra trong 3 ngày từ ngày 17 đến hết ngày 19 tháng
Giêng âm lịch.
Diễn trình tổ chức lễ hội các đoàn tế nam quan, nữ quan của địa
phương và các địa phương khác tham gia tế tại sân đền tế Thánh. Thường một
54
đoàn tế gồm 10 đến 12 người tham gia. Ngày 15 tháng Giêng tổ chức tế cáo
yết do Ông Hà Văn Tăng phụ trách đoàn tế nam quan họ Hà. Ngày 16 tháng
Giêng là đoàn tế nữ quan họ Trần và đoàn tế nữ quan đền Cống Trúc phường
Hoàng Diệu.
Ngày 17 tháng Giêng các đoàn tế nữ quan của chùa Sùng Nghiêm, Đệ
Nhất Linh từ và nữ quan họ Trần, nữ quan của đền Hai Bà Trưng.
Ngày 18 tháng Giêng tổ chức lễ tiễn thuyền. Thành phần tham gia
đoàn rước gồm các đoàn tế nam quan, nữ quan cùng đoàn thể và nhân dân địa
phương tham dự. Đội rước thuyền tập trung ngoài bãi xe phía ven sông gồm
đội kiệu thuyền, đội giàn năm, đội kèn đồng và lực lượng rước thuyền, sau đó
đội rước thuyền bắt đầu rước vào trong đền đứng giữa cửa đền dưới sân khấu
sau khi chào mừng xong thì di chuyển ra ven ao phía cổng vào bắt đầu di
chuyển đi rước việc rước thuyền rồng được thực hiện từ bờ sông trước cửa
bản đền, cách đền khoảng 500 m. Thuyền rồng rước về được để ngay trước
bàn thờ 3 ngày diễn ra lễ hội sau khi kết thúc lễ hội thì tiễn thuyền hóa thuyền
vào ngày bế mạc lễ hội.
Các trò chơi dân gian truyền thống trong lễ hội: Cầu kiều, bắt vịt, xếp
ổi bo, tổ tôm, cờ tướng, kéo co nam, nữ, chọi gà…
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Đối với đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người dân ghi nhớ công lao
của các bậc tiền bối, giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ
và nhân dân phường Hoàng Diệu.
- Khách thập phương về đền Quan dâng hương bày tỏ tấm lòng thành
kính tới những người đã có công với dân, với nước. Đây là cơ hội để thế hệ
trẻ hiểu thêm về lịch sử dân tộc, nét văn hóa dân tộc của người Việt Nam. .
- Hội đền Quan dịp đầu năm, trong tâm nguyện, ai nấy đều cầu mong
mọi điều an vui, hạnh phúc và may mắn sẽ đến; làm tăng thêm tình đoàn kết,
gắn bó thực hiện tốt phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể:
55
- Người dân và cộng đồng đã bảo vệ và phát huy lễ hội thông qua các
biện pháp như nhân dân và du khách thập phương đã chấp hành tốt nội qui
của ban tổ chức nhà đền, tích cực ủng hộ vật chất cũng như tinh thần để đền
có điều kiện tổ chức lễ hội ngày càng tốt hơn.
- Chính quyền đã bảo vệ và phát huy lễ hội truyền thống thông qua các
hình thức: Tuyên truyền ý nghĩa và tầm quan trọng của lễ hội đến với người
dân; Ủy ban nhân dân phường đã thành lập Ban quản lý di tích gồm 17 thành
viên (Đảng , HĐND, UBND, UBMTTQVN và các ban ngành đoàn thể, chi
ủy, chi bộ, Ban công tác mặt trận số 18, tổ dân phố số 27); phân công nhiệm
vụ cụ thể cho từng thành viên.
- Công tác chuẩn bị về an ninh trật tự, vệ sinh môi trường đã được bố
trí sắp xếp từ trước đây một tháng. Ban tổ chức sẽ hướng dẫn khắp thập
phương thắp hương theo trật tự, thoải mái bày tỏ tâm nguyện đầu năm.
- Để duy trì tốt hơn nữa trước hết chính quyền các cấp, các ngành cần
quan tâm sát sao hơn nữa, tích cực tuyên truyền, giáo dục về truyền thống
cũng như lịch sử của di tích đến với người dân. Duy trì việc tổ chức lễ hội
hàng năm ngày càng phát triển và mở rộng hơn nữa.
10) Phường Tiền Phong
Phường Tiền Phong có diện tích 2,53 km², dân số 10.594 người sinh
sống trong 02 thôn là thôn Đoan Túc và thôn Nhân Thanh, ngăn cách bởi bờ
đê Vùng. Người dân Tiền Phong chủ yếu canh tác lúa 2 vụ, xen lẫn rau màu
quanh năm, công nghiệp có Nhà máy Gạch Tiền Phong, nhà máy Xi măng,
nhà máy Nước Thành phố. Phường Tiền Phong có 01 di sản văn hóa phi vật
thể thuộc loại hình là lễ hội truyền thống là hội đình Nhân Thanh.
- Hội đình Nhân Thanh
(Phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Phạm Thanh Tùng
Sinh năm:1952 Dân tộc: Kinh
56
Nghề nghiệp: Trưởng Tiểu ban quản lý di tích
Địa chỉ liên lạc: Tổ 4, phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Phan Văn Hậu
Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Tổ 3, phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Khiếu Thị Nhuần
Sinh năm: 1948 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: phó ban khánh tiết
Địa chỉ liên lạc: Tổ 4, phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Đinh Thị Sớm
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Thủ từ
Địa chỉ liên lạc: Tổ 2, phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình
Nhận diện hội đình Nhân Thanh:
Đình Nhân Thanh xây dựng từ thời Lê, đại tu năm Mậu Tý (1888) tọa
lạc trên khuôn viên rộng 5.259 m2. Đình thờ Đào Lang vương Lý Thiên Bảo
và Lý Triệu Long làm Thành hoàng làng. Từ xưa đình chỉ tổ chức tế lễ chứ
không tổ chức lễ hội. Từ năm 2008 đình mới mở hội vào ngày 10 tháng 08 âm
lịch. Những nghi thức chính trong lễ hội sau khi ban tổ chức đọc khai mạc lễ
hội là lễ dâng hương của các vị đại biểu các ban, ngành, đoàn thể, dòng họ và
nhân dân trong phường. Lễ vật dâng thánh bao gồm hương, hoa, xôi, oản, thủ
lợn, bánh kẹo, bia rượu. Buổi chiều là màn tế thánh của đoàn tế trong phường.
Trong lễ hội không tổ chức trò chơi dân gian.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Hàng năm cứ mỗi dịp mồng 10 tháng Tám âm lịch, nhân dân lại tổ
chức lễ hội truyền thống tưng bừng, trang trọng để tưởng nhớ công lao, tài
đức của các vị thành hoàng làng, tạ ơn người đã phù hộ cho người dân được
yên vui, sức khỏe. Đồng thời cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa
57
màng bội thu, cầu mong sức khỏe, tài lộc, con cháu học hành, làm ăn tấn tới.
Lễ hội cũng là dịp người dân nghỉ ngơi, tham gia các trò chơi dân gian, hầu
đồng, tế lễ, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh.
Các biện pháp bảo vệ hiện phát huy:
- UBND Phường thành lập Ban tổ chức lễ hội thành lập ban khánh tiết,
ban hậu cần, đảm bảo an ninh trật tự trong ngày diễn ra lễ hội; Hội Phụ nữ,
Hội Người cao tuổi, hội phật tử tham gia vào công tác chuẩn bị, hậu cần của
lễ hội.
- Kinh phí tổ chức lễ hội hàng năm do toàn thể nhân dân, con em xa
quê đóng góp công đức.
- Các cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ địa phương nhiều hơn nữa
trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích cũng như giá trị của lễ hội
truyền thống.
- Cần có một chế tài hợp lý cho các thành viên trong ban quản lý di
tích, ban tổ chức lễ hội và tạo điều kiện hơn nữa về kinh phí trùng tu, tôn tạo
lại chùa cũng như kinh phí cho tổ chức lễ hội.
11) Xã Vũ Chính
Vũ Chính nằm ở phía Nam của thành phố Thái Bình, cách trung tâm
thành phố khoảng 3,5 km có địa giới hành chính phía Đông giáp xã Vũ Lạc,
phía Đông Bắc và phía Bắc giáp phường Trần Lãm, phía Bắc giáp phường Kỳ
Bá, phía Tây Bắc giáp phường Quang Trung, phía Tây giáp xã Vũ Phúc, phía
Nam giáp xã Vũ Hội (huyện Vũ Thư), phía Đông Nam giáp xã Vũ Ninh
(huyện Kiến Xương). Xã Vũ Chính có diện tích là 558 ha với dân số khoảng
13.200 người với hơn 10 dòng họ sinh sống, trong đó đông nhất là ba họ
Nguyễn Xuân (Nguyễn Ngọc), Phan Văn, Vũ Đình sống tập trung trong 3
làng là Tống Vũ, làng Tống Văn và làng Lạc Chính chia thành 12 thôn và 2 tổ
dân phố (các thôn gồm Tống Văn, Nam Hùng, Trấn Tây, Quyến, Trung Hòa,
Lạc Chính, Tiên Sơn,Tống Vũ, Tây Sơn, Hòa Hải, Đông Hải, Vũ Trường, Tổ
dân phố 1, Tổ dân phố 2). Về diện tích xã Vũ Chính là đơn vị hành chính lớn,
58
với dân số đứng đầu khối xã thuộc thành phố và đứng đầu khối xã của tỉnh
Thái Bình. Tính đến năm 2015, tổng thu nhập toàn xã một năm ước đạt 550 tỷ
đồng, bình quân đầu người đạt 47 triệu/người/năm, là xã có kinh tế mạnh
hàng đầu trong khối xã thuộc thành phố và tỉnh Thái Bình. Vũ Chính là điểm
sáng trong xây dựng nông thôn mới với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại. Địa bàn xã hiện nay cũng nằm trong quy hoạch xây dựng nhiều
cơ quan, doanh nghiệp của tỉnh. Nằm trên mảnh đất có truyền thống văn hóa -
tâm linh, xã Vũ Chính có 3 ngôi chùa của 3 làng là chùa Chanh, chùa Xam,
chùa Tống Vũ và 1 ngôi đình làng Tống Vũ. Các đình chùa đều được nhân
dân đóng góp xây dựng kháng trang, được công nhận là di tích lịch sử, văn
hóa cấp tỉnh. Xã Vũ Chính có 01 di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình lễ
hội truyền thống.
- Hội làng Tống Vũ
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Thị Oanh
Sinh năm:1987 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trụ trì
Địa chỉ liên lạc: Xóm 5, Tống Vũ, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Nguyễn Đắc Phùng
Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Xóm 5, Tống Vũ, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Nguyễn Bá Trúc
Sinh năm:1990 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Xóm 4, Tống Vũ, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Nguyễn Bá Vinh
Sinh năm:1987 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban tổ chức lễ hội
59
Địa chỉ liên lạc: Xóm 3, Tống Vũ, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình
Nhận diện hội làng Tống Vũ:
Đình làng Tống Vũ thờ Diêm La, Đông Hải Đại Vương, Tây Hải Đại
Vương, Đức bà Đồng Vàng thánh nương Tôn thần, bản thổ thành hoàng Linh
Chấn Đại Vương. Theo lệ làng xưa, hàng năm có 02 kỳ lễ hội là hội mùa
Xuân vào ngày 02 tháng Giêng và hội mùa Thu 15 tháng 8. Hội chính diễn ra
vào mùa Xuân.
Hội Xuân diễn ra vào mồng 2 Tết Nguyên Đán trong khi những người
lớn tuổi đang mải cúng lễ cầu may trong chùa thì ngoài sân, những trò chơi
dân gian đặc sắc diễn ra tưng bừng khí thế. Hiện hội Xuân làng Tống Vũ còn
duy trì được khá nhiều trò chơi dân gian truyền thống như đu tiên, trèo cây
chuối, leo cầu phao, mò trứng dưới ao, bắt vịt, thi kéo lửa nấu cơm cần. Được
biết hội Xuân làng Tống Vũ là một trong ba hội trong tỉnh còn duy trì được
tục nấu cơm cần. Nghe các cụ kể lại, nấu cơm cần là một trò chơi mô phỏng
cuộc hành quân của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ trong cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn. Do yêu cầu hành quân thần tốc nên phải vừa đi vừa nấu cơm phục
vụ binh lính ăn no kịp thời đánh giặc. Ngoài ra theo dân gian trò thổi cơm thi
còn mang ý nghĩa phản ánh đời sống lao động của dân cư vùng trồng lúa,
phản ánh ý thức tôn trọng sản phẩm nông nghiệp là hạt thóc hạt cơm khi phải
bỏ nhiều công sức mới có được bát cơm thơm dẻo. Có một điều đặc biệt ở hội
Xuân làng Tống Vũ, các trò chơi được thực hiện theo hình thức thi và tuân
theo trình tự, qua được trò này mới đến trò khác, đồng thời mang tính tập thể
cao. Trước kia trò thi nấu cơm được thực hiện đủ các khâu như để có gạo nấu
cơm phải xay lúa, giã gạo, sàng sẩy rồi mới lấy nước, đem gạo vo nấu cơm.
Song ngày nay khâu làm gạo được lược bớt bằng cách chuẩn bị gạo sẵn. Phần
kéo lửa, trước kia phải kéo nứa vào rơm cho đến khi phát lửa, sau đó lấy lửa
đó thổi cơm, song ngày nay được thay bằng trò khác như trèo cây chuối lấy
phần thưởng trên ngọn là chiếc máy lửa… Vào hội, những người chơi được
chia thành hai đội thi tài với nhau. Sau hồi trống lệnh, trò chơi bắt đầu bằng
60
trò leo cầu phao. Cầu phao là một cây tre một đầu được kê vào hai cây tre
khác cắm chéo dưới ao cách bờ vài mét, một đầu ở trên bờ nhưng kê trên một
con lăn. Người chơi phải dũng cảm và rất khéo giữ thăng bằng mới đi được
đến cuối cầu mà không bị ngã xuống ao. Khi thành công mới được tiếp trò
chơi thứ hai là mò trứng trên cọc. Có 10 chiếc cọc tre được chôn chìm dưới
ao, trên hai chiếc cọc bất kỳ sẽ đặt hai quả trứng dành cho hai đội. Người chơi
phải lặn mò lần các đầu cọc đến khi nào tìm được trứng thì đội chơi đó sẽ
được chơi tiếp trò bắt vịt. Hai con vịt được thả từ trước đang bơi lội tung tăng
dưới ao, người chơi phải thi bơi với vịt đến khi đuổi bắt được một con thì
người đội mình mới được chơi tiếp trò leo cây chuối. Cây chuối hột cao
chừng 5 mét được dựng thẳng đứng, xung quanh trát kín bùn trơn. Leo cấy
chuối đã khó, song lại phải leo cây chuối trát bùn xung quanh nên để lên đến
ngọn lấy được chiếc máy lửa trên đó rất cần sức khoẻ, sự kiên trì khéo léo.
Mặc dù tiết trời rét buốt, trò chơi chủ yếu làm ướt, lấm song từ người tham
gia chơi đến những người xem đều không ngại mà ngược lại, nhiệt tình hết
mình. Tiếng trống giục động viên, tiếng hò reo vỗ tay cổ vũ khiến hội chơi
mỗi lúc một sôi động hơn. Không khí ngày hội như nóng sực qua từng kết quả
người chơi có vượt qua thử thách hay không? và đội nào chinh phục thử thách
được chơi trò tiếp theo trước. Cứ như thế, khi đội nào đã vượt qua trò trèo cây
chuối để lấy (máy) lửa thì tiếp tục đến trò nấu cơm. Các cô gái quần nâu áo
vải đã sẵn sàng vo gạo vào nồi, nổi lửa nhóm vào củi nứa. Hai người vừa
khiêng nồi cơm đi vòng quanh làng một người vừa giữ lửa bảo đảm cho lửa
cháy to đều dưới đáy nồi. Để làm được điều đó rất cần sự khéo léo phối hợp
hài hoà và hiểu ý nhau, điều tiết cho nhau trong các động tác đun nấu. Như
thế cơm mới không bị sống, chín không đều hoặc không bị cháy và bảo đảm
thời gian nhanh hơn đội bạn. Trong lúc nấu cơm, trứng được bỏ vào hấp phải
đúng thời điểm để bảo đảm trứng chín đều lành lặn. Sau khi hết thời gian quy
định, giám khảo sẽ kiểm tra kết quả, đội nào có cơm chín đều, dẻo thơm,
trứng chín tới và nhanh hơn đội bạn thì đội đó thắng cuộc.
61
Hội tháng Tám diễn ra vào ngày 15 tháng 8 âm lịch, trong ngày hội
ngoài phần tế lễ dâng hương dân làng còn tổ chức các trò đấu vật, chọi gà, hát
chèo
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
- Hàng năm cứ mỗi dịp mồng mười tháng Tám âm lịch, nhân dân lại tổ
chức lễ hội truyền thống tưng bừng, trang trọng để tưởng nhớ công lao, tài
đức của thành hoàng làng, tạ ơn người đã phù hộ cho nhà nhà được yên vui,
sức khỏe. Đồng thời cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội
thu, cầu mong sức khỏe, tài lộc, con cháu học hành, làm ăn tấn tới. Lễ hội
cũng là dịp người dân nghỉ ngơi, tham gia các trò chơi dân gian, hầu đồng, tế
lễ, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh.
- Hội Xuân, tuy chỉ là trò vui chơi giải trí là chính, phần thưởng chỉ là
một chút quà nhỏ động viên, song năm nào những trò chơi dân gian trong
ngày hội xuân của làng cũng thu hút đông đảo mọi người tham gia hưởng
ứng. Những năm gần đây, hội làng còn đưa những trò chơi, môn thể thao mới
như tổ chức thi đá bóng giữa các làng... khiến hội làng thêm phần phong phú
và hấp dẫn. Không chỉ mang ý nghĩa giáo dục cao, hội làng còn là nét đẹp văn
hoá truyền thống, là dịp để mỗi người hoà đồng thắt chặt tình làng nghĩa xóm;
xoá bỏ ưu tư, toan tính trong cuộc sống hàng ngày để hướng thiện, để lòng
mình thanh thản, vô tư, hướng về một năm mới với những thành công mới
trong học tập, công tác và lao động sản xuất.
Các biện pháp bảo vệ hiện và phát:
- Các ban, ngành, đoàn thể và toàn thể nhân dân của làng Tống Vũ đều
nhất tâm công đức nhân lực và vật lực để tổ chức lễ hội tham gia lễ hội với
tâm thế của những người trở về nguồn cuội, thoát bỏ mọi lo âu, phiền muộn
của đời sống hàng ngày.
- Các cấp chính quyền địa phương cần tạo điều kiện hơn nữa về kinh
phí trùng tu, tôn tạo lại chùa, đình cũng như kinh phí cho tổ chức lễ hội. Các
cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ địa phương nhiều hơn nữa trong công tác
62
bảo tồn và phát huy giá trị của các trò chơi dân gian tại lễ hội. Đoàn thanh
niên của thôn đứng ra quyên góp lấy kinh phí tổ chức trò chơi dân gian tại hội
Xuân, cùng với ban tổ chức hội làng đảm nhận tổ chức các trò chơi dân gian
vào hội Xuân.
- Cộng đồng nhân dân tích cực tham gia các hoạt động của lễ hội, tự
nguyện, hoặc được phân công. Nền tảng của sự tồn tại lễ hội làng chính là
cộng đồng đã sáng tạo, thực hành và bảo vệ trong hàng thế kỷ.
12) Phường Trần Lãm
Trần Lãm là một phường thuộc thành phố Thái Bình vào thời Bắc
thuộc nằm trong vùng Bố Hải Khẩu, thuộc hương Đa Cương của quận Giao
Chỉ. Vào thế kỷ thứ X, nơi đây là cửa Biển, do sứ quân Trần Lãm chiếm giữ
làm căn cứ giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Sau Bố Hải Khẩu được
bồi lấp dần thành xã Kỳ Bố, thời Nguyễn có tên gọi là xã Lạc Đạo, thuộc
Tổng Lạc Đạo, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, trấn Nam Sơn Hạ. Sau cách
mạng tháng 8 năm 1945, ngày 10/4/1946 Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình
quyết định xóa bỏ đơn vị hành chính Tổng, đổi Phủ thành Huyện, xã Lạc Đạo
và xã Tống Vũ được sáp nhập thành xã Vũ Lãm do huyện Vũ Tiên quản lý.
Ngày 12/4/2002 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 45/2002/NĐ-CP thành
lập phường Trần Lãm, trực thuộc thành phố Thái Bình, tỉnh thái Bình. Qua
nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, phường trần Lãm đã trải qua nhiều lần
biến đổi về địa giới hành chính. Hiện nay, Phường có diện tích 3,31 km², bao
gồm 37 tổ dân phố với 5.362 hộ, trên 16.000 nhân khẩu (tính đến thời điểm
30/12/2014). Phường Trần Lãm có 02 di sản văn hóa phi vật thể trong đó có
01 di sản thuộc loại hình lễ hội truyền thống và 01 di sản thuộc loại hình nghề
thủ công truyền thống.
- Hội đình Lạc Đạo
(Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Khiếu Đức Thao
63
Sinh năm: 1970 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình.
(2) Họ và tên: Phạm Xuân Lanh
Sinh năm: 1970 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Phó trưởng ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình.
(3) Họ và tên: Cao Duy Biên
Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ
Địa chỉ liên lạc: Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình.
(4) Họ và tên: Đào Văn Tá
Sinh năm: 1979 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Cán bộ
Địa chỉ liên lạc: Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình.
(5) Họ và tên: Nguyễn Thị Búp
Sinh năm: 1941 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Thủ nhang
Địa chỉ liên lạc: Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình.
Nhận diện hội đình Lạc Đạo:
Đình thờ Đức thánh Nam Hải Đại vương; Đức Thánh Đông Hải Đoàn
Thượng Đại vương; Công chúa Mỵ Châu; Trần Minh Công (Trần Lãm), phối
thờ Đức thánh Câu Mang Đại vương và Lục Lang Trung tịnh đại vương.
Hàng năm đình Lạc Đạo có 03 kỳ tổ chức lễ hội là mùng 5 tháng Giêng
ngày húy của Đức thánh Nam Hải Đại Vương và mùng 10 tháng 10 ngày húy
của Trần Minh Công nhưng hội chính diễn ra từ ngày 14 đến ngày 15 tháng
08 âm lịch.
Ngày 14 tháng 8 âm lịch lễ rước xin chân nhang Thành Hoàng từ đình
Cả Lạc Đạo về đình Lộng để thờ trong 03 ngày lễ hội (thôn Lộng nay thuộc
64
địa bàn tổ dân phố số 07 và 08 của phường Trần Lãm), theo các cụ để lại,
trong thời đại Phong kiến xã Lạc Đạo có 04 thôn (thôn Bắc, thôn Nhất, thôn
Nhì, thôn Cự Lộng) 04 thôn này đều có Đình gọi là Đình em tương đương với
04 Giáp, theo tục lệ trong ngày khai mạc lễ hội phải về đình Cả để xin chân
nhang về thờ tại Đình của thôn mình. Nhưng thật đáng tiếc, đến nay Đình của
thôn Bắc, thôn Nhất đã bị phá bỏ không thể khôi phục lại được, chỉ còn Đình
Lộng đến nay được bảo tồn thực hiện nghi thức rước này. Không có tục
kiêng, hèm. Lễ vật chính trong lễ hội: Chủ yếu là xôi, thịt. Các trò chơi dân
gian truyền thống trong lễ hội: Đi cầu kiều, tổ tôm điếm, trọi gà, bắt vịt dưới
ao đình, cờ tướng.
Trong ngày khai mạc BTC đọc tiểu sử, nêu công trạng Thành Hoàng
làng và khai mạc lễ hội (mời Bí thư Đảng ủy đánh Chiêng, mời Chủ tịch
UBND phường đánh Trống (03 hồi, 09 tiếng); màn biểu diễn nghệ thuật
Trống khai hội (thường là do các đoàn nghệ thuật trong và ngoài Tỉnh được
địa phương mời về phục vụ lễ hội). Do Phó Chủ tịch UBND – Trưởng ban tổ
chức lễ hội đảm nhiệm; Mời các đoàn đại biểu và 19 dòng họ vào dâng
hương; Thông qua Điều lệ các môn thể thao truyền thống; Tế Nam quan mở
cửa, do đoàn tế Nam quan của địa phương đảm nhiệm; Tổ chức trò chơi kéo
co và đập niêu đất; Tế Nữ quan do đoàn tế Nữ quan của địa phương đảm
nhiệm; Hát xướng dân gian; Buổi tối: Biểu diễn nghệ thuật biểu diễn chiếu
chèo truyền thống.
Nghi thức và cách thức tế: Do 02 đoàn tế Nam Quan và Nữ Quan của
địa phương (mỗi đoàn tế có 13 tế quan) thực hiện tại sân Đình Cả Lạc Đạo.
Thực hành tê có âm nhạc, lễ vật, trang phục và có chúc văn do chủ tế đọc và
hóa…Một vấn tế thường có các nội dung, hình thức sau; Nghênh thần: Đón
Thành Hoàng và các vị Thần linh về ngự tại bài vị; Hiến lễ: Dâng lễ lên ban
thờ; Ẩm phúc và thụ tộ: Chủ tế nhận lộc của Thành Hoàng và các Thần linh
ban; Lễ tạ kết thúc buổi tế.
65
Về nhân sự tham gia tế gồm có Chủ tế (Chánh tế), Bồi tế, Chấp sự,
Đông xướng, Tây xướng, Từ chính và Từ phụ. Là những người chấp hành tốt
đường lối chủ trương của Đang, pháp luật của Nhà Nước, quy định của địa
phương. Các thành viên trong đoàn tế được nhân dân đề cử, bầu chọn và được
UBND phường ra Quyết định công nhận để đại diện cho dân làng làm lễ tế
Thành hoàng làng cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Đội nhạc tế
gồm: Bộ gõ; bộ dây; bộ hơi (01 người điều khiển trống cái; 02 người đánh
chiêng; trống (đồng văn); 01 người đánh trống khấu; 01 người thổi sáo hoặc
kèn sona; 01 người kéo nhị. Trang thiết bị phục vụ tế gồm: Chiếu được trải
phủ kín sân tế; 02 bàn đặt hai bên để đặt lễ (01 bàn đặt lễ chay, 01 bàn đặt lễ
mặn); 01 giá đọc chúc văn; 01 giá đặt thau nước và vải đỏ để lau tay; 02
micro để xướng tế. Trang phục tế: Theo truyền thống các tế quan mặc áo
thụng xanh, quan văn trang trí áo thuộc bộ phượng, hạc, cò, gà…nếu là quan
võ thì trên áo trang trí kỳ lân, hổ, cáo, chuột…mặc quần màu trắng, chân đi
hia, đầu đội mũ hoa quan. Riêng chủ tế mặc quần trắng,áo thụng đỏ, chân đi
hia đỏ, đầu đội mũ hoa quan đỏ. Hành diễn tế Chủ tế và các quan bồi tế nhất
thiết phải đi chữ Á theo nhịp trống tế bước đều và chịu sự điều khiển của tế
quan Đông xướng và Tây xướng từ hành xơ (tuần thứ nhất) đến hành cung
(tuần cuối cùng dâng rượu).
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể đối với đời sống cộng đồng:
- Lễ hội truyền thống đình Cả Lạc Đạo là lễ hội cổ truyền do chính
người dân phường Trần Lãm là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ; lễ hội gắn với
đời sống văn hóa tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng nên rất linh thiêng trong tiềm
thức của mọi người. Chính các hoạt động tế, lễ, diễn xướng dân gian và các
trò chơi truyền thống tại lễ hội đã tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi và
thăng hoa của lễ hội.
- Phường Trần Lãm ngày nay xưa vốn là cửa biển, nên khi Đức Thánh
Nam Hải Đại vương trẫm mình xuống biển tự tử và được hiển thánh nên các
đời vua về sau cho lập miếu thờ tại các cửa sông, cửa biển. Theo tín ngưỡng
66
dân gian, những ngư dân ven sông, ven biển và các thương nhân đi lại trên
sông, biển rất sùng bái ngài. Điều này cũng được cụ thể hoá tại ngôi đình Cả
của xã Lạc Đạo xưa, nay thuộc phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình. Do
đó, những ngày lễ hội các chiến tích lịch sử xưa lại được tái hiện thông qua
các trò diễn sinh động hấp dẫn như tế lễ, rước, trang phục, văn tế…Các hoạt
động ấy không những tái hiện cuộc sống xưa kia mà còn góp phần giữ gìn và
bảo tồn văn hóa dân tộc. Những sự kiện lịch sử, đời sống xã hội được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua dịp lễ hội hàng năm. Và như
vậy, lễ hội góp phần bảo tồn giá trị lịch sử và giá trị văn hóa dân tộc ngay
trong chính tâm thức của cộng đồng.
- Cuộc sống của người dân Trần Lãm không phải lúc nào cũng là ngày
hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả mưu
sinh, để rồi “xuân thu nhị kỳ” lại vang dậy tiếng trống chiêng, người người tụ
hội về đình làng để mở hội, do đó đặc trưng cơ bản của lễ hội nơi đây nó
mang tính biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất keo dính tạo nên sự
cố kết cộng đồng.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy:
- Bảo vệ di sản văn hóa nói chung và bảo vệ và phát huy lễ hội nói
riêng là niềm tự hào về truyền thống dân tộc, là sự bảo đảm cho mối dây linh
thiêng nối liền quá khứ với hiện tại và tương lai, từ đó hình thành nên một yếu
tố văn hóa quan trọng tham gia vào sự phát triển bền vững của địa phương.
Nhận thức được vấn đề này, người dân Trần Lãm qua bao thế hệ đã thực hiện
nghiêm những quy định về bảo vệ di tích LSVH đình Lạc Đạo như: Không
lấn chiếm đất đai của di tích, không xâm phạm tài sản và cảnh quan của di
tích, đóng góp tinh thần và vật chất để trùng tu một số hạng mục của di tích bị
xuống cấp…có trách nhiệm và tự giác tham gia vào các hoạt động của lễ hội;
phát hiện và tố giác những hành vi vi phạm di tích cho các cấp có thẩm quyền
xử lý theo quy định của pháp luật…
67
- Đảng ủy, HĐND, UBND phường rất trú trọng quan tâm đến việc bảo
tồn và phát huy giá trị của lễ hội di tích LSVH đình Lạc Đạo như: Hằng năm,
Đảng ủy đều có Nghị quyết chuyên đề về công tác này và giao cho UBND
phường xây dựng kế hoạch bảo vệ. ra quyết định thành lập Ban quản lý di tích
do đ/c Phó Chủ tịch văn xã làm trưởng ban và phối hợp với MTTQ và các
đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và
các tầng lớp nhân dân tham gia vào việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị
của di tích. Các kỳ lễ hội đều được UBND phường ra quyết định thành lập
Ban chỉ đạo và Ban tổ chức lễ hội để hướng dẫn nhân dân và du khách thập
phương tham gia vào các hoạt động của lẽ hội theo quy định của pháp luật.
Đặc biệt, từ năm 1992 đến nay đã đầu tư 5 tỷ đồng vào việc trùng tu bảo vệ di
tích và khôi phục lại một số hoạt động truyền thống của lễ hội, trong đó: Tỉnh
hỗ trợ 120 triệu đồng, UBND Thành phố hỗ trợ 40 triệu đồng, UBND phường
trích ngân sách 970 triệu đồng, số tiền còn lại là nguồn vốn xã hội hóa do
nhân dân và các doanh nghiệp tham gia đóng góp.
- Luật bảo vệ di sản văn hóa đã chỉ rõ bảo vệ di sản văn hóa không chỉ
là nghĩa vụ mà còn là trách nhiệm của mỗi cá nhân và mỗi tổ chức để giữ gìn
vốn tài sản quý giá đó cho con cháu về sau. Để giải quyết vấn đề trên, theo tôi
các địa phương nói chung và phường Trần Lãm nói riêng cần đưa ra những
quy định cụ thể, phù hợp để bảo vệ di tích và bảo vệ lễ hội, đặc biệt là giáo
dục ý thức bảo vệ di sản, bảo vệ lễ hội trong cộng đồng dân cư, trong các
trường học và trong chính những người dân đang sống cạnh di tích. Hơn nữa
các cấp chính quyền cần phải tăng cường sự phối hợp với với các ngành chức
năng liên quan thường xuyên kiểm tra việc trùng tu, bảo vệ di tích và khôi
phục lễ hội. Đặc biệt, cần phải có chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi
cố tình xâm hại di tích và làm biến tướng hoạt động của lễ hội truyền thống ở
địa phương.
- Nghề mây tre đan
Những người đại diện:
68
(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Nghĩa
Sinh năm: 1960 Dân tộc:Kinh
Nghề nghiệp: Tiểu thương
Địa chỉ liên lạc: Tổ 1 Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Lân
Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nghề mây tre đan
Địa chỉ liên lạc: Tổ 2, Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Minh
Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nghề mây tre đan
Địa chỉ liên lạc: Tổ 3, Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên người đại diện: Phạm Như Bản
Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Nghề mây tre đan
Địa chỉ liên lạc: Tổ 9, Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình
Nhận diện nghề mây tre đan:
Nghề mây tre đan được duy trì và phát triển từ lâu tại địa phương, được
công nhận là làng nghề thủ công truyền thống năm 2003. Tất cả các công
đoạn đều được làm thủ công, mẫu mã sản phẩm đa dạng, phong phú, được
dung trong cả đời sống hàng ngày, trang trí nội thất, mỹ nghệ, các sản phẩm
đáp ứng nhu cầu đòi hỏi khắt khe của thị trường trong và ngoài nước. Nghề
này diễn quanh năm; hầu hết mọi người đều tham gia. Người có kinh nghiệm
chỉ bảo cho người mới theo hình thức truyền miệng.
Các công đoạn sản xuất mây tre đan rất cầu kỳ, bao gồm chọn nguyên
liệu rồi tuốt, phơi, chẻ nan, sấy. Sau đó, nguyên liệu sẽ được luộc trong nước
sôi hoặc sấy khói rơm để có màu đẹp tự nhiên, cuối cùng mới đến tay người
thợ đan thành sản phẩm.
69
Nghề sản xuất mây tre đan của làng đi vào phục hồi và phát triển, với
việc thường xuyên cải thiện mẫu mã, không ngừng nâng cao về chất lượng
sản phẩm. Nếu trước kia, các sản phẩm chủ yếu chỉ là vật dụng gia đình đơn
giản như: Quạt nan, giỏ đựng phích bằng nan tre, bình đựng ấm trà… thì hiện
nay, theo xu thế của thị trường, nghề mây tre đan Trần Lãm đã phát triển đa
dạng với các mặt hàng: Lẵng hoa, làn hoa, ấm đựng tích nước, bình hoa, khay
đựng chén trà… Cho đến nay, sản phẩm của làng nghề đã được tiêu thụ rộng
rãi tại các địa phương trong cả nước và xuất khẩu đi một số nước trên thế giới
như: Trung Quốc, Nhật, Nga, Mỹ…
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ sản xuất của địa phương đều đã áp dụng máy móc, kỹ thuật hỗ
trợ cho quá trình sản xuất sản phẩm, đặc biệt là các công đoạn như chẻ nan,
vót nan. Công ty Xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Hữu Nghị là một trong
những doanh nghiệp sản xuất mây tre đan của phường Trần Lãm. Hiện nay,
Công ty có gần 20 lao động trực tiếp và hàng trăm lao động vệ tinh, thu nhập
bình quân trên 3 triệu đồng/người/tháng. Sản phẩm của Công ty được làm từ
các nguyên liệu như mây, tre, đay, tạo ra các đồ dùng trang trí trong gia đình
và ngoài trời. Mỗi năm Công ty sản xuất hàng vạn sản phẩm mây tre đan xuất
khẩu sang thị trường châu Âu như: Ðức, Ý, Anh. Những năm qua, Công ty
không ngừng sáng tạo ra những mẫu sản phẩm mới, có giá thành rẻ và phù
hợp với thị trường tiêu thụ, tìm kiếm các thị trường mới và ổn định nguồn
nguyên liệu cho sản phẩm. Hiện Công ty đang sản xuất ổn định với quy mô
lớn, tiếp tục nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm, tìm kiếm các thị
trường mới cho sản phẩm mây tre đan.
Giá trị của nghề mây tre đan đối với cộng đồng:
Nghề mây tre đan đang tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập
cho nhiều người dân địa phương. Trên địa bàn phường Trần Lãm hiện nay
còn tập trung nhiều hộ gia đình sản xuất mây tre đan truyền thống. Nghề mây
tre đan ở phường Trần Lãm phát triển mạnh vào đầu những năm 80 của thế kỷ
70
trước, sản phẩm được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường các nước Ðông Âu.
Sau khi thị trường truyền thống này không còn nhu cầu sản phẩm mây tre đan
như trước, nghề truyền thống của địa phương có phần suy giảm, tới đầu
những năm 90 mới khôi phục và phát triển tới ngày nay. Hiện nay thu nhập
bình quân khoảng 3 triệu đồng/người/tháng. Những gia đình làm ăn lớn thu
nhập bình quân trên 100 triệu/ năm.
Năm 2013, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xây dựng của
phường Trần Lãm đạt hơn 300 tỷ đồng, trong đó có sự đóng góp không nhỏ từ
nghề mây tre đan.
Bên cạnh giá trị kinh tế, nghề mây tre còn là giá trị tinh thần, thể hiện
tri thức của cộng đồng người dân phường Trần Lãm đã học hỏi, thể nghiệm
và làm nghề từ hàng chục năm với những tri thức, kinh nghiệm được lưu
truyền bằng miệng, từ người này đến người khác, từ người già đến người trẻ.
Những sản phẩm sử dụng cho cuộc sống hàng ngày như bình đựng
phích nước, lẵng hoa, khay đựng ấm chén, v.v. thể hiện sự sáng tạo và sự
dung dị trong cuộc sống văn hóa, xã hội đời thường.
Để sản phẩm đến tay người tiêu dùng, bà con Trần Lãm cũng đã biết
gắn các sản phẩm của mình với những nét văn hóa của người Việt từ mẫu mã,
hoa văn, đến việc sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy:
- Cấp ủy, chính quyền phường trong những năm qua đã tiếp tục khai
thác mọi tiềm năng, thế mạnh của làng nghề truyền thống và các doanh
nghiệp để phát triển tiểu thủ công nghiệp, đã có giải pháp cụ thể để tháo gỡ
khó khăn về vốn và thị trường tiêu thụ sản phẩm, phối hợp với các ngân hàng,
tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ gia đình
có nhu cầu vay vốn. Đây là những đòn bẩy quan trọng để nghề truyền thống ở
phường Trần Lãm tiếp tục phát triển, góp phần tăng nguồn thu cho địa
phương và nâng cao thu nhập cho người lao động, thúc đẩy kinh tế - xã hội
của phường ngày càng phát triển.
71
- Đề nghị tỉnh và thành phố có chính sách cụ thể, rõ ràng, ưu tiên cho
các doanh nghiệp của địa phương có nhu cầu vay vốn tín dụng, được bảo lãnh
tín dụng, được vay vốn ưu đãi và miễn giảm lãi suất vay.
- UBND thành phố cần thành lập các trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp
về đào tạo, dạy nghề, đào tạo công tác quản lý kinh doanh, tìm kiếm thị
trường, môi giới sản phẩm. Thành phố cần có chính sách ưu tiên phát triển
kinh tế hạ tầng, nhà xưởng, máy móc cho các doanh nghiệp và chính sách
miễn giảm thuế với những doanh nghiệp mây tre đan mới thành lập, đang
trong quá trình phát triển.
- Cộng đồng địa phương nhiệt tình tham gia nghề mây tre đan, một
phần tăng thu nhập cho cuộc sống hàng ngày, phần khác lưu truyền những kỹ
năng, tri thức của nghề truyền thống cho thế hệ trẻ. Đây cũng là sản vật của
địa phương, thể hiện sự sáng tạo, sự thực hành nghề đi kèm với cuộc sống,
văn hóa của cộng đồng.
13) Xã Vũ Đông
Xã Vũ Đông có diện tích 6,5 km², dân số là 8.025 người, mật độ dân số
đạt 1.235 người/km được chia làm 8 thôn là Đình Phùng, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Quang Trung, Trần Phú, Hưng Đạo và Lê Lợi.
Trước năm 2008, xã Vũ Đông thuộc huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình, ngày
13 tháng 12 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 181/2007/NĐ-
CP Điều chỉnh địa giới hành chính huyện Đông Hưng, huyện Kiến Xương,
huyện Vũ Thư để mở rộng thành phố Thái Bình trong đó 2 xã Vũ Đông và Vũ
Lạc được chuyển về thành phố Thái Bình. Trước đây khi chưa được chuyển
về thành phố Thái Bình, kinh tế xã Vũ Đông chủ yếu dựa vào sản xuất nông
nghiệp. Sau khi chuyển về thành phố Thái Bình, kinh tế xã đã có những bước
chuyển biến đáng kể sang tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nhất là sau khi cây
cầu dây văng bắc qua sông Trà Lý được khánh thành nối phường Hoàng Diệu
và xã Vũ Đông.
72
Xã Vũ Đông xưa là làng Đông Trì thuộc tổng Xuân Vũ, Phủ Kiến
Xương, sở dĩ có tên này là vì mảnh đất nằm ở phía Đông tỉnh lỵ Thái Bình,
dọc theo hữu ngạn sông Trà Lý về phía hạ lưu. Địa hình có từng vùng cao
trũng khác nhau, ao hồ lớn nhỏ. Từ những đặc điểm ấy, cha ông đã đặt tên là
làng Đông Trì vào khoảng thế kỷ thứ XV (khởi tổ lập làng), theo nghĩa Hán,
Đông là phía Đông tỉnh lỵ, “Trì” nghĩa là “ao”. Trước đây đã có câu ca về đất
Đông Trì như sau: “Thứ nhất Tây Trì, thứ nhì làng Đông” nhằm ý nghĩa ca
ngợi Đông Trì là một làng rộng và đông dân cư trong Phủ Kiến Xương (chỉ
sau Tây Trì, tức Vũ Tây ngày nay). Xã Vũ Đông 02 ngôi đền, 01 ngôi miếu,
01 ngôi chùa, 01 ngôi đình là: Đền thờ Dũng Dược Đại Vương thôn Trần
Phú; Đền thờ Hưng Đạo Đại Vương thôn Nguyễn Trãi; Miếu Đông thờ Đông
Hải Đại Vương thôn Quang Trung; Chùa Hoàng Cô Tự; Miếu thờ Nam Hải
Đại Vương thôn Hưng Đạo; Đình làng Đông Trì. Trong đó chỉ có 01 di sản
văn hóa phi vật thể thuộc loại hình lễ hội truyền thống đó là hội đình Đông
Trì.
- Hội đình Đông Trì
(Làng Đông Trì, xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Thế Huyền
Sinh năm: 1977 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban QLDT
Địa chỉ liên lạc: Ủy ban nhân dân xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình.
(2) Họ và tên: Nguyễn Quốc Huy
Sinh năm: 1953 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Phó ban QLDT
Địa chỉ liên lạc: Ủy ban nhân dân xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Vũ Văn Sự
Sinh năm: 1976 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Phó ban QLDT
73
Địa chỉ liên lạc: Ủy ban nhân dân xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình
(4) Họ và tên: Đào Xuân Thắng
Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban trật tự lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Ủy ban nhân dân xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình
(5) Họ và tên: Nguyễn Hồng Lưu
Sinh năm:1947 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết xã
Địa chỉ liên lạc: Xã Vũ Đông, tp. Thái Bình
Nhận diện hội đình Đông Trì:
Đình làng Đông Trì, xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình thờ Đức thánh
Dương Không Lộ; Tam vị đại vương (Đông Hải Đại Vương, Nam Hải Đại
Vương, Dũng Dược Đại Vương); Lục Giáp Tiên Hiền. Theo bia ký ghi lại
đình được tổ tiên các dòng họ xây dựng vào năm 1697, lúc đó các dòng họ
chia làm 6 giáp gồm các giáp: Đông Nhất, Trí Trung, Trung Hòa, Trung Nam,
Đoài Nhị, Đoài Nhất, mỗi giáp cử người đứng đầu gọi là Trưởng giáp để cùng
nhau quán xuyến việc làng. Truyền thuyết kể rằng Đức thánh Dương Không
Lộ (1016-1094), được triều Lý phong Lý Thế Quốc Sư. Thiền sư Dương
Không Lộ huý Minh Nghiêm, hiệu Không Lộ, biệt hiệu Thông Huyền, quê
làng Giao Thuỷ (sau đổi là làng Hộ Xá), phủ Hải Thanh (đời Trần đổi là
Thiên Thanh, sau lại đổi là Thiên Trường). Ông sinh ngày 14 tháng 9 năm
Bính Thìn niên hiệu Thuận Thiên thứ 7(1016) đời Lý Thái Tổ, tại quê mẹ là
làng Hán Lý, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Gia đình Dương Không Lộ
sống ở làng Giao Thuỷ, chuyên nghề chài lưới ven sông. Khi lớn lên, ông lấy
việc câu cá, quăng chài làm vui và thường du ngoạn nhiều nơi danh lam thắng
cảnh, tuỳ hứng ngâm vịnh và sáng tác thơ ca. Năm Giáp Thân (1044) triều Lý
Thái Tông, ông 29 tuổi, bỏ nghề đánh cá để theo học đạo thiền. Ban đầu ông
theo học Noãn cư sĩ làng Bảo Tài (chưa rõ nay ở đâu). Sau ông đắc đạo, trở
thành Tổ thứ 10 của thiền phái Vô Ngôn Thông, một thiền phái được thành
74
lập ở nước ta vào đầu thế kỷ thứ IX. Năm Đinh Dậu (1057) ông chuyển sang
theo học thiền phái Thảo Đường. Thảo Đường thiền sư từng nhận xét về học
trò Không Lộ của mình: “Chú này cốt cách phi phàm, sau này tất làm pháp
tự.” Quả nhiên về sau, Không Lộ trở thành Tổ đời thứ 3 của thiền phái Thảo
Đường. Năm Kỷ Hợi (1059), Không Lộ tu tại chùa Hà Trạch, rồi chuyển về tu
ở chùa Duyên Phúc (tức chùa làng Hộ Xá) sau đổi là chùa Viên Quang. Năm
1060 ông cùng các sư Đạo Hanh, Giác Hải đã sang Tây Trúc để tu luyện về
đạo Phật, được Phật Tổ giác ngộ và truyền cho phép lạ. Năm 1061 thời vua
Lý Thánh Tông, sư về nước, dựng chùa Nghiêm Quang, tiền thân của chùa
Thần Quang ngày nay. Từ đó ông đi chu du khắp vùng rộng lớn của châu thổ
Bắc Bộ, dựng chùa, truyền bá đạo Phật và được suy tôn là vị tổ thứ 9 của phái
thiền Việt Nam. Năm Quý Mão (1063) Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang
(sau đổi là Thần Quang) tại làng Dũng Nhuệ. Sau do đất lở xuống sông Hồng,
chùa được chuyển sang làng Dũng Nghĩa (Vũ Thư, Thái Bình). Năm Nhâm
Tý (1072), Không Lộ cùng Giác Hải chữa khỏi bệnh sợ tắc kè kêu cho vua Lý
Nhân Tông. Ông được phong làm Quốc sư. Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất
(1094), Không Lộ thiền sư viên tịch, thọ 79 tuổi. Ngày 10 tháng 8 năm ất Hợi
(1095) Giác Hải thu thập xá lị của Không Lộ, xây tháp để chôn cất, tạc tượng
để thờ tại chùa Nghiêm Quang. Vua Lý Nhân Tông xuống chiếu tu sửa chùa,
cắt 3.000 hộ hương khói phụng thờ ông. Theo truyền thuyết còn lưu lại trong
dân gian, con đường tu hành của Thiền sư cũng gian nan lắm. Phong cách sư
thoát tục, ăn mặc thế nào xong thôi, không vướng mắc vật chất thường tình.
Sư tập trung cho việc thiền định. Trải bao năm tu hành, ăn cây mặc cỏ quên
cả thân mình, ông đã đắc đạo. Dân gian thành kính, tôn sùng những vị đại sư
thời ấy. Với họ có một pháp thuật huyền bí, hoá giải được mọi tai ương. Sau
khi các đại sư này cùng phò giúp Lý Công Uẩn lên ngôi vua với những bài kệ
(sấm ký) thì thân thế của thiền sư càng thêm thần kỳ. Tương truyền, sau khi
đắc đạo, sư có thể bay lên không trung, hoặc đi trên mặt nước giống như Sư
tổ Đạt Ma. Thiền sư đi vào rừng sâu, núi cao cọp thấy cũng phải cúi đầu, rồng
75
gặp cũng phải nép phục. Những pháp thuật của Thiền sư không thể đo định
được. Chẳng thế mà, như một người nhìn thấy trước tương lai, Thiền sư cùng
với các Thiền sư khác đã nhìn nhận về sự ra đời của vương triều nhà Lý, ông
cũng là biểu tượng cho sự giác ngộ. Sử sách ghi lại, một hôm, vua Lý nói với
Không Lộ, “Bạch Thiền Sư, ta muốn trang bị phẩm vật cho tất cả các chùa
trong nước, nhưng trong nước không có nguyên liệu đồng đen. Ta nghe rằng
vua Trung Hoa là Phật Tử nhiệt tâm và thường cúng dường các Sư. Ta muốn
thỉnh Sư sang gặp vua Trung Hoa và lạc quyên đồng về”. Không Lộ đồng ý
lên đường, và rồi sau nhiều ngày đi bộ vượt núi, xuyên rừng, qua sông…
Không Lộ tới kinh đô nước Trung Hoa. Khi nhà sư khổng lồ xuất hiện ở cung
điện, vua Trung Hoa hỏi: “Bạch Hòa Thượng, ngài từ đâu tới? Ta có thể cúng
dường gì cho ngài?”. Không Lộ trả lời: “Sư muốn có một ít đồng đen đề về
đúc làm phẩm vật cho các chùa Việt Nam”. Nghĩ rằng nhà sư mang theo
nhiều người, vua hỏi: “Bạch Hòa Thượng, quý quốc cần bao nhiêu đồng?
Thầy mang theo bao nhiêu người?”. Sư Không Lộ nói: “Sư tới đây một mình,
và chỉ xin đồng cho đủ túi xách này”.Vua nhìn chiếc túi xách nhỏ nói: “Thầy
có mang cả trăm túi xách, ta cũng sẵn sàng để Thầy lấy đồng đủ cả trăm túi”.
Rồi vua ra lệnh một nội thị dẫn Sư tới kho vua với lời hứa rằng Sư Không Lộ
có thể lấy bao nhiêu tùy sức mang về. Trên đường vào nhà kho, có một sân rất
rộng trên đó có một tượng trâu vàng, lớn như ngôi nhà và sáng chói như mặt
trời. Quan giữ kho chỉ vào trâu vàng và nói giỡn với nhà sư:
“Bạch Thiền Sư, có cần trâu vàng này không?”.
Không Lộ đáp: “Không, ta chỉ cần một ít đồng đen thôi”.
Trong khi viên quan kinh ngạc nhìn, Không Lộ đưa tất cả đồng đen
trong kho vua rất lớn vào túi xách của Sư, móc vào đầu gậy và bước ra. Quan
giữ kho vội vã trình báo lên vua rằng đồng bị lấy cả rồi. Vua Trung Hoa
không bao giờ ngờ có chuyện như thế; vua hối tiếc, ra lệnh 500 chiến binh
theo để chặn bắt nhà sư lại.
76
Sau khi vượt 300 dặm với túi nặng trên vai, Không Lộ nghe tiếng lính
kỵ binh Trung Hoa hò hét từ phía sau. Tới một dòng sông lớn, nhà sư nhìn lại,
thấy đoàn lính phóng ngựa gần tới giữa đám mây bụi mịt mù. Không Lộ bước
đi trên mặt sông. Tới giữa sông, nhà sư quay lưng lại, nói với các chiến binh
vừa dừng ngựa ở bờ sông: “Ta muốn gửi lời cảm ơn tới vua Trung Hoa và ta
hy vọng đã không làm phiền tới quý vị.” Trở về kinh đô nhà Lý, Không Lộ kể
lại cho nhà vua về chuyến đi. Vua yêu cầu sư lấy đồng để làm bốn bảo khí (tứ
đại khí) Phật Giáo có thể trường tồn nhiều ngàn năm. Không Lộ mời các thợ
đồng giỏi nhất nước tới làm việc, và chia đồng làm bốn phần. Trước tiên,
Không Lộ xây một cái tháp chín tầng, đặt tên là tháp Bảo Thiên. Ngôi tháp
đứng cao vút giữa kinh đô, dân nơi này từ các hướng đều thấy tháp rõ ràng.
Kế tiếp, sư đắp một pho tượng Phật cao sáu trượng (khoảng 20 mét), và một
chiếc đỉnh lớn với chu vi bằng 10 người ôm. Sau khi dùng số đồng còn lại
làm chuông, Không Lộ đánh chuông, nghe tiếng ngân đầu tiên vang xa, tới
tận Trung Hoa. Bị đánh thức bởi tiếng chuông, tượng trâu vàng trước kho vua
Trung Hoa bổng đứng chồm dậy và phóng về hướng Nam nhiều ngàn dặm.
Thấy chuông mới đúc xong, trâu vàng ngửi ngửi rồi nằm xuống kế bên
chuông. Không Lộ lo ngại chiến tranh có thể bùng nổ nếu vàng chảy vào Việt
Nam. Thiền Sư nói với nhà vua, và được cho phép ném quả chuông khổng lồ
để tránh một cuộc chiến có thể xảy ra. Một hôm, Không Lộ xách quả chuông
lên núi, ném chuông xuống Hồ Tây. Chuông bay cao lên không, và rơi ùm
vào hồ. Nghe tiếng chuông bay, trâu vàng phóng theo tiếng chuông và nhảy
vào Hồ Tây, từ đó nơi đây còn được gọi là hồ Trâu Vàng.
Sau khi viên tịch, Thiền Sư Không Lộ được thờ như vị thần bảo hộ cho
thợ đúc đồng. Ngài để lại vài bài thơ, trong đó các câu sau thường được nhắc
tới: “Ta đôi khi bước lên đỉnh núi cao/Hét to một tiếng dài, làm cả bầu trời
lạnh băng”.
Lễ hội hàng năm diễn ra vào ngày từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 9 âm
lịch. Trong ngày lễ hội dân làng rước kiệu đi vòng quanh xã với chiều dài hơn
77
7 km, với 4 cỗ kiệu cổ và huy động hàng nghìn người tham gia và rước thánh.
Trong lễ hội còn diễn ra các trò chơi như: Kéo co, chọi gà, cờ tướng, cầu
lông, bóng bàn.
Vào khoảng tháng 08 âm lịch dân làng cử ra 01 vị chủ tế đại diện cho
dân làng đứng ra tế lễ dâng hương và các quan viên hành lễ được chọn trong
ban khánh tiết của làng. Các Nghi thức tế lễ bao gồm lễ mộc dục, lễ tế dâng
hương, lễ rước, lễ tế khai hội và tế giã hội.
Lễ rước Thánh xuất du đi vòng quanh xã với chiều dài hơn 7 km. đặc
biệt còn lưu giữ lại được 4 cỗ kiệu cổ. Thứ tự hành trình rước thánh xuất du đi
đầu; Cờ thánh; Đội kỳ lân sư tử, Múa rồng; Đội ngũ lôi; Hội phật tử; Rước
phật đình; Rước thuyền rồng; hội người cao tuổi; Rước thuyền rồng; Câu lạc
bộ Thái cực kiếm Người cao tuổi; Rước thuyền rồng; Đội tế Thôn Đình
Phùng; Chấp kích; Kiệu Vua (Đông Hải Đại Vương); Đoàn đại biểu hội Phụ
nữ; Chấp kích; Đội nhạc lễ; Kiệu Vua (Nam Hải Đại Vương); Đoàn đại biểu
hội nông dân; Chấp kích; Đội nhạc lễ; Kiệu Vua (Dũng Dược Đại Vương);
Đội tế nữ quan; Bát biểu; Đội nhạc lễ; Kiệu thánh; Đội tế nam quan; Cán bộ
và nhân dân trong xã cùng khách thập phương. Hành trình rước kiệu bắt đầu
từ Đình làng đi theo đường nhựa khu vực (Thôn Quang Trung, Trần Phú,
Hưng Đạo) đến Chùa Hoàng cô tự sau đó đi theo đường đê khu vực (Thôn
Đình Phùng, Nguyễn Trãi) về Đình làng. Ban tổ chức quy định 4 điểm nghỉ
chân: Miếu Đông thôn Quang Trung; Đền thờ Dũng Dược Đại Vương thôn
Trần Phú; Chùa Hoàng Cô Tự; Đền thờ Hưng Đạo Vương thôn Nguyễn Trãi.
Lễ vật chính trong lễ hội là sỏ lợn và oản đóng từ gạo nếp.
Các không gian văn hóa liên quan đến lễ hội bao miếu Đông thờ Đông
Hải Đại Vương thôn Quang Trung; Đền thờ Dũng Dược Đại Vương thôn
Trần Phú; Chùa Hoàng Cô Tự; Miếu thờ Nam Hải Đại Vương thôn Hưng
Đạo; Đền thờ Hưng Đạo Đại Vương thôn Nguyễn Trãi.
Giá trị của lễ hội đối với đời sống cộng đồng:
78
- Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần
đối với cộng đồng làng xã, là dịp con người được trở về nguồn cội có ý nghĩa
thiêng liêng trong tâm trí mỗi người dân trong làng. Lễ hội cũng là nhu cầu
sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của dân cư;
là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách
riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí.
- Lễ hội chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của cuộc sống kinh tế, văn
hóa, xã hội. Lễ hội là chỗ dựa tinh thần để mỗi người hướng về tổ tông, dòng
tộc, về thế giới tâm linh và gắn bó với thiên nhiên, từ đó thêm thăng hoa trong
một không khí vui vẻ, trang nghiêm, lễ hội là sinh hoạt cộng đồng để mỗi
người cùng nhau chuẩn bị lễ vật và trò diễn, vui chơi, giao cảm, hưởng thụ
các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy:
- UBND xã Vũ Đông đã và đang thực hiện các biện pháp ngăn chặn kịp
thời các hành vi sâm hại di sản văn hóa, tuyên truyền, nâng cao nhận thức giá
trị các di tích, phối hợp các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội trong
công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa.
- UBND xã và trường PTCS trong xã hàng năm tổ chức cho các em học
sinh tham quan tìm hiểu ý nghĩa, giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa tại địa
phương làm phong phú sinh động bài học trên lớp và giáo dục truyền thống
cách mạng của quê hương.
- UBND xã kiện toàn và phát huy vai trò nhiệm vụ của Ban quản lý di
tích lịch sử - văn hóa, xây dựng Đề án bảo tồn, phát huy giá trị quần thể các di
tích lịch sử - văn hóa. Ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, tìm nguồn
vốn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để tôn
tạo, tu bổ, sửa chữa di tích lịch sử, văn hóa. Chính quyền địa phương vận
động các doanh nghiệp xây dựng công trình trên địa bàn, doanh nghiệp địa
79
phương hỗ trợ thực hiện công tác tôn tạo, tu bổ, sửa chữa các di tích lịch sử -
văn hóa.
14) Xã Vũ Lạc
Xã Vũ Lạc sát nhập vào thành phố Thái Bình năm 2007 có địa giới
hành chính phía Đông giáp xã Vũ Lễ, xã Vũ Sơn, phía Tây giáp xã Vũ Chính,
xã Vũ Ninh, phía Nam giáp xã Vũ An, xã Vũ Ninh, phía Bắc giáp xã Vũ
Đông và sông Trà Lý.
Xã Vũ Lạc có diện tích 7,47 km², dân số là 9.882 người, mật độ dân số
đạt 1.323 người/km² sinh sống trong 07 thôn là Tam Lạc 1, Tam Lạc 2, Vân
Động, Vân Động Nam, Nam Hưng, Thượng Cầm, Kìm. Nhân dân chủ yếu
sống bằng nông nghiệp, xã Vũ Lạc có các ngôi đình Hồ Quang, đình làng Hạ,
đình làng Trung, đình Vân Động, đình Bình Trật, đình Thượng Cầm; 03 ngôi
chùa là chùa Hồ Quang, chùa Dấm, chùa Phúc Lâm là nơi sinh hoạt tâm linh
của người dân nơi đây. Qua công tác kiểm kê di sản tại địa bàn xã Vũ Lạc
hiện nay có 03 di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình lễ hội truyền thống
là hội đình Vân Động, hội đình Hồ Quang và hội đình Trung Hạ.
- Hội đình Vân Động
(Thôn Vân Động, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Lê Đức Kỳ
Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Thủ nhang
Địa chỉ liên lạc: Thôn Vân Động, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình
(2) Họ và tên: Đoàn Viết Hùng
Sinh năm:1978 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Thôn Vân Động, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình
(3) Họ và tên: Đặng Xuân Định
Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh
80
Nghề nghiệp: Ban khánh tiết
Địa chỉ liên lạc: Thôn Vân Động, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình
Nhận diện hội đình Vân Động:
Đình thôn Vân Động được xây dựng vào cuối thời Lê đầu thời Nguyễn
đình thờ Hiển thánh Đoàn Thượng thượng đẳng tối linh thần là vị thần có
công lập làng, phù hộ dân làng tai qua nạn kiếp. Hàng năm xuân thu nhị kỳ,
dân làng đều mở hội vào ngày 15 tháng Giêng và ngày 15 tháng Tám âm lịch.
Diễn trình của lễ hội sau khi Ban tổ chức đọc khai mạc lễ hội là lễ dâng
hương của đại biểu các Ban, Ngành, Đoàn thể, Dòng họ và nhân dân trong xã.
Lễ tế thánh của các đoàn tế trong và ngoài xã với lễ vật dâng thánh bao gồm
hương, hoa, xôi, oản, thủ lợn, bánh kẹo, bia rượu. Trong lễ hội tổ chức các
sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, các trò chơi dân gian tại đình như: chọi gà, cờ
tướng, đi cầu khỉ.
Giá trị của hội đình Vân Động với đời sống của cộng đồng:
- Hàng năm cứ vào dịp đầu xuân và Tết Trung thu là nhân dân lại tổ
chức lễ hội truyền thống tưng bừng, trang trọng để tưởng nhớ công lao, tài
đức của thành hoàng làng, tạ ơn người đã phù hộ cho nhà nhà được yên vui,
sức khỏe. Đồng thời cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội
thu, cầu mong sức khỏe, tài lộc, con cháu học hành, làm ăn tấn tới.
- Lễ hội cũng là dịp người dân nghỉ ngơi, tham gia các trò chơi dân
gian, hầu đồng, tế lễ, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy:
- Lễ hội do nhân dân trong thôn tự nguyện tham gia đóng góp nhân lực,
vật lực để tổ chức và tham gia hành hội một cách tích cực.
- Lễ hội của thôn được các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện
như thành lập các Ban tổ chức lễ hội, Ban khánh tiết, Ban hậu cần và đảm bảo
an ninh trật tự trong ngày diễn ra lễ hội.
- Hội đình Trung Hạ
(Thôn Trung Hạ, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
81
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Kháng
Sinh năm:1940 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Thủ nhang
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trung Hạ, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình.
(2) Họ và tên: Phạm Tiến Dục
Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng Ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trung Hạ, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình.
(3) Họ và tên: Phạm Việt Anh
Sinh năm:1990 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Ban khánh tiết
Địa chỉ liên lạc: Thôn Trung Hạ, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình.
Quá trình ra đời, tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể:
Đình Trung Hạ thờ thần bản thổ Tứ Hải Đại vương làm Thành hoàng
làng. Hàng năm xuân thu nhị kỳ, dân làng đều mở hội vào ngày 15 tháng
Giêng và ngày 15 tháng Tám âm lịch. Trong ngày lễ hội nhân dân thôn Trung
Hạ cùng với BTC lễ hội làm lễ khai mạc lễ hội trước cửa đình trang trọng, các
Ban ngành cùng chính quyền và nhân dân trong thôn làm lễ dâng hương
tưởng nhớ đến công lao của các vị Thành hoàng làng. Trong những ngày hội
các dòng họ về dâng hương lễ thánh cầu mong những điều tốt đẹp cho gia
đình dòng họ. Lễ tế thánh do Ban khánh tiết cùng dân làng thực hiện, lễ vật
dâng thánh là hoa quả, xôi, oản, thủ lợn, bánh kẹo, bia rượu. BTC hội đình
Trung Hạ tổ chức các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, các trò chơi dân gian tại
đình như chọi gà, cờ tướng, đi cầu khỉ.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
Lễ hội đình Trung Hạ có giá trị tăng cường mối đoàn kết, gắn bó giữa
các thành viên trong làng, giữa các thôn xóm các gia đình trong việc chuẩn bị
lễ vật, cho đến các hoạt động nói chung của lễ hội. Đây chính là chất kết dính
82
của các thế hệ, của các cộng đồng dân cư cùng nhau chia sẻ, hưởng thụ và
trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống. Đây là môi trường bảo tồn, giáo
dục là lưu truyền văn hóa truyền thống. Là biểu tượng của sự cố kết cộng
đồng và biểu dương sức mạnh tập thể mà ở thời điểm nào cũng cần gìn giữ và
phát huy.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy:
- Lễ hội do nhân dân trong thôn tự nguyện tham gia đóng góp nhân lực,
vật lực để tổ chức và hành hội.
- Lễ hội được các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện như thành
lập các Ban tổ chức lễ hội, Ban khánh tiết, Ban hậu cần và đảm bảo an ninh
trật tự trong ngày diễn ra lễ hội.
- Hội đình Hồ Quang
(Thôn Tam Lạc, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình)
Những người đại diện:
(1) Họ và tên: Nguyễn Thị Hương
Sinh năm:1976 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Thủ nhang
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Lạc, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình.
(2) Họ và tên: Phạm Văn Kiểm
Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Trưởng ban tổ chức lễ hội
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Lạc, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình.
(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Hinh
Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Lạc, xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình.
Nhận diện hội đình Hồ Quang:
Đình Hồ Quang thờ Nam Hải Đại vương làm Thành hoàng làng. Hàng
năm xuân thu nhị kỳ, nhân dân trong làng mở hội vào ngày 15 tháng Giêng và
83
ngày 15 tháng Tám âm lịch. Trong ngày hội dân làng làm lễ dâng hương, tế
Thánh với lễ vật là xôi, oản, thủ lợn. Các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, các trò
chơi dân gian trong ngày hội có chọi gà, cờ tướng.
Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:
Lễ hội đình Hồ Quang đã trở thành tiềm thức trong sinh hoạt văn hóa
của người dân thôn Tam Lạc để tưởng nhớ công lao, tài đức của thành hoàng
làng, tạ ơn người đã phù hộ cho nhà nhà được yên vui, sức khỏe. Tham gia
vào lễ hội là lúc người dân trong cộng đồng thể hiện lòng tri ân đối với các vị
anh hùng dân tộc, đồng thời là sợi dây kết nối cộng đồng.
Các biện pháp bảo vệ và phát huy:
- Lễ hội do cộng đồng làng tự nguyện tham gia đóng góp nhân lực, vật
lực để tổ chức.
- Lễ hội được các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện như thành
lập các Ban tổ chức lễ hội, Ban khánh tiết, Ban hậu cần và đảm bảo an ninh
trật tự trong ngày diễn ra lễ hội.
VII. KẾT QUẢ KIỂM KÊ DSVHPVT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ THÁI BÌNH
7.1. Về địa bàn kiểm kê DSVHPVT
Thành phố Thái Bình nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Thái Bình, phía
Đông Nam và Nam giáp huyện Kiến Xương, phía Tây và Tây Nam giáp
huyện Vũ Thư, phía Bắc giáp huyện Đông Hưng. Thành phố Thái Bình có 19
đơn vị hành chính, gồm 10 phường (Bồ Xuyên, Đề Thám, Hoàng Diệu, Kỳ
Bá, Lê Hồng Phong, Phú Khánh, Quang Trung, Tiền Phong, Trần Hưng Đạo,
Trần Lãm) và 9 xã (Đông Hòa, Đông Mỹ, Đông Thọ, Phú Xuân, Tân Bình,
Vũ Chính, Vũ Đông, Vũ Lạc, Vũ Phúc) với tổng diện tích là 6.810 ha chiếm
4,29% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Thái Bình. Dân số của thành phố là
186,1 nghìn người, mật độ bình quân là 2.734 người/km2. Năm 2015 thành
phố có 46.095 hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa đạt 81,8%2.
2 Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2016), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình năm 2015, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
84
Thành phố Thái Bình là vùng đất bằng phẳng, có cao độ 2,6 m, có sông
Trà Lý chảy qua với chiều dài 6,7 km, có hệ thống sông đào đã được nâng
cấp, kè bờ. Chất đất ở đây có nguồn gốc phát sinh từ các cồn và bãi cát biển
nhưng được bồi đắp phù sa nên rất thích hợp cho việc gieo trồng lúa nước và
cây rau màu. Địa hình thành phố ổn định về địa chất, phù hợp với việc phát
triển các ngành công nghiệp hay xây dựng những công trình cao tầng.
Theo Danh Mục tổng hợp kiểm kê di tích năm 2015 của Sở VHTT&DL
tỉnh Thái Bình thành phố có 108 các thiết chế, di tích lịch sử văn hóa bước
đầu đã được kiểm kê. Thành phố có 32 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, 03 di
tích được xếp hạng cấp quốc gia. Công tác bảo vệ và phát huy các giá trị di
sản văn hóa phi vật thể của thành phố Thái Bình đang được đẩy mạnh, các
loại hình lễ hội dân gian, diễn xướng dân gian đã từng bước được khôi phục
và phát huy.
7.2. Kết quả kiểm kê DSVHPVT trên địa bàn thành phố Thái Bình
Việc kiểm kê Di sản VHPVT đã được triển khai tập trung vào 6 loại hình
theo hướng dẫn của Thông tư 04 /2010/TT-BVHTTDL. Số lượng các di sản
VHPVT ở huyện Vũ Thư được kiểm kê ở 30 xã/thị trấn, phân loại theo loại hình
được thể hiện ở Bảng dưới đây:
Bảng: Thống kê loại hình DSVHPVT Thành phố Thái Bình năm 2018
TT Xã/phường Tổng số DSPVT
Lễ hội truyền thống
Nghệ thuật trình diễn dân gian
Tập quán xã hội
Tri thức dân gian
Nghề thủ
công truyền thống
Ngữ văn dân gian
1 Đông Hòa 3 3 0 0 0 0 02 Đông Thọ 4 3 1 0 0 0 03 Đông Mỹ 1 1 0 0 0 0 04 Phú Xuân 3 3 0 0 0 0 05 Tân Bình 1 1 0 0 0 0 06 Đề Thám 1 1 0 0 0 0 0
85
7 Bồ Xuyên 1 1 0 0 0 0 08 Kỳ Bá 1 1 0 0 0 0 09 Hoàng Diệu 1 1 0 0 0 0 010 Tiền Phong 1 1 0 0 0 0 011 Trần Lãm 2 1 0 0 0 1 012 Vũ Chính 1 1 0 0 0 0 013 Vũ Đông 1 1 0 0 0 0 014 Vũ Lạc 3 3 0 0 0 0 015 Vũ Phúc 0 0 0 0 0 0 016 Quang Trung 0 0 0 0 0 0 017 Trần Hưng
Đạo0
00 0
00 0
18 Lê Hồng Phong
00 0 0
0 0 0
19 Phú Khánh 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số 24 22 1 0 0 1 0
Tỉ lệ %/TS 91.7% 4.2% 0% 0% 4.2% 0%Kết quả kiểm kê là các tư liệu mô tả thực trạng DSVHPVT của các
xã/phường được chúng tôi trình bày cụ thể, kết hợp với việc giới thiệu một số
thông tin chung về kết quả xử lý định lượng thông qua các cuộc thảo luận
nhóm tại 19 phường/xã với sự tham gia của những người thực hành di sản
thuộc các nhóm tuổi khác nhau. Qua công tác kiểm kê cho đến tháng 06 năm
2018 trên địa bàn toàn thành phố Thái Bình có 14/19 xã/phường có di sản văn
hóa phi vật thể với tổng số 24 DSVHPVT, trong đó lễ lễ hội truyền thống có
22 di sản (chiếm tỉ lệ 91,7 %), nghề thủ công truyền thống có 01 di sản
(chiếm 4,2 %), nghệ thuật trình diễn dân gian có 01 di sản (chiếm 4,2 %). Di
sản VHPVT thuộc loại hình lễ hội truyền thống chiếm phần lớn, diễn ra chủ
yếu vào tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba, tháng Tám và tháng Chín với 21 lễ
hội chiếm 95,4% tổng số lễ hội diễn ra trong cả năm của thành phố Thái Bình.
Một số lễ hội của thành phố Thái Bình đang được phục hồi và phát huy mạnh
mẽ như hội Đền Quan phường Hoàng Diệu, hội Đền Đông Hải xã Đông Thọ,
hội đình Đông Trì xã Vũ Đông, hội đình Tống Thỏ xã Đông Mỹ, bên cạnh đó
86
là những lễ hội có quy mô thôn/tổ dân phố hàng năm vẫn được đông đảo cộng
đồng nhân dân địa phương tổ chức thường xuyên.
Bảng: Niên lịch hội hàng năm ở thành phố Thái Bình (theo tháng âm lịch)Tháng Tên lễ hội Thời gian tổ
chức
Địa điểm
Giêng Hội đình Tống
Thỏ
Ngày 03 đến 04
tháng Giêng
Đình Tống Thỏ, thôn Tống Thỏ
Bắc, xã Đông Mỹ
Hội đình
Nghĩa Chính
Ngày 15 tháng
Giêng
Đình thôn Nghĩa Chính, xã Phú
Xuân
Hội đình Đại
Lai
Ngày 14 đến
ngày 15 tháng
Giêng
Đình thôn Đại Lai, xã Phú Xuân
Hội Đền Quan Ngày 17 ngày
19 tháng Giêng
Đền Quan, tổ 27, phường Hoàng
Diệu
Hội làng Tống
Vũ
Ngày 02 tháng
Giêng
Cụm di tích đình, chùa Tống Vũ,
xã Vũ Chính
Hội đình Vân
Động
Ngày 15 tháng
Giêng
Đình thôn Vân Động, xã Vũ Lạc
Hội đình Hồ
Quang
Ngày 15 tháng
Giêng
Đình Hồ Quang thôn Tam Lạc, xã
Vũ Lạc
Hội đình
Trung Hạ
Ngày 15 tháng
Giêng
Đình Trung Hạ, xã Vũ Lạc
Hai Hội miếu Vua
Lẫm
Ngày 02 tháng
Hai
Miếu Vua Lẫm, thôn Nam Cầu
Nhân,
xã Đông Hòa
Hội chùa Phú
Lạc
Ngày 01 tháng
Hai
Chùa thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân
Hội chùa
Trừng Mại
Ngày 04 đến
ngày 06 tháng
Đình, chùa Trừng Mại, thôn Trường
Mại
87
Hai
Ba Hội đền Đông
Côn
Ngày 15 đến
ngày 16 tháng
Ba
Đền Đông Côn, thôn Nam Cầu
Nhân,
xã Đông Hòa
Hội đền Hai
Bà Trưng
Ngày 19 đến
ngày 21 tháng
Ba
Đền Hai Bà Trưng, ngõ 102, phố
Hai Bà Trưng, phường Đề Thám
Hội chùa Bồ
Xuyên
Ngày 20 đến 22
tháng Ba
Chùa Bồ Xuyên, tổ 2, phường Bồ
Xuyên
Tám Hội Đền Đông
Hải
Ngày 22 tháng
Tám
Đền Đông Hải, thôn Đoàn Kết, xã
Đông Thọ
Hội đình Bo Ngày 10 đến
ngày 12 tháng
Tám
Đình Bo, tổ 16, phường Kỳ Bá
Hội đình Nhân
Thanh
Ngày 10 tháng
Tám
Đình Nhân Thanh, phường Tiền
Phong
Hội đình Lạc
Đạo
Ngày 14 đến
ngày 15 tháng
Tám
Đình Lạc Đạo, phường Trần Lãm
Chín Hội đình Hiệp
Trung
Ngày 20 tháng
Chín
Đình thôn Hiệp Trung, xã Đông Hòa
Hội đình Nam
Thọ
Ngày 20 tháng
Chín
Đình Nam Thọ, thôn Thống Nhất,
xã Đông Thọ
Hội đình Đông
Trì
Ngày 12 đến
ngày 14 tháng
Chín
Đình làng Đông Trì, xã Vũ Đông
Mười Hội đền Đức
Bà
Ngày 23 tháng
Mười
Đền Đức Bà, thôn Thống Nhất,
xã Đông Thọ
88
Nghề thủ công truyền thống được nhận diện ở hầu hết các xã/phường
có 01 nghề thủ công truyền thống được kiểm kê (nghề mây tre đan) chiếm 4,2
% DSVHPVT của thành phố, trong đó có 01 nghề thủ công nằm trong tình
trạng cần được bảo vệ khẩn cấp ít người còn thực hành và đã không còn được
tiếp tục thực hành nữa đó là nghề làm giấy dó của xã Đông Thọ. Nghệ thuật
trình diễn dân gian có 01 DSVHPVT là Chiếu chèo xã Đông Thọ được kiểm
kê chiếm 4,2 % DSVHPVT của thành phố Thái Bình.
VIII. MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG CÔNG
TÁC KIỂM KÊ DSVHPVT
8.1. Một số khó khăn
Cũng như các địa phương khác trên địa bàn tỉnh Thái Bình, công tác
bảo tồn, phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố
Thái Bình đang còn rất nhiều những khó khăn, tồn tại:
- Đội ngũ cán bộ chuyên môn quản lý di sản chưa được đào tạo đúng
chuyên môn dẫn đến năng lực công tác còn hạn chế. Nhiều phường/xã trên
địa bàn, số lượng cán bộ văn hóa được đào tạo cơ bản không nhiều, hoặc chỉ
được đào tạo qua các lớp tập huấn, do đó chưa đủ năng lực để thực hiện công
tác quản lý một cách bài bản, khoa học. Bên cạnh đó lãnh đạo địa phương và
những người làm công tác văn hóa chưa thực sự quan tâm triệt để về vai trò
và tầm quan trọng của các DSVHPVT trong các di tích nói riêng và trong
phát triển kinh tế nói chung. Kiểm kê là một công việc đòi hỏi những người
làm công tác kiểm kê phải cẩn trọng trong quá trình thu thập thông tin để có
thể có được những số liệu chính xác, phản ánh đúng thực trạng của di sản tại
địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình rà soát, kiểm tra lại thông tin kiểm kê,
chúng tôi nhận thấy có những xã/phường dường như chưa nhận thức đúng
tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác kiểm kê, nên chưa thực hiện công
việc này một cách hiệu quả. Do đó, vẫn còn rất nhiều thông tin trong mẫu
phiếu đã bị bỏ qua, không được kê khai đầy đủ.
- Nguy cơ mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể, do
89
các nghệ nhân am hiểu hiểu về di sản đã chết, số nghệ nhân còn lại do tuổi
cao, sức yếu, trí nhớ không còn minh mẫm dẫn đến việc sưu tầm, bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa phi vật thể chưa tương xứng với tiềm năng hiện
có. Sự mất cân đối giữa văn hóa cổ truyền và văn hóa mới trong xây dựng văn
hóa cơ sở, chủ yếu là xây dựng văn hóa mới, đưa ra những hình thức thông tin
cổ động, thể thao, văn nghệ quần chúng, trong khi đó văn hóa truyền thống
của đóng vai trò không đáng kể trong cuộc sống đương đại ở cơ sở.
- Những loại hình di sản nghề thủ công truyền thống, các thông tin về
văn hóa, di sản gắn với cộng đồng còn chưa được khai thác triệt để. Do vậy,
các thông tin của làng nghề chủ yếu về mặt kỹ thuật, về thu nhập, ít thông tin
về di sản văn hóa.
- Di sản văn hóa phi vật thể tồn tại trong trí nhớ và được lưu truyền
thông qua bằng con đường truyền miệng nên việc sưu tầm và xây dựng quy
trình thực hành theo đúng truyền thống là rất khó khăn. Việc trao truyền lại
các nghệ thuật trình diễn, các nghi lễ trong lễ hội truyền thống cho thế hệ trẻ
chưa được thực hiện thường xuyên, nhiều loại hình nghệ thuật có nguy cơ bị
mai một. Ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc của một bộ phận người dân (đặc biệt
là lớp trẻ) còn yếu nên dễ bị ảnh hưởng bởi văn hóa ngoại lai, tâm lí sính
ngoại, ít quan tâm đến văn hóa dân tộc.
- Do thời gian thực hiện việc kiểm kê, điều tra eo hẹp và số cán bộ
chuyên môn thực hiện có hạn nên việc tập hợp, khai thác tư liệu cùng cộng
đồng còn hạn chế. Điều này phần nào ảnh hưởng tới kết quả kiểm kê, nghiên
cứu, đặc biệt là việc thẩm định những biểu hiện của đặc trưng di sản văn hóa
phi vật thể cùng hệ thống ngôn ngữ cổ, gắn với sinh hoạt lễ hội, nghề thủ
công truyền thống, các loại hình diễn xướng dân gian, tri thức dân gian và
sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã nói chung.
8.2. Một số thuận lợi
- Trong thời gian tiến hành kiểm kê của nhóm nghiên cứu đã được
chính quyền và đội ngũ cán bộ công chức văn hoá xã, huyện, đội ngũ các
90
trưởng thôn, trưởng BQL các di tích thường xuyên trực tiếp và quan tâm chỉ
đạo, giúp đỡ cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi để đáp ứng mọi yêu cầu đặt ra của
công việc kiểm kê. Các trưởng thôn, các bí thư chi bộ, trưởng BQL di tích
thuộc các thôn/khu dân cư tại hầu hết các xã đã trực tiếp tham gia tổ chức
nhóm thảo luận tại địa phương, tham gia chủ động giải quyết mọi vấn đề nảy
sinh trong quá trình thảo luận nhóm đại diện cộng đồng, nhằm cung cấp thông
tin cho việc điều tra kiểm kê.
- Những người dân trong cộng đồng bao gồm các bậc cao niên, các
thành viên trong Ban khánh tiết đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào công
việc cung cấp thông tin tại đa số các thôn/làng đều nhiệt tình, có quan điểm
đồng thuận với nhu cầu bảo tồn, khai thác và trao truyền di sản văn hóa phi vật
thể tại địa phương. Nhiều bậc cao niên đã cung cấp những tư liệu quý do cá
nhân tự sưu tầm, biên soạn hoặc biên dịch, làm tài liệu tham khảo tốt cho quá
trình trả lời phiếu điều tra, kiểm kê. Sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của các vị
trong các Ban quản lý di tích, Hội người cao tuổi tại các thôn về công tác tổ
chức, tham gia điều hành thảo luận nhóm đạt yêu cầu chất lượng đề ra của
nhóm nghiên cứu, điều tra.
Dựa vào những thuận lợi và khắc phục những khó khăn trên, nhóm
nghiên cứu đã thu được những kết quả kiểm kê nhất định. Nguồn tài liệu và
thông tin do nhóm đại diện cộng đồng cung cấp, thông qua phiếu điều tra đã
được tập hợp, cho phép khẳng định: Đây là nguồn tư liệu tương đối phong phú,
có nhiều thông tin mới, có hệ thống về các loại hình DSVHPVT tại địa bàn
huyện Vũ Thư và thành phố Thái Bình.
IX. TỔNG KẾT VẤN ĐỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY DSVHPVT
- Thành phố Thái Bình có 19 đơn vị hành chính cấp xã/phường sau hơn
10 ngày tiến hành công tác kiểm kê các chuyên viên của Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Thái Bình (SVHTT&DL), Phòng Văn hóa, Thông tin
thành phố Thái Bình (VHTT), công chức các xã/phường có di sản văn hóa phi
vật thể đã tiến hành xong công tác kiểm kê Di sản văn hóa phi vật thể trên địa
91
bàn 19 xã/phường của thành phố. Trong quá trình kiểm kê tổ công tác đã sử
dụng các phương pháp để thu thập thông tin kiểm kê gồm phỏng vấn bảng
hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát, ghi chép thông qua thảo luận nhóm, hồi cố,
thống kê, quay phim, chụp ảnh, lập bản đồ theo quan điểm tôn trọng tiếng nói
của cộng đồng trong việc đồng thuận với nội dung giới thiệu về di sản văn
hóa do chính cộng đồng sáng tạo và bảo tồn trong lịch sử. Chúng tôi có một
số nhận xét như sau:
a) Lễ hội: Các lễ hội trên địa bàn thành phố Thái Bình chủ yếu tổ chức
trong các đình, đền, lăng, miếu phần lớn gắn liền với ngày sinh, ngày hóa của
các vị Thành hoàng làng (có thể là nhân thân/thiên thần), khoảng thời gian
diễn ra nhiều nhất vào tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba, tháng Tám và tháng
Chín chiếm đến hơn 90 %. Quy mô tổ chức lễ hội thường chỉ ở quy mô cấp
khu phố/thôn làng. Hình thức tổ chức lễ hội mang nhiều yếu tố chung, cộng
đồng trực tiếp tham gia vào tế lễ, hành hội, các hoạt động rước, vui chơi giải
trí. Các cấp chính quyền chỉ đạo, định hướng và hỗ trợ cộng đồng. Do vậy,
các hình thức riêng của từng lễ hội bị mờ nhạt và có xu hướng “bắt chước”
mô hình tổ chức khá giống nhau giữa các khu phố/thôn làng làm mất đi bản
sắc riêng của mỗi lễ hội. Ngày nay, những nguy cơ tác động đến sự sống còn
của di sản như hiện đại hóa, công nghiệp hóa không có ảnh hưởng đến việc tổ
chức lễ hội. Thanh niên, lớp trẻ ở lại làng không nhiều, vì thế việc duy trì, tổ
chức, trao truyền bị ảnh hưởng nhiều. Điều này cần có nhận thức đầy đủ để
cộng đồng làng xã có những biện pháp kêu gọi những người trẻ xa quê và
những thế hệ thứ hai, thứ ba ở xa quê quay trở lại quê hương vào dịp lễ hội.
b) Nghệ thuật trình diễn dân gian: Thực trạng đáng báo động là các loại
hình nghệ thuật diễn xướng dân gian còn lại rất ít, trên địa bàn thành phố Thái
Bình hiện nay chỉ có 01 di sản thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian
được kiểm kê đó là Chiếu chèo xã Đông Thọ chiếm 4,2% trong tổng số các di
sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn thành phố. Trong khi đó các bài bản làn
điệu, loại hình trình diễn này cũng đang ngày dần mai một. Các loại hình di
92
sản này cần có sự đầu tư về tài chính, nguồn lực để đảm bảo di sản được trao
truyền và có sức sống mạnh mẽ trong hiện tại và tương lai.
c) Nghề thủ công: Hiện nay cũng gặp không ít khó khăn trên địa bàn
thành phố Thái Bình có 01 di sản (chiếm 4,2%) là nghề mây tre đan của
phường Trần Lãm. Đối với nghề thủ công, cộng đồng mong muốn được duy trì
với sự hỗ trợ nhà nước về công tác quảng bá, đầu ra như nghề thêu, nghề làm
cốm rất cần có sự quan tâm của chính quyền các cấp, hiệp hội làng nghề để hỗ
trợ các hộ gia đình, các nghệ nhân trong việc duy trì nghề và trao truyền lại
cho thế hệ trẻ để phát triển được làng nghề trong tương lai. Ngược lại, những
DSVHPVT như các làng nghề mây tre đan, nghề làm giấy dó bởi hội nhập
quốc tế, toàn cầu hóa, hàng hóa nhập khẩu và hàng công nghiệp đã lấn át,
khiến cho làng nghề truyền thống bị hạn chế đầu ra, teo nhỏ lại điều đó đã dẫn
đến mai một. Để duy trì và phát triển những làng nghề này là một nhiệm vụ
của ngành văn hóa nói riêng và của toàn hệ thống chính trị nói chung. Đối với
các nghề thủ công, các cấp chính quyền cần quan tâm hơn nữa trong việc hỗ trợ
cộng đồng làm sản phẩm, cho vay vốn, và tìm đầu ra. Bảo vệ các nghề thủ
công không chỉ là các kỹ thuật, thao tác, quy trình làm ra sản phẩm, mà còn
những tri thức văn hóa gắn với nghề như các mẫu mã truyền thống, các đồ
dùng truyền thống.
d) Tập quán xã hội: Trên địa bàn thành phố không có di sản nào được
kiểm kê.
e) Tri thức dân gian: Trên địa bàn thành phố không có di sản nào được
kiểm kê.
Báo cáo thấy rằng những di sản lễ hội truyền thống vẫn là một lĩnh vực
di sản phổ biến trong các thôn làng/tổ dân phố là nét đẹp văn hóa truyền
thống. Lễ hội như là sợi dây kết nối cộng đồng, bà con, thể hiện những truyền
thống tốt đẹp, uống nước nhớ nguồn. Lễ hội vừa mang tính tâm linh, vừa
mang tính vui chơi giải trí, là nguồn cội, là tinh thần và luôn được cộng đồng
tham gia nhiệt tình để đảm bảo sức sống của chúng. Các di sản thuộc lĩnh vực
93
nghệ thuật trình diễn và tri thức dân gian, tập quán xã hội thì mang tính khẩn
cấp và cần được sự quan tâm, hỗ trợ của nhà nước, của các cấp chính quyền
từ trung ương đến địa phương. Những loại hình di sản này cần có sự hỗ trợ và
vào cuộc để nghệ nhân có thể trao truyền cho thế hệ trẻ, để duy trì và lưu giữ
cho tương lai. Các làng nghề truyền thống cũng cần được sự hỗ trợ của chính
quyền, của các đoàn thể để người dân sống bằng nghề, và cũng để duy trì, phổ
biến tri thức dân gian đã được tích lũy hàng trăm năm. Nghề thủ công có thể
là những loại mặt hàng thủ công mỹ nghệ đáp ứng cuộc sống đời thường, thực
hành nghi lễ, cũng có thể là món ăn đặc sản. Vì vậy, các loại hình này cần
được sự quan tâm, vào cuộc để duy trì và phát huy trong cuộc sống hàng ngày
và trong cuộc sống tinh thần./.
94