Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
§Þa kü thuËt sè 3-2010 1
T¹p chÝ §Þa kü thuËt
N¨m thø 14
Sè 3 n¨m 2010 ISSN - 0868 - 279X
Môc lôc
NguyÔn Vi: TÝnh to¸n ®é tin cËy cña c¸c
c«ng tr×nh vµ nÒn cña chóng 3
NguyÔn Hång Nam, Phïng §øc Th¾ng,
NguyÔn §×nh Phóc, NguyÔn NhËt H¶i, T«
ThÕ Tïng, Vò Nguyªn Hng: §¸nh gi¸
ph¬ng ph¸p biÓu ®å thiÕt kÕ mãng n«ng 10
T¹ ThÞ Sö, NguyÔn V¨n Anh, TrÞnh Minh
Thô, M¹c ThÞ Ngäc: Nghiªn cøu øng suÊt,
biÕn d¹ng cña ®Ëp ®Êt díi t¸c dông cña
t¶i träng ®éng ®Êt 18
Lª Huy Hoµng: Níc karst trong ®¸ v«i vµ
®¸ carbonat ë ViÖt Nam 23
NguyÔn Mai Chi, Ph¹m §øc HËu, TrÇn
ThÕ ViÖt: Nghiªn cøu ®¸nh gi¸ kh¶ n¨ng
mÊt æn ®Þnh thÊm nÒn ®ª T©n C¬ng - VÜnh
Phóc 31
NguyÔn §øc Lý, NguyÔn Thanh: KÕt qu¶
nghiªn cøu ban ®Çu qu¸ tr×nh dÞch chuyÓn
®Êt ®¸ trªn bê dèc ®êng giao th«ng vïng
®åi nói t©y Qu¶ng B×nh 40
Ng« C¶nh Tïng, NguyÔn H÷u N¨m,
Nghiªm H÷u H¹nh: Thiªn tai trît lë ®Êt ë
Qu¶ng Nam, Qu¶ng Ng·i vµ mét sè
ph¬ng ph¸p dù b¸o 46
Phan Chu Nam: Sù h×nh thµnh tr÷ lîng
khai th¸c níc díi ®Êt vïng thµnh phè Hå
ChÝ Minh 54
Hoµng ViÖt Hïng: Tr×nh tù thùc hiÖn xö lý
®Êt cã phô gia Consolid dïng ®Ó ®¾p vá bäc
®ª biÓn 61
Tæng biªn tËp
GS. TS. NguyÔn Trêng TiÕn
Phã tæng biªn tËp
PGS.TS. Nghiªm H÷u H¹nh
PGS.TS. §oµn ThÕ Têng
Héi ®ång Biªn tËp
PGS.TS. §µo V¨n Canh
PGS.TS. §Æng H÷u DiÖp
TS. Phïng M¹nh §¾c
GS.TSKH. Bïi Anh §Þnh
PGS.TS. Lª Phíc H¶o
TS. Ph¹m Quang Hng
PGS.TS. NguyÔn B¸ KÕ
TS. Phïng §øc Long
GS. NguyÔn C«ng MÉn
PGS.TS. NguyÔn Hång Nam
PGS.TS. NguyÔn Sü Ngäc
GS.TS. Vò C«ng Ng÷
GS.TS. Mai Träng NhuËn
PGS.TS. NguyÔn Huy Ph¬ng
PGS.TS. NguyÔn V¨n Quang
GS.TSKH. NguyÔn V¨n Qu¶ng
TS. Do·n Minh T©m
GS.TS. TrÇn ThÞ Thanh
PGS.TS. V¬ng V¨n Thµnh
GS.TS. Lª §øc Th¾ng
TS. §inh Ngäc Th«ng
GS.TSKH. NguyÔn V¨n Th¬
PGS.TS. TrÞnh Minh THô
TS. NguyÔn §×nh TiÕn
GS.TS. ®ç nh tr¸ng
TS. TrÇn v¨n t
TS. TrÇn T©n V¨n
GS.TSKH. Ph¹m Xu©n
GiÊy phÐp xuÊt b¶n sè 1358/GPXB - Ngµy 8-6-1996, Bé V¨n hãa - Th«ng tin
C¬ quan xuÊt b¶n: ViÖn §Þa kü thuËt
(Liªn hiÖp c¸c Héi KH&KT ViÖt Nam) 38 phè BÝch C©u - §èng §a - Hµ Néi
Tel: 04. 22141917, 22108643; Fax: 04.37325213 Email: [email protected]; [email protected] Website: www.vgi-vn.com
XuÊt b¶n 3 th¸ng 1 kú
Nép lu chiÓu: th¸ng mêi n¨m 2010 In t¹i C«ng ty in Thñy lîi
¶nh b×a 1: Gi¶i ph¸p nµo ®Ó æn ®Þnh bê
dèc?
¶nh: H÷u H¹nh
Gi¸: 15.000 ®
§Þa kü thuËt sè 3-2010 2
Vietnam Geotechnial Journal
Volume 14
Number 3 - 2010
ISSN - 0868 - 279X
contents
NGUYeN VI: Realiability calculation of structures and their foundation 3
Nguyen Hong Nam, Phung Duc
Thang, Nguyen Dinh Phuc,
Nguyen Nhat Hai, To The Tung, Vu
Nguyen Hung: Assesment on the design chart of shalow foundation 10
Ta Thi Su, Nguyen Van Anh, Trinh
Minh Thu, mAI tHi nGOC: Stress strain behaviour of earth fill dam subjected to earthquake load 18
Le HUY HOaNG: Karst water existing in limestones and carbonate rocks in Vietnam 23
Nguyen Mai Chi, Pham duc Hau,
Tran The Viet: Researches and assesing the possibility of unstable permeability of the Tan Cuong dke foundation 31
Nguyen Duc Ly, Nguyen Thanh: Research results with the system initially on gravity shifting process of rock soils on slopes and side slopes of traffic roads in mountainous area west of Quang Binh 40
Ngo Canh Tung, Nguyen huU Nam,
Nghiem Huu Hanh: Natural landslide disasters in Quang Nam, Quang Ngai and some methods of warnings 46
Phan Chu Nam: Formation of exploitable grounwater reserve in the Ho Chi Minh city area 54
Hoang Viet Hung: Systematic testing of Consolid treated sils to be applied to cover soils of sea dikes 61
Editor-in-Chief
Prof.,Dr. Nguyen Truong Tien
Deputy Editors-in-Chief
Assoc. Prof., Dr. Nghiem Huu Hanh
Assoc. Prof.,Dr. doan The Tuong
EditOrial board
Assoc.Prof. Dr. DAo Van Canh
Assoc. Prof.,Dr. DAng Huu Diep
Dr. Phung Manh Dac
Prof.,D.Sc. Bui Anh dinh
Assoc. Prof.,Dr. Le Phuoc Hao
Dr. Pham Quang Hung
Assoc. Prof.,Dr. Nguyen Ba Ke
Dr. Phung duc Long
Prof. Nguyen Cong Man
Assoc. Prof. Dr. Nguyen Hong Nam
Assoc. Prof.,Dr. Nguyen Sy Ngoc
Prof.,Dr. Vu Cong Ngu
Prof.,Dr. Mai Trong Nhuan
Assoc. Prof.,Dr. Nguyen Huy Phuong
Assoc. Prof.,Dr. Nguyen Van Quang
Prof.,D.Sc. Nguyen Van Quang
Dr. Doan Minh Tam
Prof.,Dr. Tran Thi Thanh
Assoc. Prof.,Dr.Vuong Van Thanh
Prof.,Dr. Le duc Thang
Dr. dinh Ngoc Thong
Prof.,D.Sc. Nguyen Van Tho
Assoc. Prof. Dr. Trinh Minh thu
Dr. Nguyen Dinh Tien
Prof., Dr. do Nhu Trang
Dr. Tran VAn Tu
Dr. Tran Tan Van
Prof.,D.Sc. Pham Xuan
Printing licence No 1358/GPXB dated 8 June 1996 by the Minister of Culture and Information Published by the Vietnam Geotechnical Institute (Vietnam
Union of Science and Technology Associations) Add: 38 Bich Cau, Dong Da, Hanoi
Tel: 04.22141917, 22108643, Fax: 04. 37325213 Email: [email protected]; [email protected]
Website: www.vgi-vn.com Copyright deposit: October 2010
§Þa kü thuËt sè 3-2010 3
TÝNH TO¸N §é TIN CËY CñA C¸C C¤NG TR×NH
Vµ NÒN CñA CHóNG
NGUYÔN VI*
Realiability calculation of structures and their foundation
Abstract: This article presents the necessity to calculate reliability of
structures, their contents and calculating methods of structures’
composition to determine reliability of the building components against
loading for entire works as well.
I. MỞ ĐẦU
Các phương pháp tính toán và thiết kế các
công trình và nền của chúng trong các Tiêu
chuẩn hiện hành được gọi là phương pháp các
trạng thái giới hạn, được tạo ra ở Liên Xô cũ và
đã được sử dụng trong vòng hơn 50 năm nay.
Các phương pháp tương tự cũng được sử dụng ở
nhiều nước khác trên thế giới dưới tên gọi
“phương pháp bán xác suất”, mà về bản chất vẫn
mang tính tiền định, chúng là cơ sở cho nhiều
Tiêu chuẩn thiết kế của Châu Âu và Tiêu chuẩn
ISO [4]. Các phương pháp kể trên có mâu thuẫn
cơ bản trong phương pháp luận của mình là sử
dụng các tham số tính toán có bản chất ngẫu
nhiên trong thuật toán với các quan hệ hàm số
có tính đơn trị và tiền định, cũng như không xét
yếu tố thời gian. Nhiều kết quả nghiên cứu được
tiến hành trong 40-50 năm qua [1, 2, 7, 8] đã
khẳng định: các tham số của kết cấu và tải trọng
được dùng trong tính toán các công trình không
phải là các đại lượng không đổi mà là các đại
lượng ngẫu nhiên. Ngoài ra, trong phương pháp
các trạng thái giới hạn việc lấy nhiều hệ số an
toàn theo kinh nghiệm để bù vào mức độ không
đáng tin cậy của hàng loạt các yếu tố ảnh hưởng
đến trạng thái kết cấu cũng mang tính tiền định
và ước lệ.
Vì thế, ngày nay trên thế giới người ta đã sử
dụng tương đối phổ biến các phương pháp xác
suất và độ tin cậy trong tính toán các công trình
xây dựng và nền của chúng. Đây là hệ phương
pháp tiên tiến để tính toán các kết cấu xây dựng,
đang được áp dụng ở nhiều nước phát triển trên
thế giới. Ở các nước như Nga, Mỹ, Trung Quốc,
Nhật Bản,... đều đã ban hành các Tiêu chuẩn
theo hướng này [5, 6, 11] để dần thay thế các
Tiêu chuẩn được biên soạn theo các phương
pháp tiền định. Ở nước ta hiện nay, việc nghiên
cứu và áp dụng hệ phương pháp tính toán theo
quan điểm độ tin cậy để thiết kế các công trình
và nền của chúng là vấn đề hết sức cần thiết và
cấp bách.
II. TÍNH TOÁN CÁC CÔNG TRÌNH
THEO LÝ THUYẾT ĐỘ TIN CẬY
Khác với các phương pháp tiền định, các
phương pháp thiết kế kết cấu xây dựng theo
quan điểm xác suất đề nghị tiêu chí mới về chất
lượng - đó là độ tin cậy của kết cấu. Các phương
pháp này, khi coi các tham số tính toán của kết
cấu và tải trọng là các đại lượng ngẫu nhiên, cho
ta biết được một cách định lượng khả năng xảy
ra trạng thái phá hoại của kết cấu, do đó có thể
giữ cho khả năng xảy ra phá hoại ở dưới một giá
trị cho phép. Nói cách khác, có thể điều khiển
xác suất làm việc an toàn của công trình ở trên
một mức giới hạn nào đó trong một khoảng thời
gian xác định.
* Trêng Cao ®¼ng Giao th«ng VËn t¶i
54 TriÒu Khóc - Thanh Xu©n Nam - Hµ Néi
D§: 0974853495
Email: [email protected]
§Þa kü thuËt sè 3-2010 4
Khái niệm độ tin cậy bao hàm lượng thông
tin rất lớn. Độ tin cậy là tính chất phức tạp và
gồm tổ hợp các tính chất: tính an toàn (không
xảy ra sự cố), tính lâu dài (tuổi thọ hay thời hạn
phục vụ), tính sửa chữa và tính bảo toàn. Tuy
nhiên, người ta coi đặc trưng cơ bản của độ tin
cậy của công trình là xác suất làm việc an toàn
(không có sự cố) của nó trong một thời hạn khai
thác xác định [2, 8, 11]. Sự cố (отказ – tiếng
Nga, failure – tiếng Anh) là biến cố ngẫu nhiên
phá hoại khả năng làm việc của cấu kiện hoặc
của hệ thống. Khái niệm sự cố rất gần với khái
niệm trạng thái giới hạn trong tính toán tiền
định, vì thế có thể coi điều kiện làm việc không
xảy ra các sự cố trùng với điều kiện không xảy
ra các trạng thái giới hạn của kết cấu, các trạng
thái giới hạn này đã được thiết lập bởi các tài
liệu tiêu chuẩn hiện hành [2, 8].
Việc nghiên cứu đồng thời phân bố của tải
trọng S và độ bền hay khả năng chịu tải R lần
đầu tiên đã được Streletsky N. X. tiến hành [2,
8]. Các đường cong phân bố của độ bền kết
cấu và tải trọng tác dụng được thể hiện trên
hình 1, chúng cắt nhau tại điểm tương ứng với
độ bền Ro và tải trọng So. Theo Streletsky N.
X., sự cố của công trình xảy ra khi xuất hiện
đồng thời hai biến cố: 1) tải trọng bằng So còn
độ bền nhỏ hơn Ro; 2) độ bền bằng Ro còn tải
trọng lớn hơn So. Xác suất xuất hiện các biến
cố này dễ dàng tính được nếu biết các quy luật
phân bố của độ bền và tải trọng. Với tính độc
lập của độ bền và tải trọng, xác suất xuất hiện
đồng thời hai biến cố nói trên (xác suất xảy ra
sự cố) bằng tích các xác suất xuất hiện của
mỗi biến cố riêng biệt. Đại lượng ngược với
xác suất xảy ra sự cố về ý nghĩa – chính là xác
suất làm việc an toàn của kết cấu, được gọi là
“đảm bảo không phá hoại” Г:
1 12, (1)
ở đây 1, 2 – là xác suất xuất hiện các biến
cố nói trên (hình 1), được xác định theo các
công thức sau:
1 =
0
;)(S
dSSp
2 = 0
0
)(
R
dRRp .
Hình 1. Sự giao nhau của các đường cong
phân bố độ bền và tải trọng.
“Đảm bảo không phá hoại” là đại lượng đơn
giản và trực quan, cho phép đánh giá độ tin cậy
của kết cấu. Tuy nhiên, xác suất làm việc an
toàn khi đó lại quá cao vì không xét được tất cả
các tổ hợp có thể có của R và S.
Từ năm 1952 độ tin cậy của kết cấu được
Rgianitsưn A. R. định nghĩa chặt chẽ hơn khi ông
đưa vào khái niệm hàm không phá hoại (hình 2):
SR . (2)
Kỳ vọng toán và phương sai đối với phân bố
được biểu thị qua các đặc trưng tương ứng
của phân bố tải trọng và độ bền
SR ; 222
SR , (3)
ở đây SR ,, kỳ vọng toán của các phân
bố tương ứng; 222 ,, SR là phương sai của
các phân bố.
Ông cũng đã đưa vào tính toán đại lượng
được gọi là “đặc trưng an toàn” của kết cấu
= 22
SR
SR
(4)
Rõ ràng, “đặc trưng an toàn” chính là độ
tin cậy của kết cấu ở dạng không tường minh,
nó có ý nghĩa như công cụ ở dạng công thức
toán học để xác định sự cố – xác suất rơi của
các giá trị vào vùng không an toàn (hình 2).
p(S), p(R)
So = Ro S , R
1 2
p(S) p(R)
§Þa kü thuËt sè 3-2010 5
Đối với phân bố chuẩn, xác suất này được tính
theo công thức:
),(2
1)(
dpQ (5)
ở đây
0
2
)2
exp(2
1)( d là hàm
Laplace, các giá trị của hàm đã được lập
thành bảng.
Hình 2. Dẫn xuất “đặc trưng an toàn” của
Rgianitsưn A. R.
So với xác suất sự cố Q thì “đặc trưng an
toàn” có ưu điểm hơn vì nó biểu thị bởi một
số không lớn, trong khi đó xác suất sự cố Q
là một số thập phân rất nhỏ. Ví dụ, khi =
1,28 thì Q = 0,1 và khi = 5 thì Q = 2,9.107
.
Các giá trị > 5 có thể coi là rất lớn và tương
ứng với những giá trị cực kỳ nhỏ của xác suất
sự cố Q, khi đó xác định Q theo (5) sẽ rất khó
khăn.
Trong Tiêu chuẩn của Trung Quốc [5] và
của Nhật Bản năm 2007 [6], người ta đều gọi
“đặc trưng an toàn” là “chỉ số độ tin cậy” ,
nghĩa là
= = 22
SR
SR
. (6)
Theo Tiêu chuẩn Trung Quốc [5], công trình
được thiết kế theo độ tin cậy phụ thuộc dạng
phá hoại và mức độ an toàn của công trình
(bảng 1).
Bảng 1. Phân cấp mức độ an toàn của công trình [5]
Đặc trưng
phá hoại
Cấp an toàn
Cấp I
(Rất nghiêm trọng)
Cấp II
( Nghiêm trọng)
Cấp III
(Không nghiêm trọng)
(chỉ số độ
tin cậy)
PS
(xác suất an
toàn)
(chỉ số độ
tin cậy)
PS
(xác suất
an toàn)
(chỉ số độ
tin cậy)
PS
(xác suất
an toàn)
Phá hoại biến
hình từ từ 3,7 0,9998900 3,2 0,9993189 2,7 0,996533
Phá hoại
đột ngột 4,2 0,99998665 3,7 0,9998900 3,2 0,9993189
Theo Tiêu chuẩn Nhật Bản [6], công trình
được thiết kế theo độ tin cậy ở mức 2 (xem bảng
2): đối với cầu tàu và các công trình cảng, chỉ số
độ tin cậy cho phép a được lấy bằng 2 4; đối
với các dạng đê chắn sóng khác nhau, chỉ số
a = 2,043,60; đối với các công trình rất quan
trọng, như lò phản ứng hạt nhân, chỉ số a được
lấy bằng 56.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 6
Bảng 2. Các mức thiết kế kết cấu theo Tiêu chuẩn Nhật Bản [6]
Mức Công thức kiểm tra
an toàn Khái niệm Ghi chú
3 Pf Pfa Xác suất sự cố Mô phỏng theo
Monte Carlo
2 a Chỉ số độ tin cậy Tiêu chuẩn này
1 kSkR SR Các hệ số an toàn
bộ phận
Phương pháp thiết kế theo
trạng thái giới hạn
Từ năm 1986 ở Liên Xô cũ việc tính toán
thiết kế các công trình cảng theo lý thuyết độ tin
cậy đã được thực hiện theo mức 3 [11]. Người
ta xác định không phải xác suất sự cố mà là xác
suất ngược với nó về ý nghĩa, đó là xác suất làm
việc không xảy ra sự cố (xác suất làm việc an
toàn) của các cấu kiện chịu tải và của cả công
trình nói chung.
Xác định độ tin cậy của cấu kiện chịu tải.
Đối với các công trình mà mật độ phân bố xác
suất của các tham số kết cấu và tải trọng cơ
bản tuân theo quy luật phân bố chuẩn hoặc rất
gần với phân bố chuẩn, có thể xác định xác
suất làm việc an toàn của các cấu kiện chịu tải
theo phương pháp tuyến tính hoá [2, 8, 11].
Để tính độ tin cậy P phải xác định các đặc
trưng thống kê của độ bền hay khả năng chịu
tải của cấu kiện R và của nội lực S do tải trọng
ngoài gây ra. Trong quan hệ tiền định, độ bền
hay khả năng chịu tải R và nội lực S có thể
được viết dưới dạng hàm của một số hữu hạn
các tham số sau đây:
),...,,( 21 nR rrrfR ,
),...,,( 21 mS sssfS , (7)
trong đó mn sssrrr ,...,,,,...,, 2121 – là các tham
số tính toán của hàm độ bền và nội lực.
Thực tế chỉ ra rằng, hầu như tất cả các tham
số mn sssrrr ,...,,,,...,, 2121 đều là các đại lượng
ngẫu nhiên [1, 2, 8]. Kỳ vọng toán của hàm các
tham số ngẫu nhiên bằng đại lượng được xác
định theo quan hệ tiền định với việc đưa vào kỳ
vọng toán của các đại lượng ngẫu nhiên
),...,,( 21 nR rrrfR ,
),...,,( 21 mS sssfS , (8)
trong đó mn sssrrr ,...,,,,...,, 2121 – tương ứng
là kỳ vọng toán của các tham số tính toán của
hàm độ bền và hàm nội lực.
Phương sai của hàm các tham số ngẫu nhiên
được xác định theo công thức của lý thuyết xác
suất [3, 8]:
,)()()(1 1
32
2
2
2
2
n
i
n
i
i
i
R
i
Ri
i
RR r
r
f
r
fr
r
fRD
,)()()(1 1
32
2
2
2
2
m
i
m
ii
i
S
i
S
i
i
S
S ss
f
s
fs
s
fSD (9)
ở đây 32 , – mômen trung tâm thứ hai và
thứ ba của các tham số ngẫu nhiên của độ bền
hay nội lực; i
R
r
f
,
i
S
s
f
;
2
2
i
R
r
f
,
2
2
i
S
s
f
– đạo hàm
riêng cấp một và cấp hai của hàm các tham số
ngẫu nhiên của độ bền và nội lực; n, m – số
tham số ngẫu nhiên trong hàm độ bền và hàm
nội lực.
Khi đó theo phương pháp tuyến tính hóa, vào
§Þa kü thuËt sè 3-2010 7
thời điểm t bất kỳ xác suất làm việc không xảy
ra sự cố của cấu kiện được xác định theo công
thức [1, 8]:
RS DD
RSP 1 , (10)
ở đây RS DRDS ,,, – tương ứng là kỳ vọng
toán và phương sai của hàm tải trọng S và hàm
độ bền hay khả năng chịu tải R của cấu kiện;
- hàm phân bố chuẩn.
Thực tế tính toán chỉ ra rằng, khi các hàm độ
bền và nội lực (8) phức tạp, việc xác định các
phương sai SR DD , theo (9) cũng phức tạp và dễ
nhầm lẫn. Vì thế, để tính toán xác suất công
trình, tốt nhất nên sử dụng các phương pháp số:
phương pháp Monte Carlo, phương pháp thử
nghiệm thống kê,… với việc sử dụng máy tính
điện tử. Theo hướng này, tác giả đã đề xuất một
phương pháp tính xác suất các kết cấu xây dựng
rất thuận lợi và hiệu quả, được công bố ở nước
ngoài và được trình bày chi tiết trong [3, 9].
Trong nhiều trường hợp, do số lượng mẫu
thử hạn chế cũng như do các đặc điểm công
nghệ hoặc các nguyên nhân khác mà các quy
luật phân bố của các tham số có thể chỉ gần với
phân bố chuẩn, chúng có độ lệch và độ nhọn
nhất định. Điều đó có thể dẫn đến sai số lớn khi
xác định xác suất làm việc an toàn của cấu kiện
theo phương pháp tuyến tính hoá. Vì thế, để tính
độ tin cậy của các cấu kiện chịu tải của công
trình, hợp lý hơn cả là sử dụng phương pháp bán
bất biến tổng quát của Ju. A. Pavlov. Có thể
xem chi tiết công thức tính theo phương pháp
này trong [2, 10].
Mục đích tính toán các công trình về độ tin
cậy là, với xác suất đủ cao, không cho phép nảy
sinh sự cố trong công trình, trong các cấu kiện
và nền của nó vào thời kỳ xây dựng và khai
thác. Nhưng đối với một cấu kiện có thể xảy ra
một số sự cố. Khi đó, xác suất làm việc an toàn
của cấu kiện j ( jP ) theo tập hợp các sự cố i có
thể xảy ra với nó, được xác định theo công thức:
jP = 1 ─
T
i
jiP1
)1( , (11)
ở đây T − số các sự cố có thể xảy ra với cấu
kiện j; jiP − được xác định theo công thức (10).
Xác định độ tin cậy của công trình. Độ tin cậy
của cả công trình phụ thuộc vào cách liên kết và tác
dụng tương hỗ giữa các cấu kiện chịu tải của nó [1,
7, 8, 11]. Với tính chất như định hướng, chúng ta
xác định độ tin cậy của cả công trình theo chỉ dẫn
của РД 31.31.35 – 85 [11]. Khi đó, xác suất làm
việc an toàn của công trình Pc được xác định xuất
phát từ quan niệm về các sự cố của các cấu kiện đã
được chia ra, như các biến cố ngẫu nhiên độc lập,
phù hợp với định lý nhân xác suất:
tc
c
K
j
jc PPP 1
, (12)
ở đây K – số cấu kiện của công trình; tc
cP −
độ tin cậy tiêu chuẩn của công trình.
Về độ tin cậy tiêu chuẩn của cấu kiện và
của công trình. Độ tin cậy tiêu chuẩn được
thiết lập trên cơ sở kinh nghiệm thiết kế các
công trình với việc sử dụng các phương pháp
của lý thuyết độ tin cậy và các tiêu chí kinh tế.
Trong quy phạm [11] cho trị số độ tin cậy tiêu
chuẩn đối với các cấu kiện chịu tải của các công
trình tuỳ thuộc dạng sự cố của cấu kiện do phá
hoại vật liệu hay tương tác với nền đất. Đối với
các công trình, tuỳ thuộc quy mô và mức độ
quan trọng của chúng mà độ tin cậy tiêu chuẩn
được lấy với các giá trị tương ứng. Giá trị độ tin
cậy tiêu chuẩn của công trình có thể tham khảo
trong [5, 6, 8, 11], tuy nhiên, theo đề nghị của
một số nhà khoa học [2, 8], giá trị này không
nên lấy nhỏ hơn 0,95, nghĩa là tc
cP 0,95
hay a 1,645. Đây là vấn đề vẫn đang tiếp tục
được nghiên cứu.
III. TÍNH TOÁN ĐỘ TIN CẬY CỦA
CÔNG TRÌNH
Để minh họa, dưới đây trình bày cách tính độ
tin cậy của công trình dạng tường chắn cứng.
Một tường chắn cứng thông thường có thể được
chia thành hai cấu kiện chịu tải chủ yếu sau
§Þa kü thuËt sè 3-2010 8
(hình 3): 1- bản thân tường chắn; 2- khối đất
tương tác với tường.
Các sự cố sau đây có thể xảy ra đối với
tường.
Đối với cấu kiện 1: 1- mất ổn định về trượt
phẳng ở đáy tường cùng khối đất trước tường
với xác suất 11P , xác suất an toàn 1111 1 PP ;
2- phá hoại vật liệu tường với xác suất 21P , xác
suất không phá hoại 2121 1 PP ; 3- mất ổn
định về lật quanh mép trước tường với xác suất
31P , xác suất ổn định 3131 1 PP ; 4- phá hoại
nền do ứng suất ở đáy tường lớn hơn sức chịu
tải của nền với xác suất 41P , xác suất không phá
hoại 4141 1 PP ;
Đối với cấu kiện 2: 6- mất ổn định chung
cùng với khối đất với xác suất 52P , xác suất ổn
định 5252 1 PP .
Khi đó, xác suất làm việc an toàn của cấu
kiện jP theo tập hợp các sự cố i có thể xảy ra
với nó, được xác định theo công thức (11). Xác
suất làm việc an toàn của tường chắn cứng được
xác định theo công thức (12).
Hình 3. Các dạng sự cố có thể xảy ra đối với
tường chắn cứng
Dưới đây là ví dụ tính xác suất một tường
chắn mà sơ đồ tính được thể hiện trên hình 4 và
các số liệu đưa vào tính toán được cho trong
bảng 3.
Chúng ta cũng chỉ xem xét kết quả tính xác
suất không xảy ra sự cố lật quanh mép trước
tường, việc tính toán xác suất không xảy ra các
sự cố khác cũng được tiến hành tương tự.
Hình 4. Sơ đồ tính toán tường chắn cứng
Bảng 3. Các số liệu đƣa vào tính xác suất
tƣờng chắn
Tính toán xác suất tường được tiến hành
theo phương pháp mô hình hoá thống kê từng
bước [3, 9] và được tác giả lập thành chương
trình “TXSTCC” trên ngôn ngữ Turbo Pascal
với số lần thử nghiệm có thể đến N = 2,14.109
lần. Kết quả tính toán đưa ra kỳ vọng toán, độ
lệch chuẩn, các mômen trung tâm cấp hai, cấp
ba và cấp bốn của độ bền hoặc khả năng chịu
tải R , R, 2(R), 3(R), 4(R),... và của nội lực
S , S, 2(S), 3(S), 4(S),... do tải trọng ngoài
gây ra.
Trong bảng 4 dẫn ra các kết quả tính toán
ha2
ha1
q
111 ,, aaa c
222 ,, aaa c
111 ,, ppp c
hp1
Bd
Bt
btr bs
41P
52P
31P
21P
11P 11P
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
Pa
§Þa kü thuËt sè 3-2010 9
tường theo phương pháp tiền định và theo
phương pháp mô hình hoá thống kê từng bước
với số lần thử nghiệm N = 10 000 lần. Còn trên
hình 5 là biểu đồ thực nghiệm và các đặc trưng
thống kê của các đại lượng ngẫu nhiên mômen
giữ gM và mômen gây lật lM quanh mép trước
đáy tường.
Khi đó, độ tin cậy hay xác suất làm việc an
toàn về ổn định lật quanh mép trước của tường
được xác định theo công thức (10):
Bảng 4. Kết quả tính toán tƣờng chắn cứng
Phương pháp tiền
định
Phương pháp mô hình hoá thống kê
từng bước: N=10 000
Kỳ vọng toán Độ lệch chuẩn
+ Mômen gây lật:
lM = 1508,718 kNm
+ Mômen giữ:
Mg = 2041,889 kNm
lM =1520,357
gM =2042,236
Ml = 293,888
Mg = 83,187
Hệ số ổn định:
l
g
M
Mk 0 = 1,353
Độ tin cậy:
31P = 0,9554
MgMl
gl
DD
MMP 131
22 )888,293()187,83(
236,2042357,15201 )7074,1(1 0,9554.
Hình 5. Biểu đồ thực nghiệm và các đặc trưng
thống kê của các mômen giữ Mg
và mômen gây lật Ml
Giả sử xác định được độ tin cậy của tường theo
các dạng sự cố còn lại: 11P = 0,9998; 21P =0,9736;
41P = 0,9650; 52P = 0,9935.
Khi đó:
1P = 1 -
4
1
1)1(i
iP = 0,9998 + 0,9736 +
0,9554 + 0,9650 – 3 = 0,8938;
2P = 52P = 0,9935,
và độ tin cậy của tường:
2
1ijT PP = 0,8938.0,9935 = 0,8880.
Như vậy, nếu lấy độ tin cậy tiêu chuẩn của
tường bằng 0,95 [11] thì tường không đủ tin cậy
và cần phải thiết kế điều chỉnh lại các tham số
tính toán của tường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Vi. Tính toán các công trình bến cảng
theo lý thuyết độ tin cậy. Tạp chí “Giao thông vận tải”,
số 9-1996, Hà Nội.
2. Nguyễn Vi. Độ tin cậy của các công trình bến cảng.
NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2009. - 184 trang.
3. Nguyễn Vi. Phương pháp mô hình hoá
thống kê từng bước trong tính toán độ tin cậy của
các công trình cảng. NXB Giao thông vận tải, Hà
Nội, 2009. - 228 trang.
4. International Standards Organization (ISO).
General Principles for the Verification of the Safety of
Structures, ISO-2394. 1973.
5. JB 50153–92. Beijing, China.
6. New Standards for Port and Habour Facilities.
Tokyo, Japan, 2007.
7. Болотин В. В. Методы теории вероятностей
и теории надежности в расчетах сооружений.
“Стройиздат”, Москва, 1982.
8. Костюков В. Д. Надежность морских причалов и
их реконструкция. “Транспорт”, Москва, 1987.
9. Nguyễn Vi. Метод статистического
моделирования в расчетах надежности портовых
гидротехнических сооружений. Москва: “Наука и
техника транспорта”, №4, 2003.
10. Павлов Ю. А. Расчет надежности
железобетонных конструкций в неустойчивых
областях распределений прочности и усилий. - В
кн.: Вопросы надежности железобетонных
конструкций. Куйбышев, 1973, c. 48 – 52.
11. РД 31-31-35-85. Основные положения
расчета причальных сооружений на надежность.
Москва: В/О “Мортехинформреклама”, 1986.
Người phản biện: PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUÂN
§Þa kü thuËt sè 3-2010 10
§¸NH GI¸ PH¦¥NG PH¸P BIÓU §å THIÕT KÕ MãNG N¤NG
NguyÔn Hång Nam*; Phïng §øc Th¾ng**
NguyÔn §×nh Phóc**; NguyÔn NhËt H¶i**
T« ThÕ Tïng**; Vò Nguyªn Hng**
Assesment on the design chart of shalow foundation
Abstract: Design chart method (Coduto, 2001) is a precise method which
can reduce both the differential settlements and construction costs for
designing of shallow foundations. Verification of the design chart by finite
element analysis (FEA) was carefully implemented for a continuous
footing subjected to concentric downward loads. The analyzed results
showed the consistencies between the two methods. An average error on
the allowable failure loads computed by Meyerhof and FEA was less than
8%. However, the differences in the values of allowable failure load by
Terzaghi and FEA were significant. Average error on the computed loads
by Schmertmann and FEA methods was less than 9%. In general, the
differences in the values by using these two methods increased when the
footing settlement increased.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay trong thực tế xây dựng các công trình
dân dụng, giao thông, thủy lợi ở nước ta, thường
xảy ra việc mất ổn định nền móng trong quá trình
thi công và khai thác. Bên cạnh những nguyên
nhân liên quan đến vấn đề khảo sát, thi công, cần
phải chú ý vấn đề thiết kế hiệu quả. Thiết kế
không hợp lý có thể gây lãng phí hoặc gây sự cố
nguy hiểm do mất ổn định cường độ và biến dạng
đất nền.
Trong tính toán thiết kế móng nông, yêu cầu
về cường độ và biến dạng không phải lúc nào
cũng phù hợp. Nếu chỉ thỏa mãn yêu cầu cường
độ thì tải trọng tác dụng có thể gây biến dạng
lớn. Ngược lại, nếu chỉ khống chế biến dạng thì
tải trọng tác dụng có thể chưa đạt tới sức chịu
tải cho phép của nền.
TCXD-45-78 (Bộ xây dựng, 1979) quy định
khi tính biến dạng của nền theo trạng thái giới
hạn hai, phải xem nền là mô hình biến dạng
tuyến tính, do đó cần khống chế áp suất đáy
móng bằng (hay nhỏ hơn) áp suất tiêu chuẩn của
đất nền. Từ điều kiện đó, người ta xác định sơ
bộ kích thước đáy móng và kiểm tra điều kiện
biến dạng.
TCXD-45-78 cũng yêu cầu kiểm tra điều
kiện ổn định về cường độ. Trong trường hợp
này, tải trọng tính toán lấy bằng tải trọng giới
hạn chia cho một hệ số độ tin cậy, phụ thuộc
nhiều yếu tố, có hướng dẫn lựa chọn. Trong
trường hợp móng băng, sức chịu tải giới hạn
được tính theo biểu thức Meyerhof.
Tuy nhiên để thiết kế cụ thể móng băng đặt
nông, có thể tham khảo thêm phương pháp đặt
tải cho phép (Allowable Bearing Pressure
Method) [ABPM] và phương pháp biểu đồ thiết
kế (Design Chart Method) [DCM] do Coduto
(2001) đề nghị.
Mục đích chủ yếu của hai phương pháp này
là xác định kích thước móng theo một tiêu
chuẩn thiết kế chung thỏa mãn đồng thời điều
kiện an toàn về ổn định cường độ và biến dạng.
Nội dung của phương pháp ABPM là tìm
* Bộ môn Địa kỹ thuật, Đại học Thủy lợi
175 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội.
DĐ: 0904359460, Email:
Lớp 49C2, Khoa Công trình, Đại học Thủy lợi
175 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội
§Þa kü thuËt sè 3-2010 11
một áp suất đáy móng qA, bằng giá trị nhỏ hơn
giữa sức chịu tải cho phép, qa, và áp suất q gây
ra độ lún cho phép lớn nhất. Theo tác giả,
phương pháp này thường được áp dụng cho
từng móng riêng lẻ cho toàn công trường xây
dựng hoặc chí ít cho các móng có dạng đặc biệt
tại khu vực đó. Loại phương pháp này thích hợp
cho các kết cấu cỡ nhỏ và vừa.
Theo tác giả, đối với những kết cấu lớn hơn, đặc
biệt trong đó có nhiều loại tải trọng cột khác nhau,
phương pháp DCM cho kết quả .chính xác hơn.. Độ
chính xác tăng thêm sẽ làm giảm độ chênh lún và
giá thành xây dựng.
Hình 1. Sơ đồ móng nông
Bài báo giới thiệu phương pháp DCM và đánh
giá độ chính xác của phương pháp này dựa trên
kết quả phân tích phần tử hữu hạn đối với bài toán
móng nông chịu tải trọng thẳng đứng tác dụng
đúng tâm móng (Hình 1).
II. PHƢƠNG PHÁP DCM
2.1 Cơ sở lý thuyết
Có thể thấy rằng thay vì sử dụng một áp suất
đáy móng cho phép qA duy nhất đối với tất cả các
móng, sẽ tốt hơn nếu sử dụng một áp suất đáy
móng lớn hơn đối với các móng nhỏ và áp suất
đáy móng nhỏ hơn đối với những móng lớn. Như
vậy sẽ giảm độ lún lệch và tránh lãng phí vật liệu.
Khái niệm này được thể hiện trong một biểu đồ
thiết kế (Hình 2).
Để thiết lập một biểu đồ thiết kế cần sử dụng
lý thuyết sức chịu tải cổ điển tính toán đường
cong mang tên "sức chịu tải", thể hiện quan hệ
giữa tải trọng phá hoại cho phép và bề rộng
móng. Tiếp theo, dựa trên các phân tích biến
dạng để lập các đường cong đẳng lún thể hiện
quan hệ giữa tải trọng và bề rộng móng ứng với
các giá trị độ lún không đổi khác nhau. Quy
trình xây dựng biểu đồ thiết kế được tóm tắt như
sau (Coduto, 2001):
Bƣớc 1: Xác định hình dạng móng. Mỗi loại
móng với hình dạng khác nhau phải có riêng
một biểu đồ thiết kế.
Bƣớc 2: Chọn chiều sâu chôn móng Dmin. Có
thể tham khảo Bảng 1 dưới đây về cách chọn Dmin
đối với móng băng và móng vuông.
Hình 2. Một biểu đồ thiết kế cho móng nông
Bƣớc 3: Xác định chiều sâu mực nước ngầm
thiết kế Dw. Nên chọn giá trị nhỏ nhất trong toàn bộ
thời gian hoạt động của móng.
Bƣớc 4: Chọn hệ số an toàn thiết kế đối với sự
phá hoại về sức chịu tải, FS (FS= 2-4).
Bƣớc 5: Chọn chiều rộng móng B = 300 mm
hoặc 1 ft, thực hiện phân tích sức chịu tải theo các
công thức lý thuyết sức chịu tải truyền thống
(Terzaghi, Meyerhof) và tính tải trọng cột tương ứng
P với hệ số an toàn đã chọn.
Chấm điểm (B, P) lên biểu đồ thiết kế (Hình
2). Sau đó lựa chọn một loạt các giá trị mới của
B, tính toán các giá trị P tương ứng và vẽ các
điểm dữ liệu (B, P). Tiếp tục thực hiện quá trình
này cho đến khi lực tính toán P lớn hơn một chút
tải trọng cột thiết kế lớn nhất. Cuối cùng, nối các
điểm dữ liệu tạo thành đường cong “Sức chịu
tải” (Hình 2).
D D2
D1
Mặt đất tự nhiên
Dw B
Mực nước ngầm
P
§Þa kü thuËt sè 3-2010 12
Bảng 1: Quan hệ P ~ Dmin
Dmin
(mm)
Móng băng Móng vuông
Tải trọng
P/B (kN/m)
Tải trọng
P (kN)
300 0 – 170 0–300
400 170 – 250 300–500
500 250 – 330 500–800
600 330 – 410 800–1009
700 410 – 490 1100–1500
800 490 – 570 1500–2000
900 570 – 650 2000–2700
10000 650 – 740 2700–3500
Bƣớc 6: Phát triển đường cong đẳng lún:
a) Chọn một giá trị độ lún cho đường cong đẳng
lún đầu tiên, ví dụ 0,635cm (0,25in).
b) Chọn một chiều rộng móng B nằm trong
giới hạn xem xét và lựa chọn tuỳ ý một tải trọng
cột tương ứng P. Sau đó tính độ lún móng này.
c) Bằng cách thử dần, điều chỉnh tải trọng cột
cho đến khi độ lún tính toán phù hợp với giá trị
đã gán trong bước a. Sau đó, vẽ điểm (B; P) trên
biểu đồ thiết kế.
d) Lặp lại các bước b và c với các giá trị mới
của B cho đến khi một đường cong đẳng lún
phù hợp được tạo ra.
Bƣớc 7: Lặp lại bước 6 đối với các giá trị độ
lún khác, do đó tạo được một họ các đường
cong đẳng lún trên biểu đồ thiết kế. Những
đường cong này nên bao trùm một phạm vi tải
trọng cột và chiều rộng móng thích hợp đối với
kết cấu dự kiến.
Bƣớc 8: Sử dụng các hệ số trong Bảng 2 đưa
ra một ghi chú cho biểu đồ thiết kế, chỉ rõ các
độ lún chênh lệch theo thiết kế δD là bao nhiêu
phần trăm của các độ lún tổng δ.
Sau khi xây dựng xong biểu đồ thiết kế, kỹ sư
địa kỹ thuật gửi nó cho kỹ sư kết cấu. Kỹ sư kết
cấu chính là người quyết định kích thước mỗi
móng, sử dụng quy trình dưới đây:
1) Tính tải trọng thiết kế P.
2) Sử dụng đường cong “sức chịu tải” trên
biểu đồ thiết kế (Hình 2), xác định chiều rộng
móng nhỏ nhất B, để đỡ tải trọng P khi thoả
mãn các yêu cầu về sức chịu tải.
3) Sử dụng đường cong đẳng lún tương ứng
với độ lún tổng cho phép δa, xác định chiều
rộng móng B tương ứng với tải trọng thiết kế P.
Đây là chiều rộng móng nhỏ nhất thoả mãn yêu
cầu về độ lún tổng.
4) Sử dụng t số δD/δ chú giải trên biểu đồ
thiết kế, tính độ lún lệch δD và so sánh nó với độ
lún lệch cho phép δDa.
5) Nếu δD>δDa sử dụng quy trình dưới đây:
a) Sử dụng độ lún lệch cho phép δDa và t số
δD/δ tính một giá trị mới δa. Giá trị này ngầm
thoả mãn cả hai yêu cầu về độ lún tổng và độ
lún lệch.
b) Sử dụng đường cong đẳng lún trên biểu đồ
thiết kế ứng với giá trị điều chỉnh δa này, xác
định chiều rộng móng yêu cầu, B.
6) Chọn các giá trị lớn hơn của B từ phân
tích sức chịu tải (Bước 2) và phân tích lún
(Bước 3 hoặc 5b). Đây là chiều rộng móng
thiết kế.
7) Lặp lại các bước từ 1 đến 6 đối với các
cột còn lại.
Các biểu đồ này rõ ràng thể hiện sức chịu
tải chi phối ra sao việc thiết kế móng h p,
trong khi độ lún chi phối thiết kế móng rộng.
Bảng 2. Các giá trị thiết kế δD/δ đối với
móng nông
Loại đất chủ yếu
dưới móng
Giá trị thiết kế của
δD/δ
Móng mềm Móng cứng + Cát pha:
Đất tự nhiên
Đất đầm chặt,chiều dày
đều trên nền cứng tự
nhiên
+ Sét pha:
Đất tự nhiên
Đất đầm chặt,chiều dày
đều trên nền cứng tự
nhiên
0,9 0,7
0,5 0,4
0,8 0,5
0,4 0,3
§Þa kü thuËt sè 3-2010 13
2.2. Bài toán ứng dụng
Để minh hoạ cho việc ứng dụng biểu đồ thiết
kế trong thiết kế móng nông, ta xét một bài toán
ví dụ của Coduto (2001) có chỉnh sửa yêu cầu
loại móng. Đơn vị bài toán ở hệ Anh được
chuyển sang hệ SI để tiện theo dõi:
Một gara đỗ xe mới sẽ được xây dựng tại
hiện trường trước đó bị chiếm giữ bởi các toà
nhà thương mại hai tầng. Những toà nhà cũ này
đã bị phá bỏ và các tầng hầm cũ đã được đắp
dày bởi cát cấp phối tốt, bụi pha cát và cát pha
bụi. Cao trình tầng dưới của gara đỗ xe nằm
ngang mặt đất hiện tại, các tải trọng cột thiết kế
trong khoảng 250-900k (1112,1-4003,4kN). Các
độ lún tổng và độ lún lệch cho phép lần lượt là
1,0 in (2,54cm) và 0,6 in (1,524cm). Một loạt 5
hố khoan thí nghiệm đã được thực hiện tại hiện
trường. Đất nền bao gồm chủ yếu là đất đắp
tầng hầm, bên dưới là đất cát và bụi phù sa.
Mực nước ngầm tại độ sâu khoảng Dw=60,96m
(200 ft). Hình 3 thể hiện mặt cắt địa tầng được
lập từ những hố khoan này, cùng với tất cả các
giá trị N60 của thí nghiệm SPT. Đất đắp tầng
hầm không được đầm chặt tốt và chỉ chiếm một
phần hiện trường. Vì vậy, để tạo sự chống đỡ
đều cho các móng nông dự kiến, chiều dày
3,048m (10ft), đất phía trên sẽ bị đào và đầm lại
để đạt độ chặt. Điều này dẫn đến hệ số quá cố
kết bằng 3 và giá trị N60 ước tính bằng 60. Thí
nghiệm cắt trực tiếp trong phòng đối với mẫu
đầm chặt của loại đất này cho c'=0 và φ'=35o.
Bảng 3 cho thấy các giá trị mô đun đàn hồi
tương đương của đất thay đổi theo chiều sâu,
được tính dựa vào số liệu thí nghiệm SPT.
Yêu cầu thiết lập biểu đồ thiết kế cho móng
băng trên và xác định kích thước móng băng đỡ
tải trọng cột 300 k (1334,5 kN).
Bài toán nói trên được giải theo trình tự sau.
Bƣớc 1: Xác định hình dạng móng: Móng
băng, chọn chiều dài L= 0,3048m (1ft).
Bƣớc 2: Chọn chiều sâu chôn móng
D=0,9144 m (3ft), chiều dày bản đáy D1=
0,4877m (1,6ft), chiều dày lớp đất phía trên
móng D2= 0,4267 m (1,4ft).
Bƣớc 3: Xác định chiều sâu mực nước ngầm
thiết kế: Dw =60,96 m (200ft).
Bƣớc 4: Chọn hệ số an toàn F=2.5.
Bƣớc 5: Lần lượt chọn chiều rộng móng B =
0,6096; 0,9144; 1,2192; 1,5240; 1,8288; 2,1336;
2,4384; 2,7432 m (tương ứng B=2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9ft)
ta tính được sức chịu tải móng:
BNqNNcq qcu 5,0' (1)
Theo Terzaghi: Nc = 57,8; Nq = 41,4; N =47,3
ứng với c’ = 0, ’= 350 (Coduto, 2001).
Theo Meyerhof: Nc = 46,12; Nq = 33,3;
N=37,15 ứng với c’ = 0, ’= 350 (Das, 2007).
Hình 3. Mặt cắt địa tầng và kết quả SPT đối với
khu vực gara đỗ xe dự kiến
Bảng 3. Các giá trị Es theo độ sâu
Độ sâu (m) Es
(kN/m2)
0 – 3,0
3,0 – 6,1
> 6,1
52668
47880
81396
qa= F
qu , và qa = Wf dP W
A
- uD
trong đó Wf là trọng lượng bản đáy móng, Wf
=BLD1bt; Wd là trọng lượng đất đắp phía trên
đáy móng, Wd BLD2dat, A là diện tích mặt cắt
ngang đáy móng A = BL; uD là áp lực nước lỗ
rỗng tác dụng lên đáy móng (= 0); bt = 23,6
kN/m3; dat = 19,352 kN/m
3 . Ta có:
P = qaA - Wf – Wd (2)
§Þa kü thuËt sè 3-2010 14
Như vậy có thể tính được các giá trị P tương
ứng với các chiều rộng móng đã chọn theo công
thức (1) với các hệ số sức chịu tải xác định bởi
Terzaghi hoặc Meyerhof (Bảng 4). Để đơn giản
tính toán, trong công thức Meyerhof (Das,
2007), không xét hệ số hiệu chỉnh độ sâu.
Bƣớc 6: Xây dựng các đường cong đẳng lún:
Chọn giá trị độ lún 1= 6,35 mm (0,25in)
cho đường cong đầu tiên. Chọn chiều rộng
móng B = 0,6096; 1,2192; 1,8288; 2,4384;
3,048; 3,6576; 4,2672; 4,8768 m (tương ứng
B=2, 4, 6, 8, 10, 12, 14, 16ft). Độ lún của móng
được tính theo phương pháp Schmertmann, sử
dụng bảng tính SCHMERTMANN.XLS
(Coduto, 2001).
S
zDE
HIqCCC '321 (3)
trong đó C1,C2, C3 lần lượt là các hệ số độ
sâu, hệ số từ biến và hệ số hình dạng; 'zD là
ứng suất thẳng đứng hiệu quả tại độ sâu đáy
móng D, I là hệ số ảnh hưởng tại điểm giữa
lớp đất, H là chiều dày lớp đất (Coduto,
2001).
Thực hiện phép tính thử dần các giá trị tải
trọng P cho đến khi độ lún tính toán đạt giá trị
độ lún yêu cầu 1= 6,35 mm.
Bảng 4. Quan hệ B~P của đƣờng sức chịu tải
B
(m)
Theo Terzaghi Theo Meyerhof
qu
(kPa)
qa
(kPa)
P
(kN)
qu
(kPa)
qa
(kPa)
P
(kN)
0,6096 1010,0 404,0 71,6 807,1 322,8 56,5
0,9144 1149,3 459,7 122,8 916,5 366,6 96,5
1,2192 1288,6 515,4 184,2 1025,9 410,4 145,0
1,5240 1427,9 571,1 256,2 1135,3 454,1 201,9
1,8288 1567,1 626,9 338,5 1244,7 497,9 266,4
2,1336 1706,4 682,6 431,0 1354,1 541,6 339,4
2,4384 1845,7 738,3 534,2 1463,5 585,4 420,4
2,7432 1985,0 794,0 647,2 1572,9 629,2 509,8
Bảng 5. Quan hệ giữa tải trọng và chiều rộng
móng đối với các đƣờng đẳng lún khác nhau
(mm)
B (m)
0,6 1,2 1,8 2,4 3,0 3,7 4,3 4,9
6,35 45 53 60 67 73 80 87 93
12,7 80 96 107 122 136 147 158 167
19,05 109 132 150 171 189 207 222 238
25,4 137 167 190 217 242 265 287 305
31,75 162 199 228 262 291 320 347 370
Bƣớc 7: Lặp lại bước 6 với các giá trị độ lún
12,7; 19,05; 25,4; 31,75mm (tương ứng với 0,5;
0,75; 1,0; 1,25in), ta được quan hệ giữa tải trọng
và độ lún (Bảng 5 và Hình 4).
Từ biểu đồ thiết kế (Hình 4), chọn bước cột
L=5ft, ta có P=300/5=60k/ft, tức là
266,89kN/0,3048m. Trên đường sức chịu tải
Meyerhof xác định được B=1,83m. Trên đường
đẳng lún δ=2,54cm(1in), ta có B=3,75m.Vì
δD=(δD/δa).δa=0,5.1=0,5< δDa=0,6in (1,524cm),
nên B=max(1,83; 3,75)=3,75m.
III. ĐÁNH GIÁ ĐỘ CHÍNH XÁC CỦA
PHƢƠNG PHÁP BIỂU ĐỒ THIẾT KẾ
Để đánh giá độ chính xác của phương pháp
biểu đồ thiết kế, phân tích ứng suất biến dạng
theo phần tử hữu hạn đã được thực hiện đối với
bài toán móng băng (mục 2.2), sử dụng phần
mềm Plaxis, version 8.2 (Brinkgreve, 2002).
Xét hai trường hợp là móng có độ cứng hữu hạn
và móng cứng tuyệt đối.
3.1. Xét móng có độ cứng hữu hạn
Đất nền và đất đắp được mô phỏng theo mô
hình Mohr-Coulomb với các giá trị tham số như
sau: 350, c = 0,5 kN/m
2, =5
0, =0,3.
Đất đắp (0 – 3m): E = 52668 kN/m2
=19,352 kN/m3
Đất nền 1 (3 – 6m): E=47880 kN/m2
=17,31 kN/m3
Đất nền 2 (>6m): E=81396 kN/m2
=17,31 kN/m3
§Þa kü thuËt sè 3-2010 15
1 2 3 4 5 60
100
200
300
400
500
600
700
800
C¸c ®êng ®¼ng lón
theo Schmertmann
= 0,25in(6,35mm)
= 0,50in(12,70mm)
= 0,75in(19,05mm)
= 1,00in(25,40mm)
= 1,25in(31,75mm)
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Terzaghi
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Meyerhof
T¶
i tr
äng P
(kN
)
ChiÒu réng mãng B (m)
L=0,3048m
D
Hình 4. Biểu đồ thiết kế đối với bài toán
móng băng theo phương pháp Coduto.
Móng BTCT được mô phỏng theo mô hình đàn
hồi tuyến tính với các thông số như sau:
E=2.107 kN/m
2, =23,6 kN/m
3, =0,15.
Để lập đường cong sức chịu tải, xét móng có
chiều rộng B = 0,6096; 0,9144; 1,2192; 1,5240;
1,8288; 2,1336; 2,4384; 2,7432 m (tương ứng
B=2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9ft) chịu tải trọng đúng tâm
(Hình 5) với giá trị tăng dần cho đến khi nền bị
phá hoại cắt tổng quát (Hình 6). Kết quả tính tải
trọng phá hoại cho phép, có xét hệ số an toàn
F=2,5 được thể hiện trong Bảng 6. Để xây dựng
các đường cong đẳng lún, chọn chiều rộng móng
B = 0,6096; 1,2192; 1,8288; 2,4384; 3,048;
3,6576; 4,2672; 4,8768m (tương ứng B=2, 4, 6, 8,
10, 12, 14, 16ft). Mỗi trường hợp chiều rộng nói
trên, lần lượt tính thử dần các giá trị P sao cho
=6,35; 12,7; 19,05; 25,4; 31,75mm. Kết quả
tính được thể hiện trong Bảng 7. Hình 7 thể hiện
biểu đồ thiết kế.
Hình 5. Mô hình móng băng chịu tải trọng
tác dụng đúng tâm.
Bảng 6. Quan hệ B~P trên đƣờng sức chịu tải
B(m) 0,6
0
0,9
1
1,2
1
1,5
2
1,8
2
2,1
3
2,4
3
2,7
4
P
(kN) 67
11
4
14
3
19
6
27
4
34
7
41
1
42
3
Bảng 7. Giá trị tải trọng tác dụng P (kN)
trên các đƣờng đẳng lún (móng có độ
cứng hữu hạn)
(mm)
B (m)
0,6 1,2 1,8 2,4 3,0 3,7 4,3 4,9
6,35 59 63 67 73 76 89 93 95
12,70 112
11
2
11
8
13
3
14
7
16
0
16
9 176
19,05 154
15
7
16
7
18
9
20
5
22
2
23
4 247
25,40 -
20
2
21
1
24
2
26
2
28
5
29
8 311
31,75 -
24
7
24
0
29
3
30
7
34
3
36
0 376
Nhìn chung có sự phù hợp giữa kết quả tính
tải trọng giới hạn cho phép theo phương pháp
phần tử hữu hạn và Meyerhof đối với đường
sức chịu tải. Tuy nhiên, có sự sai khác đáng kể
giữa kết quả tính theo phần tử hữu hạn và
công thức Terzaghi (Hình 7).
Kết quả khá phù hợp đối với các đường
đẳng lún tính bởi phương pháp phần tử hữu
hạn và Schmertmann cũng được thấy trong
Hình 7. Tuy nhiên, chênh lệch giá trị tải trọng
tính toán theo hai phương pháp tăng khi độ
lún tăng và có xu hướng giảm khi chiều rộng
móng tăng.
3.2 Xét móng có độ cứng tuyệt đối
Mô phỏng bài toán móng có độ cứng tuyệt
đối được thực hiện theo cách tương tự đối với
trường hợp móng có độ cứng hữu hạn, tuy
nhiên có thay đổi về điều kiện biên chuyển vị.
Đường cong sức chịu tải được xây dựng
bằng cách gán độ lún rất lớn cho móng, sau đó
§Þa kü thuËt sè 3-2010 16
phân tích biến dạng cho đến khi móng bị phá
hoại. Với mỗi phương án chiều rộng B khác
nhau nói trên, ta tính được giá trị tải trọng
phá hoại cho phép P tương ứng là 77,4;
100,4; 156,6; 210,2; 291,1; 338,8; 414,0;
541,1kN (kết quả đã xét hệ số an toàn F=2,5;
xem Hình 8).
Các đường cong đẳng lún được lập bằng
cách gán các giá trị độ lún cố định cho móng
= 6,35; 12,70; 19,05; 25,40; 31,75mm và
tính được các giá trị tải trọng P tương ứng với
mỗi trường hợp chiều rộng móng khác nhau:
P = Q - B.L.( D1. bt + D2. dat) (4)
trong đó Q là hợp lực theo phương thẳng
đứng tác dụng lên đáy móng, được tính bằng
diện tích biểu đồ áp suất đáy móng, dựa trên kết
quả phân tích ứng suất theo phần tử hữu hạn.
Kết quả tính toán được thể hiện trong Bảng
8 và Hình 8. Nhìn chung có sự phù hợp đối
với các đường sức chịu tải tính theo phần tử
hữu hạn và công thức Meyerhof, và đối với
các đường đẳng lún tính theo phần tử hữu hạn
và phương pháp Schmertmann. Tuy nhiên, đối
với đường sức chịu tải, có sai khác đáng kể
giữa kết quả tính theo phần tử hữu hạn và
công thức Terzaghi. Đối với các đường đẳng
lún, chênh lệch kết quả theo hai phương pháp
tăng khi độ lún của móng tăng.
Hình 6. Kết quả tính tải trọng phá hoại đối với
móng có chiều rộng B=3,048m (10ft).
3.3 So sánh các kết quả tính toán
So sánh kết quả tính tải trọng phá hoại
cho phép trên đường sức chịu tải theo
phương pháp phần tử hữu hạn và công thức
Meyerhof đối với móng có độ cứng hữu hạn
(Hình 7) và móng có độ cứng tuyệt đối
(Hình 8) cho thấy sai số trung bình đối với
móng có độ cứng hữu hạn lớn hơn sai số
trung bình đối với móng có độ cứng tuyệt
đối, tuy nhiên sai số của cả hai loại móng
nhỏ hơn 8%. Kết quả tính bởi phương pháp
phần tử hữu hạn và Meyerhof là phù hợp.
Tuy nhiên, sai số về kết quả tính bởi phân
tích phần tử hữu hạn và công thức Terzaghi
là đáng kể. Các công thức cổ điển tính sức
chịu tải chưa xét tính phân lớp của đất nền
nên còn có sai khác kết quả so với phân tích
phần tử hữu hạn tính sức chịu tải.
Các kết quả tính đường đẳng lún bởi
phương pháp phần tử hữu hạn và phương
pháp Schmertmann đối với hai loại móng
nói trên là phù hợp, sai số trung bình nhỏ
hơn 9%.
1 2 3 4 50
100
200
300
400
500
600
700
800
Plaxis
' = 0,25in(6,35mm)
' = 0,50in(12,70mm)
' = 0,75in(19,05mm)
' = 1,00in(25,40mm)
' = 1,25in(31,75mm)
Schmertmann
= 0,25in(6,35mm)
= 0,50in(12,70mm)
= 0,75in(19,05mm)
= 1,00in(25,40mm)
= 1,25in(31,75mm)
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Terzaghi
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Meyerhof
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Plaxis
T¶
i tr
äng P
(kN
)
ChiÒu réng mãng B (m)
D/=0,5
L=0,3048m
Mãng cøng h÷u h¹n
Hình 7. Biểu đồ thiết kế đối với móng băng có
độ cứng hữu hạn.
ChiÒu réng mãng B(m)
§Þa kü thuËt sè 3-2010 17
0 1 2 3 4 50
100
200
300
400
500
600
700
800
Plaxis
' = 0,25in(6,35mm)
' = 0,50in(12,70mm)
' = 0,75in(19,05mm)
' = 1,00in(25,40mm)
' = 1,25in(31,75mm)
Schmertmann
= 0,25in(6,35mm)
= 0,50in(12,70mm)
= 0,75in(19,05mm)
= 1,00in(25,40mm)
= 1,25in(31,75mm)
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Terzaghi
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Meyerhof
Søc chÞu t¶i tÝnh theo Plaxis
T¶i tr
äng P
(kN
)
ChiÒu réng mãng B (m)
Mãng cøng tuyÖt ®èi
L=0,3048m
D/=0,5
Hình 8. Biểu đồ thiết kế đối với móng băng có
độ cứng tuyệt đối.
Bảng 8. Giá trị tải trọng tác dụng P(kN) trên
các đƣờng đẳng lún (móng độ cứng tuyệt đối)
(mm)
B (m)
0,6 1,2 1,8 2,4 3,0 3,7 4,3 4,9
6,35 54 58 59 68 80 85 89 93
12,70 103 106 111 125 144 156 166 181
19,05 146 151 162 185 205 220 231 256
25,40 - 193 209 238 261 279 290 323
31,75 - 236 252 288 315 342 354 393
Nghiên cứu hiện tại tập trung đánh giá biểu
đồ thiết kế đối với móng băng. Để đánh giá biểu
đồ thiết kế cho các loại móng khác như móng
vuông, tham khảo báo cáo nghiên cứu khoa học
sinh viên (Phùng Đức Thắng và nnk, 2010).
IV. KẾT LUẬN
Phương pháp biểu đồ thiết kế (Coduto, 2001)
là một phương pháp mới trong tính toán thiết kế
móng nông chịu tải trọng đúng tâm, có tác dụng
giảm độ lún lệch và giảm giá thành xây dựng.
Đánh giá độ chính xác của phương pháp biểu
đồ thiết kế nói trên đã được thực hiện chi tiết
theo phương pháp phần tử hữu hạn, sử dụng
phần mềm Plaxis đối với một bài toán móng
băng chịu tải trọng đúng tâm. Dưới đây là kết
quả của nghiên cứu này:
Đối với các điểm trên đường sức chịu tải, sai
số trung bình về kết quả tính toán giá trị tải
trọng giới hạn cho phép theo công thức
Meyerhof và phương pháp phần tử hữu hạn nhỏ
hơn 8%; Tuy nhiên, chênh lệch kết quả tính
theo công thức Terzaghi và phương pháp phần
tử hữu hạn là đáng kể.
Đối với các điểm trên đường đẳng lún, sai số
trung bình về kết quả tính toán tải trọng theo
phương pháp Schmertmann và phương pháp
phần tử hữu hạn nhỏ hơn 9%. Nhìn chung chênh
lệch kết quả tính theo hai phương pháp này tăng
khi độ lún tăng; và chênh lệch nói trên có xu
hướng giảm khi chiều rộng móng tăng đối với
móng có độ cứng hữu hạn.
Nghiên cứu hiện tại chỉ xét bài toán phẳng,
để đánh giá tổng quát hơn, nghiên cứu tiếp theo
cần xét bài toán không gian chịu lực phức tạp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ xây dựng.Tiêu chuẩn thiết kế nền,
nhà và công trình TCXD-45-78. NXB Xây
dựng. 1979.
2. Phùng Đức Thắng, Nguyễn Đình Phúc,
Nguyễn Nhật Hải, Tô Thế Tùng, Vũ Nguyên
Hưng. Nghiên cứu giải pháp tổng hợp thiết kế
móng nông theo yêu cầu về cường độ và biến
dạng, Báo cáo đề tài NCKH sinh viên, Khoa
Công trình, Đại học Thu lợi. 2010.
3. Brinkgreve, R.B.J. PLAXIS, 2D-Version
8, Finite element code for soil and rock analysis,
User's manual. 2002.
4. Coduto, D.P. Foundation Design:
Principles and Practices, 2nd edition, Prentice-
Hall, Inc. 2001.
5. Das, B. M. Principles of foundation
engineering, 6th edition, Nelson. 2007.
Người phản biện: GS. NGUYỄN CÔNG MẪN
§Þa kü thuËt sè 3-2010 18
NGHI£N CøU øNG SUÊT, BIÕN D¹NG CñA §ËP §ÊT
D¦íI T¸C DôNG CñA T¶I TRäNG §éNG §ÊT
T¹ ThÞ Sö*
NguyÔn V¨n Anh
TrÞnh Minh Thô, mAI tHỊ nGỌC
Stress strain behaviour of earth fill dam subjected to earthquake load
Abstract: Earthquake is always a big disaster for the human lives and
structures. In recent years number of strong earthquakes have occurred and
caused death to a lot of people and properties lost in many countries in the
World. Numerous researches have been done on the effect of the earthquake on
the structures. However most of researchers are mainly focusing on the
structures under static earthquake load, especially on the earth fill dam. This
paper is to study the stress-strain of the earth fill dam under dynamic loading of
the earthquake. Therefore the results of this study can provide the better
understanding of the soil behaviors under earthquake loading. Two soil models
were used in this study such as: strain hardening and linear elastic models. The
result showed that the deformation calculated for hardening soil model is
greater than that for linear elastic soil model. The excess pore water pressure
calculated from the hardening soil model is more suitable for the practical site.
1. Đặt vấn đề
Cho tới nay, động đất luôn là một thảm họa đối
với con người và các công trình xây dựng. Với trình
độ khoa học - công nghệ hiện nay, con người chưa
có khả năng dự báo một cách chính xác động đất sẽ
xảy ra lúc nào, ở đâu và mạnh đến mức nào. Hoạt
động động đất có khuynh hướng ngày càng gây ra
nhiều thiệt hại nặng nề cho tính mạng, tâm lý con
người và của cải xã hội trên quy mô khu vực và toàn
cầu. Trong suốt chiều dài phát triển nhân loại, để bảo
vệ sinh mạng của mình và tài sản vật chất xã hội,
con người đã có rất nhiều nỗ lực trong việc nghiên
cứu phòng - chống động đất. Tuy đã có những bước
tiến rất ngoạn mục trong lĩnh vực này, nhưng con
người vẫn không ngăn được những thảm họa do
động đất gây ra. Các trận động đất xảy ra trong
những năm gần đây như: Tại Côbê - Nhật Bản
(17/01/1995) làm chết 5.502 người, Ấn Độ
(26/01/2001) làm chết 20.023 người, Đặc biệt tại
khu vực rãnh sâu Java nằm ở phía nam đảo Sumatra
(Indonesia) ngày 26 tháng 12 năm 2004 đã xẩy ra
trận động đất với độ lớn khoảng 9.1 đến 9.3 độ
Richter kèm theo sóng thần làm gần 300 nghìn
người của 12 quốc gia ở Châu Á và Châu Phi chết
và mất tích. Nhiều tháng sau đó, đến tháng 5 năm
2005, theo thống kê của cục Địa lý và Khí tượng
quốc gia Indonesia đã có 3183 cơn chấn động vẫn
tiếp tục xảy ra ở khu vực Aceh và đảo Sumatra,
trong đó có những trận động đất với độ lớn gần 8 độ
Richter … đã chứng minh cho điều đó.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa,
nên để đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất nông
nghiệp, sinh hoạt, phát điện và các ngành kinh tế
khác thì nhu cầu xây dựng hồ chứa nước là rất lớn.
Để tạo nên hồ chứa nước phải xây dựng những đập
giữ nước như đập đất, đập đá đổ, đập bêtông trọng
lực, đập bêtông cốt thép,… trong đó đập đất chiếm
một t lệ khá lớn. Do vậy, nghiên cứu ảnh hưởng
của động đất tới sự ổn định của đập là một vấn đề
cấp thiết, đặc biệt với con đập lớn.
* Trường Đại học Thủy lợi 175 Tây Sơn - Đống Đa - Hà Nội
DĐ: 0904187880
Email: [email protected]
§Þa kü thuËt sè 3-2010 19
2. Ảnh hƣởng của động đất đến đập đất
Khi động đất xảy ra sẽ xuất hiện các dịch
chuyển từ một điểm nhất định và lan truyền
nhanh chóng dưới dạng sóng địa chấn. Dưới ảnh
hưởng của sóng địa chấn có thể làm hư hại công
trình do hình thành các ứng xử động đất như: sự
thay đổi tính chất của khối đất đá, hóa mềm, hóa
lỏng, chuyển vị, tăng áp lực nước lỗ rỗng, giảm
cường độ chống cắt, trượt đất hay sự hình thành
sóng nước.
Đập đất là loại đập được xây dựng bằng các
loại đất trên nền đất hay đá. Do đó, khi xảy ra
động đất có thể bị hư hỏng dưới các dạng sau:
+ Nhất thời làm tăng các lực đứng và lực
ngang gây sụt lở, trượt mái.
+ Do sự rung lắc gây lún đập và nền.
+ Đối với đất bão hòa có thể gây hiện tượng
hóa dẻo hay hóa lỏng tạm thời, áp lực nước lỗ
rỗng tăng từ đó làm giảm hay mất khả năng
chống cắt của đất, do đó có thể gây trượt mái.
+ Chuyển động cắt gây ra đứt gẫy trên mặt
đập và ăn sâu vào trong thân đập.
+ Hình thành sóng nước trong hồ, tác động
vào mái đập gây mất ổn định.
Như vậy khi có động đất xảy ra, nó sẽ ảnh
hưởng xấu đến sự làm việc bình thường của
đập, có thể gây vỡ đập. Vì vậy khi khảo sát,
thiết kế cần quan tâm đến vấn đề dự báo và thiết
kế kháng chấn đập đất có thể làm việc an toàn
khi có động đất xảy ra, hạn chế những thiệt hại
do động đất gây ra đối với công trình và con
người.
3. Phân tích lựa chọn phƣơng pháp tính
toán đập đất khi chịu tác dụng của tải trọng
động đất
Tác dụng của động đất lên công trình xây
dựng được hiểu là sự chuyển động kéo theo của
công trình khi mặt đất chuyển động hỗn loạn
theo thời gian. Khi công trình chuyển động sẽ
xuất hiện các lực quán tính người ta gọi đó là
lực động đất. Khi có lực động đất tác dụng,
công trình sẽ xuất hiện các phản ứng động lực
(chuyển vị, vận tốc, gia tốc, ứng suất, biến
dạng…) gọi tắt là phản ứng.
Để dự đoán một cách chính xác phản ứng của
công trình dưới tác dụng của động đất là một
công việc rất phức tạp và có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến nó:
+ Độ lớn (cấp) [Magnitude] động đất, độ sâu
chấn tiêu (hypocenter hay focus), chấn tâm
[epicenter]
+ Đặc trưng chuyển động của nền khi xảy ra
động đất (gia tốc, chuyển vị nền).
+ Các tính chất biến dạng của vật liệu và nền
công trình dưới tác dụng của tải trọng động đất.
+ Tầm quan trọng của công trình.
+ Trình độ thi công công trình.
Cho đến nay phương pháp tính toán tải trọng
động đất có thể chia thành hai nhóm chính:
+ Phương pháp tính toán tĩnh
+ Phương pháp động lực
3.1. Phương pháp tính toán tĩnh
Nội dung của phương pháp là toàn bộ công
trình được xem là một vật thể rắn tuyệt đối cứng
đặt trên nền, lực động đất tác dụng lên công
trình có phương ngang, trị số bằng tích số khối
lượng công trình và gia tốc nền cực đại amax:
QKQg
aa
g
QmaF s ... (1)
Trong đó:
+ m, Q: khối lượng và trọng lượng của toàn
bộ công trình.
+ g: gia tốc trọng trường.
+ Ks = a/g:hệ số động đất được xác định trên
cơ sở thực nghiệm.
Như vậy nếu biết amax và trọng lượng công
trình ta có thể xác định được lực động đất tác
dụng lên công trình.
Ưu điểm của phương pháp này là tính toán
đơn giản và có thể áp dụng cho các công trình
có hình dạng bất kỳ. Nhược điểm của phương
pháp này là không xét đến biến dạng cũng như
các tính chất động học của công trình (tần số,
hình dạng dao động riêng,…) và coi gia tốc tại
mọi điểm trên công trình là như nhau và bằng
amax của nền.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 20
Hiện nay phương pháp này chỉ được dùng
cho các tính toán sơ bộ và đối với các công
trình không quan trọng, không thể dùng cho
các công trình loại đặc biệt.
3.2. Phương pháp động lực
Nội dung cơ bản của phương pháp động
lực trong bài toán kháng chấn là xem công
trình như một hệ cơ học đàn hồi có n hay vô
hạn bậc tự do bị di chuyển theo nền đất ug(t),
các tính chất cơ lý của công trình được biểu
diễn qua độ cứng K và hệ số cản C của từng
bộ phận công trình. Sau đó mô hình hóa kết
cấu các công trình chịu tác dụng động đất
bằng hệ phương trình vi phân toán học:
(t)u.E(t)u.Er[K]rCrM z
g
zx
g
x (2)
Trong đó:
+ [M], [C], [K]: các ma trận khối lượng,
cản và độ cứng.
+ :r,r,r các véc tơ gia tốc, vận tốc,
chuyển vị tương đối của công trình so với
nền.
+ {Ex},{E
z}: các ma trận cột khối lượng
tương ứng để xác định chuyển vị theo các
phương (x,z) của các nút.
+ :(t)u(t),u z
g
x
g các thành phần gia tốc nền
theo phương ngang và đứng.
4. Mô hình hóa bài toán
Đập được chọn để tính toán là đập đất
của hồ chứa nước Sông Dinh 3 thuộc huyện
Hàm Tân tỉnh Bình Thuận. Đập có kết cấu
thân đập thuộc dạng không đồng chất,
chống thấm bằng tường nghiêng, có thiết bị
thoát nước là lăng trụ đá. Đập đất Sông
Dinh 3 được tính với động đất cấp 7 theo
thang 12 cấp động đất và tính trong trường
hợp đập đang làm việc trong điều kiện bình
thường MNTL=MNDBT, hạ lưu là mực
nước thiết kế.
Trong bài báo này, đã dùng phần mềm
PLAXIS V8 để phân tích ứng suất, biến
dạng của đập đất dưới tác dụng của tải trọng
động đất.
Trong Plaxis 2D,có nêu ba bài toán về
động lực là phân tích móng máy trên nền đàn
hồi, bài toán đóng cọc và công trình chịu tải
trọng động đất. Nếu so sánh với QUAKE/W
trong bộ phần mềm GeoStudio 2004 của
GeoSlope International để phân tích bài toán
đập đất, thấy rằng QUAKE/W cã thÓ ®¸nh
gi¸ ®é ho¸ mÒm - ho¸ láng vµ gia tèc -
chuyÓn vÞ t¹i tõng ®iÓm trong khèi ®ắp theo
thêi gian. Khi tÝch hîp víi SLOPE/W, cã thÓ
®¸nh gi¸ hÖ sè an toµn theo thêi gian, khèng
chÕ ®iÒu kiÖn ph¸ ho¹i m¸i dèc tõ gia tèc vµ
®¸nh gi¸ biÕn d¹ng cuèi cïng của đập đất sau
mét trËn ®éng ®Êt.
Hiện nay, hai bộ phần mềm này có thể
xem như bao gồm tương đối đầy đủ những
bài toán Địa kỹ thuật thường gặp trong thực
tế, thân thiện với người dùng và được nhiều
nước trên thế giới ưa chuộng.
Trong bài báo này, tiến hành kiểm tính
biến dạng của một đập đất thực với các chỉ
tiêu đã cho theo hai mô hình đất: mô hình
biến dạng tuyến tính và mô hình đất tăng bền
để so sánh kết quả tính toán từ đó rút ra
những nhận xét cần thiết.
Lưới phần tử của đập đất được trình bày
trong hình 1 gồm 878 phần tử, trình diễn
như sau:
Hình 1. Lưới phần tử của bài toán
§Þa kü thuËt sè 3-2010 21
Để nghiên cứu chuyển vị, sự biến thiên của
áp lực nước lỗ rỗng trong quá trình tính toán
có xét tới tải trọng động đất, tiến hành kiểm
toán tại các điểm A, B, C, D, E như thể hiện
trong hình 2.
Các chỉ tiêu cơ lý dùng trong tính toán là các
giá trị đã được dùng trong thiết kế công trình
Sông Dinh 3. Giá trị tính toán dùng trong mô
hình được trình bày trong bảng 1.
Hình 2. Một số điểm tính toán các thông số đầu
vào trong mô hình tính
Bảng 1. Bảng chỉ tiêu cơ lý vật liệu dùng trong tính toán
TT Vật liệu
Hệ số thấm Dung trọng (kN/m3)
(Độ)
C
(kPa) cm/s m/ngày Khô Bão hòa
1 Khối 1 5*10-5
0,0432000 16,4 18,6 15 25
2 Khối 2 2*10-5
0,0172800 16,0 18,3 14 33
3 Đống đá 1*10-2
8,6400000 18,0 20,0 32 0
4 Lớp 5+6 5*10-4
0,4320000 17,8 19,4 16 14
5 Lớp 7+8 1*10-7
0,0000864 20,5 22,0 36 25
5. Kết quả tính toán
Kết quả tính toán chuyển vị tại điểm A theo
hai mô hình biến dạng tuyến tính và mô hình
tăng bền của đập đất thuộc công trình Sông
Dinh 3 trong quá trình động đất được trình bày
trong hình 3.
Hình 3. Biểu đồ chuyển vị tổng của điểm A
trong quá trình diễn ra động đấ.t
Phân tích kết quả tính toán từ hình 3 cho
thấy, khi tính theo mô hình biến dạng tuyến
tính, chuyển vị tổng lớn nhất của điểm xét có trị
sốU= 0,111m tại thời điểm t = 15,84s. Còn
với mô hình đất tăng bền, chuyển vị tổng lớn
nhất có trị sốU= 0,222m, tại thời điểm kết
thúc động đất.
Có sự chênh lớn về biến dạng tổng giữa hai
mô hình đất khác nhau, là vì với mô hình đàn
hồi tuyến tính các thông số mô đun biến dạng E
và hệ số Poisson của đất xem như không đổi
còn trong mô hình đất tăng bền các thông đó
thay đổi và tiếp cận hợp lý hơn theo quá trình
tính toán. Mặt khác mô hình đất tăng bền còn kể
đến những biến dạng nhỏ của đất dưới tác dụng
của tải trọng động.
Kết quả phân tích biến thiên áp lực nước lỗ
rỗng dư trong quá trình diễn ra động đất được
trình bày trên hình 4.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 22
Hình 4. Biến thiên áp lực nước lỗ rỗng dư của
điểm quan trắc trong quá trình diễn ra động đất
Biến thiên áp lực nước lỗ rỗng cũng có sự
sai khác giữa hai mô hình
+ Với mô hình biến dạng tuyến tính: áp lực
nước lỗ rỗng có dạng dao động điều hòa quanh
điểm ban đầu. Điều này không phù hợp với thực tế.
+ Với mô hình đất tăng bền: áp lực nước lỗ
rỗng có xu thế đi xuống. làm độ rỗng trong đất
tăng lên làm giảm cường độ chống cắt của đất,
làm đập mất ổn định.
Để đảm bảo công trình làm việc an toàn
dưới tác dụng của tải trọng động đất nên dùng
mô hình đất tăng bền để tính toán.
6. Kết luận
Phân tích ứng suất, biến dạng của đập đất
dưới tác dụng của tải trọng động đất theo
phương pháp động lực đánh giá đầy đủ hơn
các thông số ứng xử động đất. Do đó, phân
tích động đất theo phương pháp này phù hợp
với thực tế hơn.
Kết quả tính toán chuyển vị với mô hình
đất tăng bền cho kết quả lớn hơn mô hình đất
biến dạng tuyến tính. Biến thiên áp lực nước
lỗ rỗng dư với mô hình đất tăng bền phù hợp
với thực tế hơn.
Vì vậy trong tính toán, kiến nghị dùng
phương pháp phân tích động lực và dùng với
mô hình đất tăng bền để phân tích ứng suất,
biến dạng của đập đất dưới tác dụng của tải
trọng động đất, đảm bảo an toàn và nâng cao
chất lượng công trình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Xuân Bảo và NNK Phương
pháp phần tử hữu hạn và ứng dụng để tính
toán công trình thủy lợi, NXB Nông nghiệp
Hà Nội, 1983.
2. Bộ môn Thu công, Giáo trình thủy công
Tập 1, NXB Nông nghiệp.
3. Bộ môn Thu công, Giáo trình thủy công
Tập 2, NXB Nông nghiệp.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Quy phạm thiết kế đập đất kiểu đầm nén SDL
- 213 - 84.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Tiêu chuẩn thiết kế TCVN 4253-86: Nền các
công trình thủy công.
6. Bộ Thu Lợi, Quy trình thiết kế và thi
công các thiết bị tiêu nước trong đập đất ,
1976.
7. Nguyễn Lê Ninh, Động đất và thiết kế
công trình chịu động đất, NXB Xây dựng,
2007.
8. Nguyễn Bỉnh Thìn, Ảnh hưởng của tải
trọng động đất đến ổn định mái dốc đập vật
liệu địa phương, Luận án Tiến sĩ khoa học,
Trường Đại học Thủy Lợi Hà Nội, Hà Nội.
9. Thiết kế công trình chịu động đất
TCXDVN 375:2006, NXB Xây dựng.
Người phản biện: GS. NGUYỄN CÔNG MẪN
§Þa kü thuËt sè 3-2010 23
N¦íC KARST TRONG §¸ V¤I
Vµ §¸ CARBONAT ë VIÖT NAM
L£ HUY HOµNG*
Karst water existing in limestones and carbonate rocks in Vietnam
Abstract: Water sources existing in the limestones’ cracks/fissures are
abundant which are lísted top three after porous unconsolidated
sedimentary water of Cenozoic and porous basaltic water in Central High
Land (Tay Nguyen). The characteristics of diversity, complication,
geostratigraphic distribution and migration of karst water are the
determining factors for investigation, exploration and application of
rational karst water exploitation method to serve accommodation and
livings in the areas where carbonate rocks are largely deposited.
I. ĐỊA CHẤT THỦY VĂN NƢỚC
KARST
I.1. Địa tầng
Đá vôi và đá carbonat chiếm 1/3 diện tích
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phân bố rải rác vài
nơi ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Trên mặt
thường lộ ra nơi địa hình cao từ 5-10 đến 100
m và lớn hơn. Ở các vùng đồng bằng và duyên
hải, bị phủ kín bởi các thành tạo trẻ hoặc chìm
dưới nước. Đá có thành phần thạch học -
khoáng vật phức tạp, chủ yếu nguồn gốc biển,
tuổi khác nhau.
Xếp vào tuổi cổ nhất Neoproterozoi - Cambri
sớm là đá hoa dolomit, đá hoa tremolit bị biến
chất tướng phiến lục hệ tầng Đá Đinh (PR3 -
1)đđ ở Lào Cai, Sơn La.
Thuộc tuổi Paleozoi sớm là đá vôi bị hoa hóa
hay đá vôi silic màu đen, xám đen xen các lớp
mỏng đá phiến vôi hệ tầng Hà Giang (2hg) và
Chang Pung (3cp) ở Hà Giang, Lào Cai; hệ
tầng Hàm Rồng (3- O1)hr ở Thanh Hóa, Sơn
La, Lai Châu; hệ tầng Thần Sa (3-O1)ts và
Lutxia (O3lx) miền Đông Bắc; hệ tầng Bó Hiềng
(S3bh) Tây Bắc; hệ tầng Lèn Bục (PZ1lb) ở Tây
Nghệ An.
Thuộc Paleozoi muộn là đá vôi, đá vôi bị hoa
hóa, đá vôi dolomit chứa bitum màu xám, xám
đen xen đá phiến silic hoặc đá phiến thạch anh -
sericit hệ tầng Mia Lé (D1ml) khá phổ biến ở
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; Đại Thị (D1đt) ở
Tuyên Quang, Bắc Cạn; Sông Mua (D1sm) ở
Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình; Nậm Pia ở Sơn La,
Thanh Hóa; hệ tầng Phia Khao (D1pk) và Pia
Phương (D1pp) ở Tuyên Quang, Bắc Cạn, Hà
Giang, Cao Bằng; hệ tầng Nà Quản (D1-2 nq) và
Tràng Kênh hay Lỗ Sơn (D2tk) miền Đông Bắc;
hệ tầng Khao Lộc (D2-3 kl) ở Hà Giang và hệ
tầng Nậm Cắn (D2-3 nc) ở Bắc Trung Bộ. Các
thành tạo đá vôi phân lớp dày xen đá phiến silic
và sét vôi chiếm khối lượng lớn và phát triển
trên diện tích rộng, gồm có hệ tầng Hạ Lang
(D2hl) và Bản Cải hay Tốc Tát (D3-C1)bc thấy
khắp nơi ở Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái,
Hòa Bình, Hải Phòng, Hải Dương và Thanh
Hóa; hệ tầng Phong Nha (D3-C1)pn ở Quảng
Bình; hệ tầng Phong Sơn (D3-C1)ps ở Thừa
Thiên - Huế; hệ tầng Bắc Sơn hay Đá Mài (C-
P1)bs và Đồng Đăng (P2đđ) ở Bắc Bộ; hệ tầng
Hà Tiên (P1-2ht) ở Kiên Giang- Nam Bộ và hệ
tầng Khe Giữa (P2kg) ở Bắc Trung Bộ.
* Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Mỏ.
38 Bích Câu, Hà Nội
Tel. 043.7322342
§Þa kü thuËt sè 3-2010 24
Thuộc tuổi Mezozoi là đá vôi, đá vôi
dolomit hóa và sét vôi phân lớp mỏng hệ tầng
Hồng Ngài (T1hn) ở Hà Giang, Cao Bằng; đá
vôi phân lớp dày, dạng khối tuối anisi thuộc
hệ tầng Đồng Giao (T2ađg) miền Tây Bắc,
phân bố một dải từ Lai Châu qua Sơn La,
Hòa Bình, Ninh Bình đến Bỉm Sơn - Thanh
Hóa; đá vôi xen sét vôi hệ tầng Hoàng Mai
(T2-3hm) ở Thanh Hóa, Nghệ An. Và cuối
cùng, là đá vôi xen các lớp cát kết vôi, sét
than hệ tầng Vân Lãng (T3vl) ở Thái Nguyên,
Bắc Giang.
Như vậy, đá vôi và đá carbonat ở Việt Nam
được thành tạo rất sớm, từ Neoproterozoi -
Cambri sớm, phát triển mạnh nhất vào thời kỳ
Carbon - Permi, đến Triat muộn. Khối lượng
và chất lượng đá vôi tăng theo thời gian, từ cổ
đến trẻ.
I.2. Sự hình thành karst
Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, các
hình thái karst phát triển đa đạng và phức
tạp. Đặc trưng cho đồng bằng Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ và các vùng kế cận rất phổ biến
dạng karst tàn dư. Đó là những khối đá vôi
lớn nhỏ bị karst hóa, cao từ 25-30 đến 100m
và lớn hơn mà J.Glazec gọi là những mogot.
Nền mogot là một poli điển hình, bị phủ kín
bởi các thành tạo trẻ. Các mogot thường có
đỉnh tròn với bề mặt lởm chởm tai mèo
(carư). Sườn dốc đứng. Trên vách có nhiều
hệ thống hang nằm ngang ở độ cao khác
nhau, cả những ngấn sóng vỗ - vết tích của
những đợt biển tiến vào đồng bằng. Nhiều
hang h p chạy dài theo mặt lớp cùng với hệ
thống hang động nằm nghiêng và giếng đứng
nơi giao cắt các đới phá hủy kiến tạo.
Vịnh Hạ Long là một poli chìm sâu dưới
biển. Các núi đảo nhấp nhô trên mặt nước là
những tàn dư karst. Có vô số hang động ngầm
và eo hẽm nối liền với các trũng sâu bị ngập
nước. Sóng mài mòn vách đá, khoét sâu một
vệt nằm ngang cao hơn ngấn nước, tạo nên
những chùm mogot trụ trên một cột chơi vơi
giữa biển, đ p kỳ diệu và huyền bí! Tương tự,
ở góc đông nam đồng bằng, từ Mỹ Đức qua
Phủ Lý đến Ninh Bình, là miền đất thấp,
quanh năm ngập nước. Các tàn dư karst nhô
cao trên mặt mang dáng dấp một “vịnh Hạ
Long trên cạn”.
Vùng Đồng Giao - Bỉm Sơn là thế giới
phễu karst với mật độ dày đặc, trung bình 30
phễu/km2. Diện tích mặt phễu từ vài trăm đến
hàng nghìn m2. Đáy rộng 40-50m
2. Sâu 60-
200m. Cuống phễu ăn sâu vào lòng đất. Trên
đáy tích tụ fluvi dăm vụn, đá tảng, vật chất sét
và vôi. Ngược lên miền Tây Bắc, từ Mộc
Châu qua Sơn La đến Lai Châu, là những cao
nguyên karst rộng mênh mông. Ở Bắc Cạn,
Cao Bằng là những thung lũng sâu chạy dài tít
tắp xen các dãy núi cao trùng điệp, được che
phủ bởi thảm rừng xanh nhiệt đới. Còn vùng
Lạng Sơn phổ biến các lòng chảo karst tựa
như những đồng bằng bóc mòn với những tàn
dư dạng núi sót, răng, cột và tảng đá đồ sộ nhô
cao trên mặt.
Karst là một hiện tượng địa chất tự nhiên,
thường ban tặng cho con người những tặng
phẩm bất ngờ. Đó là những danh lam thắng
cảnh đ p. Vịnh Hạ Long với hang Thiên Cung
và Trinh Nữ là cảnh quan hiếm thấy. Động
Phong Nha nổi tiếng vì có hang Nước Trong,
Nước Cạn vơi đầy. Những viên ngọc đá lung
linh tỏa sáng. Nhũ đá hình đầu trâu, đầu ngựa,
hổ chầu, voi phục, sư tử vuốt râu. Rất đỗi lạ
lùng! Rồi đến chùa Hương, chùa Thầy cũng
lẫy lừng danh tiếng vì có hang Lên Trời, hang
xuống Địa Ngục. Động Tam Thanh với nàng
Tô Thị ở Lạng Sơn, động Hoa Sơn và Địch
Lộng ở Ninh Bình, động Từ Thức với núi
Vọng Phu ở Thanh Hóa trở thành truyện cổ
tích. Hang Pó Pia Nầy ở Cao Bằng là huyền
thoại tình yêu quê hương. Thế giới hang động
còn đi sâu vào lịch sử dân tộc. Đó là các nền
văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Hạ Long, Đa
Bút, gắn với các di chỉ khảo cổ hang động
thuộc Đá Giữa và Đá Mới của người Việt.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 25
Hang Pác Bó là nơi cư trú của Bác Hồ thời kỳ
hoạt động cách mạng, v.v...
Đá carbonat, trong đó có đá vôi, là nguồn
nguyên liệu dồi dào cho công nghiệp sản xuất
ximăng. Nước ngầm trong khe nứt - karst là
tài nguyên quý đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, là sự sống của các
cộng đồng người dân tộc ở vùng cao, vùng sâu
và xa nơi biên giới.
I.3. Các đới thủy động nƣớc karst
Chia ra 4 đới sau:
Đới 1- Đới thông khí. Chủ yếu phát triển
các hình thái karst mặt: carư, rãnh hòa tan,
phễu, hang hốc và giếng sụt. Nước mưa rơi
trên mặt, thấm xuống theo phương thẳng
đứng. Đất đá không chứa nước.
Đới 2 - Đới dao động mực nước. Bao gồm
hai hệ thống hang: đứng và ngang. Về mùa
khô, nước vận động theo phương thẳng đứng.
Đến mùa mưa, do mực nước ngầm dâng cao,
vận động theo phương nằm ngang. Đặc trưng
cho đới này là mực nước dao động mạnh,
không ổn định. Chiều sâu mực nước tĩnh phụ
thuộc vào độ cao địa hình, từ 3-5 đến 20m, ở
miền núi cao có thể đến 70-80m và lớn hơn.
Biên độ dao động từ 5-10 đến 30-50m. Năm
1969, ở Sơn La mực nước đo trong một lỗ
khoan lúc đầu sâu 11m, sau 1 năm tụt xuống
60m và chỉ 1 tháng sau đó lại dâng cao hơn
30m. Lưu lượng các mạch nước biến đổi thất
thường, từ 0,01-0,1 đến 200-250, có nơi đến
500l/s. Hệ số biến đổi lưu lượng từ 2-3 đến
600 và lớn hơn.
Đới 3 - Đới nước vận động không ổn định.
Chủ yếu phát triển hệ thống hang động nằm
ngang. Hiếm thấy giếng đứng. Nước luôn ở
trạng thái vận động. Trên mặt thường xuất
hiện các mạch nước và dòng ngầm. Nhiều
sông suối bắt nguồn từ hang động karst như
suối Lenin, sông Táp Ná và Nậm Ngu ở Cao
Bằng; Hăng Mon - Mộc Châu; suối Chín
Giếng ở Bỉm Sơn - Thanh Hóa; suối Na Ca,
sông Nậm Tôn ở Quỳ Hợp - Nghệ An. Có
những triền sông lớn, lưu lượng đến 15-
20m3/s. Vào mùa mưa, mực nước dâng cao
10-20m, gây ngập lũ cả một vùng rộng lớn.
Nhiều hồ nước treo trên núi đá, sâu 5-7m,
dung tích 0,5 -1,5 tr.m3 như hồ Trứng, hồ Lạt
Sơn ở Hà Nam, hồ Thang Heng và Ngườm
Ngao ở Cao Bằng. Đâu đó những dòng chảy
lượn lờ trên mặt, bỗng dưng mất hút vào lòng
đất thành sông ngầm dài mấy kilomet, rồi lại
xuất hiện trên mặt như ở Trà Lĩnh, Quảng
Hòa, Nậm Kép, Tốc Tát - Cao Bằng, Quỳnh
Nhai - Sơn La, Lai Châu, Thanh Thủy - Phú
Thọ, Hòa Bình và Ninh Bình, v.v...
Đới 4 - Đới nước vận động ổn định. Phát
triển chủ yếu các hang động ngầm dạng bình
thông nhau. Đới nằm sâu hơn gốc xâm thực
khu vực. Nước đầy ắp trong hang, vận động
ổn định. Đới chứa nước này thường đến độ
sâu -100m, có nơi đến -300m ở Thạch Khê-
Hà Tĩnh, thậm chí đến -400m ở Cẩm Phả -
Quảng Ninh.
Trên thực tế, rất khó xác định ranh giới
giữa các đới và chiều dày của chúng. Có thể
lấy quy ước: đới 1 là đới thông khí, đới 2-
đới mạch lộ, đến gốc xâm thực địa phương
(đới trao đổi nước rất mạnh), đới 3 đến gốc
xâm thực khu vực ±0m (trao đổi nước mạnh)
và đới 4 dưới cùng, đến độ sâu -500m (trao
đổi nước khó khăn). Trong đó, chiều dày đới
2 phụ thuộc vào địa hình và độ cao gốc xâm
thực địa phương. Ở Bỉm Sơn - Thanh Hóa từ
+20 đến +65m, dày 45m; ở Bắc Cạn - Tuyên
Quang từ +600 đến +850m, dày 250m; ở
Táp Ná - Cao Bằng từ +400 đến +1200m,
dày 800m.
I.4. Độ giàu nƣớc và tính thấm
Đặc trưng cho đá carbonat bị nứt nẻ-karst
hóa là rất không đồng đều về độ giàu nước và
tính thấm. Độ giàu nước được đánh giá theo t
lưu lượng lỗ khoan bơm nước thí nghiệm hoặc
theo lưu lượng tự chảy của mạch nước xuất lộ
trên mặt.
Tuy nhiên, đại lượng t lưu lượng lỗ khoan
§Þa kü thuËt sè 3-2010 26
thay đổi trong phạm vi rộng, từ 0,003-0,005 ở
Tốc Tát và Táp Ná - Cao Bằng đến 15-20l/sm
và lớn hơn ở Bỉm Sơn - Thanh Hóa, Tam Điệp
và Rịa - Ninh Bình, Đồng Bẩm - Thái
Nguyên. Đối với cung cấp nước, t lưu lượng
trung bình của một hệ tầng hay mỏ (khu mỏ)
là giá trị bình quân của các lỗ khoan có t lưu
lượng lớn hơn 0,1l/sm. Còn những lỗ khoan
nhỏ hơn ngưỡng này thực tế coi như không có
nước, dùng để đánh giá hiệu quả thăm dò. Hệ
số dẫn nước từ 10-20 đến 2500, thường vào
khoảng 300-400m2/ngày (bảng 1).
Bảng 1. Độ giàu nƣớc và hệ số dẫn nƣớc trung bình của đá carbonat
Hệ tầ ng Khu vự c
Số
LK
bơ m
qtb,
l/sm
Kmtb,
m2/ngày pH
M,
g/l Kiể u nư ớ c
Vân Lãng T3vl Thái Nguyên 18 4,96
3 700 7,4 0,25 HCO3-Ca
Đồ ng Giao T2ađg Ninh Bình -
Thanh Hóa 48
5,53
0 800 7,6 0,34 HCO3-Ca
Đồ ng Đăng P2đđ Cao Bằ ng - Lạ ng
Sơ n 8
2,02
4 400 7,4 0,32 HCO3-CaNa
Bắ c Sơ n (C-
P1)bs
Thái Nguyên -
Cao Bằ ng 36
4,74
4 650 8,4 0,30 HCO3-Ca
Phong Sơ n (D3-
C1)ps Thừ a Thiên - Huế 1
0,16
5 45 6,2 0,09 HCO3Cl-Ca
Tràng Kênh D2tk Hả i Dư ơ ng -
Quả ng Ninh 32
1,15
0 250 6,5 0,35 HCO3Cl-CaNa
Nà Quả n D1-2nq Cao Bằ ng 3 3,12
0 500 7,5 0,40 HCO3-Ca
Đạ i Thị D1đt Tuyên Quang -
Cao Bằ ng 5
0,63
5 150 7,4 0,35 HCO3-Ca
Pia Phư ơ ng
D1pp Tuyên Quang 17
2,29
3 450 7,2 0,25 HCO3-Ca
Thạ ch Khê D1 Hà Tĩnh 35 1,36
9 200 8,0 1,2 Cl-Na
Lèn Bụ c PZ1 Nghệ An 15 1,87
4 350 7,1 0,43 HCO3-CaMg
Hà Giang 2hg Hà Giang 5 1,28
8 300 7,2 0,40 HCO3-CaNa
Đá Đinh (PR3-1)
đđ Lào Cai 5
0,43
5 120 6,8 0,49 HCO3-CaMg
Các hệ tầng Đồng Giao, Bắc Sơn và Vân
Lãng giàu nước nhất, có t lưu lượng lớn hơn
4l/sm. Rồi đến hệ tầng Nà Quản, Pia Phương và
Đồng Đăng, t lưu lượng 2-3l/sm. Hệ tầng Đại
Thị, Đá Đinh, Phong Sơn thuộc loại nghèo
nước, t lưu lượng nhỏ hơn 1l/sm. Các hệ tầng
§Þa kü thuËt sè 3-2010 27
khác có độ giàu nước trung bình, từ 1 đến 2l/sm.
Độ giàu nước và tính thấm phụ thuộc vào kiểu
thành phần thạch học, mức độ nứt nẻ-karst hóa,
mức độ biến chất và cấu trúc địa chất khu vực,
tăng theo tuổi địa tầng, từ cổ đến trẻ.
Lưu lượng mạch nước thường biến đổi phức
tạp, tùy thuộc vào địa hình. Ở Hà Nam, Ninh
Bình, Thanh Hóa các mạch nước thường xuất
hiện ở độ cao 15-65m. Ở Lai Châu, Sơn La,
Tuyên Quang, Bắc Cạn 600-850m. Ở Cao Bằng,
Hà Giang 400-1200m. Lưu lượng các mạch biến
đổi mạnh và giảm dần theo độ cao. Những mạch
ổn định có hệ số biến đổi lưu lượng (K<10) nằm
thấp nhất, xấp xỉ độ cao gốc xâm thực. Càng lên
cao, lưu lượng có xu hướng giảm, mất ổn định
dần theo quy luật: mạch tương đối ổn định
(K=10-50), không ổn định (K=50-100) và rất
không ổn định (K>100). Bảng 2 là số liệu quan
trắc lưu lượng mạch nước karst hệ tầng Pia
Phương vùng Chợ Điền - Bắc Cạn.
Bảng 2. Lƣu lƣợng mạch nƣớc karst
(Độ cao gốc xâm thực 600m)
Mạch
nước
Độ cao
Z, m
Lưu lượng Q, l/s Hệ số
K Ghi chú
Max Min Tr. bình
M.64 602,9 87,86 4,68 12,45 19 Giàu, tương đối ổn định
M.22 702,69 52,96 2,41 6,26 22 Trung bình, tương đối ổn định
M. 38 756,5 25,96 0,64 1,81 40 Nghèo, tương đối ổn định
M.66 763,18 190,17 2,25 4,74 84 Nghèo, không ổn định
M.40 786,5 13,22 0,4 1,28 33 Nghèo, tương đối ổn định
M.9 788,25 141,68 1,01 1,12 140 Nghèo, rất không ổn định
M.30 819,36 2,68 0,01 0,6 268 Rất nghèo, rất không ổn định
M.8 819,78 5,07 0,01 0,5 507 Rất nghèo, rất không ổn định
M.6 842,27 30,01 0,05 1,23 600 Nghèo, rất không ổn định
I.5. Đặc điểm thủy địa hóa. Nước karst
trong đá vôi và đá carbonat có chất lượng tốt,
nhất là ở miền núi cao, đáp ứng thỏa mãn yêu
cầu cho ăn uống - sinh hoạt. Độ pH từ 6,2-6,5
đến 8,4. Độ khoáng hóa thường không vượt quá
0,5g/l. Kiểu thành phần hóa học chủ yếu
bicarbonat calci hay bicarbonat calci-magne. Ở
các vùng đồng bằng thấp ven biển nước bị mặn.
Độ pH 6,5-8,5. Độ khoáng hóa từ 1,2-1,5
(Thạch Khê, Đông Triều - Uông Bí) đến 3g/l và
lớn hơn (Hồng Gai - Cẩm Phả). Kiểu nước
chuyển sang clorua natri. Một số nơi phát hiện
tính phân đới thủy hóa theo chiều sâu. Ở vùng
Đinh Rịa - Ninh Bình và Phủ Lý - Hà Nam,
nước nhạt có độ khoáng hóa 0,35-0,92g/l đến độ
sâu 40-50m, tăng lên 1,5-3g/l ở độ sâu 70-80m
và 6,5-8,5g/l ở độ sâu 100-120m.
II. TRỮ LƢỢNG VÀ TÀI NGUYÊN
Tính đến năm 1995, có 17 mỏ (khu mỏ) được
tìm kiếm - thăm dò. Trên diện tích 1935 km2 đã
khoan 428 lỗ khoan với tổng số 35448m. Kết
quả thu được số trữ lượng 187 ngàn m3/ngày
cấp 121 (cấp A+B cũ) và 129 ngàn m3/ngày cấp
122 (cấp C1) và số tài nguyên 73 ngàn m3/ngày
cấp 332 (cấp C2) và 1785 ngàn cấp 333 (cấp P),
tổng hợp trong bảng 3.
Ngoài ra, trong những năm 1995-2005, đã
tiến hành điều tra nguồn nước, chủ yếu nước
karst, ở 29 vùng thuộc 13 tỉnh miền núi và hải
đảo miền Bắc. Trên diện tích 500km2 đã khoan
hơn 100 lỗ với gần 7000m, thu được số tài
nguyên 50 ngàn m3/ngày cấp 332. Trong đó, có
6500m3/ngày được huy động khai thác cung cấp
nước đô thị.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 28
Bảng 3. Kết quả tìm kiếm - thăm dò nƣớc karst
N0 Mỏ (khu mỏ ) Đị a
tầ ng Năm
Diệ
n
tích
,
km2
Số
LK
Số mét
khoan,
m
Cấ p trữ
lư ợ ng,
103m3/ngày
Cấ p tài
nguyên,
103m3/ngày
121 122 332 333
1 Đồ ng Bẩ m-Thái
Nguyên T3vl 1977 85 47 2638
15,60
3
(C-
P1)bs
23,84
8 257
2 Đồ ng Hỷ -Thái
Nguyên T3vl 1981 80 30 2437 5,74
(C-
P1)bs 3,665
3 Hoàng Mai-Thanh
Hóa T2-3hm 1985 135 14 1263,7 2,95 9,35
4 Bỉ m Sơ n-Thanh
Hóa T2ađg 1975 56 24 1647,7 40,38 159
5 Rị a-Ninh Bình T2ađg 1979 135 71 7910,2 44,69
1 61,9 265
6 Tam Điệ p-Ninh
Bình T2ađg 1983 98 23 1839,9 9,69 41,728 60,16
7 Kiệ n Khê- Phủ Lý T2ađg 1982 35 4 340 5,65 1,98
8 Xuân Mai-Hòa Bình T2ađg 1984 458 23 2244,8 28,3 60
9 Thị xã Lạ ng Sơ n P2đđ 1987 35 12 570,4 6,19 2,627 17,28
10 Na Sầ m-Lạ ng Sơ n P2đđ 1986 10 3 330 0,38 6,2
11 Đồ ng Bành-Lạ ng
Sơ n P2đđ 1986 6 3 284 2,12 8,8
12 Bắ c Sơ n - Thái
Nguyên
(C-
P1)bs 1987 210 4 686 4,97 286,8
13 Tĩnh Túc-Cao Bằ ng (C-
P1)bs 1973 10 5 324 0,25
14 Trạ i Cau-Thái
Nguyên
(C-
P1)bs 1980 46 39 3134,8
16,53
6 7,867 38
15 La Hiên-Thái
Nguyên D1đt 1983 367 63 5119 33,92 570
16 Thị xã Tuyên
Quang D1pp 1992 120 42 2678,7 9,684 11,67 40
17 Thị xã Hà Giang 2hg 1983 49 21 2000 5,561 1,4 87,76
Cộ ng 1935 428 35448 187,2
38
129,17
2
72,89
5
1785,
35
§Þa kü thuËt sè 3-2010 29
Nhìn chung, nguồn nước karst khá dồi dào
nhưng phân bố không đều. Kinh nghiệm thực tế
cho hay rằng công tác tìm kiếm - thăm dò phức
tạp, tốn kém. Đến 20-30% số lỗ khoan không có
nước. Độ rủi ro lớn. Hiệu quả thấp. Điều kiện
khai thác khó khăn.
III. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC
SỬ DỤNG
III.1. Nƣớc mặt. Ở các vùng đá vôi và đá
carbonat, nước mặt là nguồn cung cấp chính cho
nông nghiệp, chiếm hơn 90% nhu cầu về nước
sử dụng. Tuy nhiên, sông suối thường ngắn và
nhỏ. Lưu lượng dòng chảy không ổn định. Hiện
có 10 nhà máy nước đang khai thác 47,2ngàn
m3/ngày cung cấp ăn uống-sinh hoạt cho 340
ngàn dân ở các đô thị lớn (bảng 4).
Bảng 4. Lƣu lƣợng khai thác nƣớc mặt
N0
Nhà máy
nƣớc
Nguồn
nƣớc
Năm
kh.thác
Công suất,
m3/ngày
Số dân đƣợc cấp,
103ngƣời
1 Ninh Bình s. Đáy 1963 10000 60
2 Phủ Lý s. Đáy 1964 10000 30
3 Hòa Bình s.Đà 1978 2400 32
4 Sơn La s.Nậm La 1939 3000 45
5 Lai Châu suối 1972 3000 15
6 Yên Bái ngòi Lâu 1962 10000 70
7 Lào Cai s.Nậm Thi 1954 3000 30
8 Lạng Sơn s.Kỳ Cùng 1939 2000 20
9 Cao Bằng s.Hiến 1976 2000 28
10 Hà Giang s.Lô 1970 1800 10
Cộng 47200 340
III.2. Nƣớc ngầm. Ở các vùng thấp và thung
lũng sông, nước ngầm được khai thác với quy
mô vừa và nhỏ. Theo số liệu thống kê chưa đầy
đủ, có 15 nhà máy (trạm) cấp nước với 57 giếng
khoan khai thác tập trung 66 ngàn m3/ngày và
54 giếng khoan lẻ tẻ khai thác 48 ngàn m3/ngày,
chủ yếu cấp nước cho các thị trấn (Ttr), thị xã
(Tx) và nông trường quốc doanh (Ntr). Tổng
cộng 111 giếng khoan khai thác với tổng lưu
lượng 115 ngàn m3/ngày, lấy tròn số (bảng 5).
Bảng 5. Lƣu lƣợng khai thác nƣớc ngầm
Khai thác tậ p trung Khai thác lẻ tẻ
N0 Nhà máy
nư ớ c
Đị a
tầ ng
Năm
kh.th
ác
Số
LK
Qkt,
m3/
ngày
N0 Đị a điể m Đị a
tầ ng
Năm
kh.th
ác
Số
LK
Qkt,
m3/
ngày
1 Bỉ m Sơ n T2ađg 1978 5 21100 1 Tx.Tam Điệ p-
Ninh Bình T2ađg 1962 18 18900
2 Tam Điệ p T2ađg 1986 4 2400 2 Ntr. Đồ ng
Giao-N.Bình T2ađg 1962 2 1900
3 Xuân Mai T2ađg 1976 2 1800 3 Vư ờ n Cúc
Phư ơ ng T2ađg 1970 2 1920
4 Mộ c Châu T2ađg 1964 4 5000 4 Ntr. Vụ Bả n- T2ađg 1972 1 720
§Þa kü thuËt sè 3-2010 30
Nam Đị nh
5 Sơ n La T2ađg 1998 3 3800 5 Ntr. Chi Lê-
Hòa Bình T2ađg 1974 1 720
6 Thái Nguyên (C-
P1)bs 1963 8 10000 6
Ntr.Cao Phong-
H.Bình T2ađg 1974 1 720
7 Tuyên Quang D1pp 1962 4 3200 7 Ntr. Tân Trào-
T.Quang D1đt 1964 3 1800
8 Cao Bằ ng (C-
P1)bs 1990 2 2400 8
Ntr.Tô Hiệ u-
Sơ n La D1pp 1966 2 1000
9 Trùng Khánh D1-2nq 1995 2 2000 9 Ttr.Na Sầ m-
Lạ ng Sơ n P2đđ 1984 1 720
10 Quả ng Hòa D1-2nq 1993 2 1000 10 Ntr.Hà Trung-
Th.Hóa T2ađg 1962 2 2030
11 Hà Giang 2hg 1981 4 3600 11 Ntr.Lam Sơ n-
Thanh Hóa D1pp 1964 2 2600
12 Lạ ng Sơ n P2đđ 1972 4 4000 12 Ntr.Nghĩa Đàn-
Nghệ An T2-3hm 1963 10 7920
13 Đồ ng Đăng P2đđ 1990 2 2400 13 Ntr.Quỳ Hợ p-
Nghệ An PZ1lb 1962 6 3550
14 Đồ ng Bành P2đđ 1989 2 2000 14 Tx.Kiên Giang P1-2ht 1985 3 3720
15 Hà Tiên P1-2ht 1985 7 1685
Cộ ng 57 66385 Cộ ng 54 48220
Trên các vùng núi cao, vùng sâu và xa, điều
kiện khai thác hết sức khó khăn. Nạn thiếu nước
rất nghiêm trọng, nhất là về mùa khô. Ở Lục Khu
- Cao Bằng, hơn 3000 hộ với 17,5 ngàn dân sống
trong tình trạng khan hiếm nước. Dân các bản
Lũng Giềng, Lũng Mũm, Lũng Hóng phải lấy
nước tận Lũng Nặm, cách xa 7-10km. Dân các
xã Thượng Thôn và Nội Thôn ngày hai lần lận
đận gùi nước từ Lũng Láy, xa 5-7km. Muốn tắm
giặt phải kết hợp đi chợ phiên Nà Giang, cách xa
15-20km. Công ty Cấp nước Cao Bằng hằng
ngày phải chở nước bằng xe t c cấp 15l/người,
rải rác suốt chặng đường dài 20km, từ Tổng Cọt
đến Nậm Nhũng. Dân địa phương và bộ đội biên
phòng ở Lồ Côn Chin và Tả Lùng (Lào Cai)
hứng từng giọt nước chảy ra từ khe đá mỗi ngày
được 20l, đủ nước ăn. Nước lấy về đem vo gạo,
sau dùng rửa rau rồi mới rửa bát và cuối cùng,
dùng tưới cây. Tắm giặt mỗi tuần một lần, đi xa
6km. Còn ở cao nguyên Lai Châu, Mèo Vạc và
Đồng Văn đi gánh nước suối về ăn, xa mấy
kilomet. Nhiều gia đình phải mua nước giá cao.
Nước quý như vàng! Cả nước mặt và nước ngầm
đều được tận dụng khai thác triệt để. Đắp đập tạo hồ
chứa. Làm phai tự chảy. Lắp đặt máy bơm lấy nước
từ các giếng và hang sâu. Gia cố khai thác mạch lộ.
Đào ao, xây bể chứa lót vải nhựa chống thấm để tích
nước từ nguồn mạch. Nhà nhà đúc chum bằng bột
đá với ximăng cốt thép lưu trữ nước mưa. Nhiều
mạch nước nhỏ ở khắp nơi được sử dụng như nguồn
thủy năng chạy máy phát điện dùng để thắp sáng,
chiếu phim công cộng, chạy đài radio và tivi, phục
vụ nâng cao đời sống văn hóa cho các gia đình
người dân tộc vùng cao.
KẾT LUẬN
1. Đá vôi và đá carbonat phổ biến ở Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ. Các hình thái karst phát triển
đa dạng, phức tạp. Mức độ karst hóa liên quan
với độ giàu nước trong đá có xu hướng tăng
theo tuổi thành tạo địa tầng, từ cổ đến trẻ.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 31
2. Tài nguyên nước karst khá dồi dào nhưng
phân bố không đều. Ở các vùng ven rìa đồng
bằng Bắc Bộ và ven biển nước thường bị mặn,
không có giá trị cung cấp cho ăn uống - sinh
hoạt. Nước nhạt có trữ lượng lớn chủ yếu tập
trung trong đới thủy động thứ ba, giới hạn từ độ
cao gốc xâm thực địa phương đến gốc xâm thực
khu vực, có thể cả phần trên của đới thứ tư nằm
dưới gốc xâm thực khu vực ±0m. Còn đới 2, độ
giàu nước thất thường, không ổn định.
3. Ở các vùng đồi núi thấp và thung lũng
sông, nơi có địa hình cao không quá 250-400m,
có thể khai thác tập trung với quy mô vừa và
nhỏ bằng các giếng khoan sâu 100-120m, kết
hợp khai thác các mạch nước ổn định có hệ số
biến đổi lưu lượng nhỏ hơn 10.
Ở các vùng núi cao 400-600m, chủ yếu khai
thác nhỏ bằng mạch lộ với điều kiện phải quan
trắc động thái ít nhất 3 năm, kết hợp với khai
thác nước mặt. Rất hạn chế khoan giếng.
Ở các vùng sâu và xa, địa hình cao từ 600m
trở lên, chỉ có thể khai thác nhỏ các mạch nước
bằng cách tạo hồ chứa, làm phai, đào ao, xây bể
chứa công cộng và đúc bể tích nước mưa.
4. Vì nguồn nước karst thường rất nhạy cảm
với nước mặt và nước mưa thấm từ trên mặt cho
nên nhất thiết phải thiết lập các đới bảo vệ vệ
sinh công trình lấy nước, tránh gây ô nhiễm
nguồn nước sử dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Hoàng. Báo cáo tổng kết Đề Tài
KT01-14. Đánh giá tổng hợp hiện trạng khai
thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản, xây
dựng căn cứ khoa học phục vụ chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội. Phần V. Nước dưới đất và
Nước khoáng. Bộ KHCN-MT, 1996.
2. Lê Huy Hoàng. Dự án “Điều tra, đánh giá
sử dụng tài nguyên nước phục vụ phát triển kinh
tế-xã hội và bảo vệ môi trường tỉnh Cao Bằng”.
Cty INCODEMIC, 2003.
3. Sách tra cứu các phân vị Địa chất Việt
Nam. Cục ĐC và KS, 2000.
Người phản biện: PGS.TS. PHẠM QÚY NHÂN
§Þa kü thuËt sè 3-2010 32
NGHI£N CøU §¸NH GI¸ KH¶ N¡NG
MÊT æN §ÞNH THÊM NÒN §£ T¢N C¦¥NG - VÜNH PHóC
NguyÔn Mai Chi*
Ph¹m §øc HËu**
TrÇn ThÕ ViÖt*
Researches and assesing the possibility of unstable permeability of the
Tan Cuong dke foundation
Abstract: Tancuong river dike is one among the system of Red river dike. It
is located at VinhTuong district-VinhPhuc province. Every year, when the
water level of the Red river flood is rising at grade-3 piping always occur
at this dike threatening dike safety and community life. The local
government has proposed counter measure against piping in order to make
stable permeability of Tancuong river dike.
This paper presents all collected data related to Tancuong river dike,
analytical data of geo-engineering structures of dike foundation, and
provides simulated calculation by GEO-STUDIO2004 and measures
against piping for Tancuong dike.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đoạn đê Tân Cương nằm trong hệ thống đê
Tả sông Hồng được xây dựng vào cuối thế k
19, từ thời nhà Nguyễn. Đê được đắp bằng
phương pháp thủ công với vật liệu đất lấy tại
chỗ. Để duy trì ổn định của đê, nhà nước thường
xuyên tu bổ, củng cố để đảm bảo an toàn cho
các huyện phía Nam tỉnh Vĩnh Phúc và thành
phố Hà Nội. Tuy nhiên, do được đắp thủ công
trên vùng có cấu trúc nền phức tạp,nên diễn biến
thấm dưới nền đê ảnh hưởng lớn đến độ ổn định
của đê.
Đê Tân Cương, đoạn từ Km6 - Km8 được
đánh giá là đoạn đê xung yếu nhất huyện Vĩnh
Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Thực tế, hàng năm nước
lũ sông Hồng đạt mức báo động 3, ở đoạn đê
này xảy ra nhiều mạch sủi, mạch đùn đe dọa
nghiêm trọng sự ổn định của đê. Vì vậy, việc
nghiên cứu đánh giá khả năng mất ổn định thấm
của đoạn đê này để từ đó có các biện pháp xử lý
thích hợp là việc làm có ý nghĩa quan trọng và
cấp thiết.
2. ĐIỀU KIỆN ỔN ĐỊNH THẤM NỀN
ĐÊ
Biến dạng thấm có thể xảy ra dưới hình thức
xói ngầm, đùn đất. Tuy nhiên, ở những nơi trên
tầng chứa nước có tầng phủ thấm nước yếu thì
biến dạng thấm chỉ có thể phát triển khi tầng
phủ thấm nước yếu bị phá vỡ nghĩa là phải có
miền thoát. Vì vậy, đánh giá khả năng ổn định
thấm ở nền đê, cần phải kiểm tra điều kiện tầng
phủ không xảy ra đùn đất và điều kiện không
xảy ra nói ngầm.
2.1 Điều kiện không xảy ra đùn đất
Đùn đất là hình thức biến dạng thấm thường
phát sinh đầu tiên ở nền đê. Khi đùn đất xảy ra ở
một diện rộng có tính chất đột ngột gọi là bục
đất, khi đùn đất xảy ra ở diện h p, riêng rẽ thể
hiện dưới dạng mạch đùn, mạch sủi. Theo
TCXD VN 285: 2002 điều kiện để không xảy ra
đùn đất là:
Kdn > [K]
* Trường Đại học Thủy lợi
175 Tây Sơn - Đống Đa - Hà Nội
DĐ: 0915268782 ** C«ng ty CPXD VÜnh Phóc
§Þa kü thuËt sè 3-2010 33
Trong đó: dnK - hệ số ổn định đẩy nổi;
dnn
pd
dnH
mK
.
d - trọng lượng thể tích của đất tầng phủ;
n - trọng lượng riêng của nước;
pm - chiều dày tầng phủ;
dnH - cột nước áp tại đáy tầng phủ;
[K] – hệ số ổn định đẩy nổi cho phép
2.2 Điều kiện không xảy ra xói ngầm
Hiện tượng xói ngầm trong đất loại cát, hoặc
đất sét kém chặt có thể xảy ra với một trong các
điều kiện sau
- Điều kiện về thành phần hạt: Đất không
đồng nhất ở mức độ nào đó, các hạt có kích
thước nhỏ hơn có thể chuyển dịch giữa các hạt
lớn và có thể bị di chuyển ra khỏi vị trí tồn tại
của chúng. Để đánh giá mức độ không đồng
nhất của đất có thể sử dụng chỉ số không đều
hạt
-Điều kiện về gradient áp lực thấm: Để
không xảy ra xói ngầm, dòng thấm cần phải có
gradient áp lực thấm nhỏ hơn gradient áp lực
thấm cho phép.
JJ
trong đó: J – gradient áp lực thấm cục bộ;
[J] - gradient áp lực thấm cho phép, đối với
sét pha lấy [J] = 0,65.
3. ẢNH HƢỞNG CỦA BIẾN DẠNG
THẤM TỚI SỰ ỔN ĐỊNH NỀN ĐÊ
Biến dạng thấm nền đê là do tác dụng của
dòng thấm làm di chuyển các hạt đất trong các
lớp đất đá, các hạt nhỏ bị moi cuốn, vận
chuyển ra khỏi kẽ hở của hạt lớn làm độ lỗ
rỗng của đất tăng dần lên, nền đất dần mất ổn
định. Trong trường hợp dòng thấm có vận tốc
thấm đủ lớn, trong đất hình thành ứng suất
cắt, khi ứng suất cắt này vượt quá độ bền
kháng cắt của đất sẽ xảy ra đùn đất hoặc cát
chảy. Như vậy, dưới tác dụng của dòng thấm,
nền đê có thể bị mất ổn định do độ rỗng tăng
lên hoặc do áp lực tác dụng của dòng thấm
vượt quá độ bền của đất.
Vào mùa lũ, mực nước sông dâng cao làm
cho áp lực dưới đất tác dụng lên lớp phủ thấm
nước yếu ở nền đê tăng lên, quá trình vận động
của nước dưới đất diễn ra không ngừng, dòng
thấm luôn tác động tới nền đất nên có thể moi
cuốn các hạt vật liệu nhỏ theo các vị trí bất kỳ
và thoát ra ngoài dưới dạng mạch đùn mạch sủi.
Sự moi cuốn này ban đầu ít gây ra nguy hiểm
cho nền đất nhưng nó là tiền đề cho mạch đùn,
mạch sủi phát triển mạnh hơn và quá trình biến
dạng xảy ra trong môi trường trầm tích nền đê
ngày càng cao. Quá trình biến dạng thấm phát
triển gây lún sập nền đất, nứt thân đê và dẫn đến
vỡ đê là kết quả tất yếu.
4. PHÂN TÍCH CẤU TRÚC NỀN ĐÊ
TÂN CƢƠNG
4.1. Cấu trúc nền
Cấu trúc nền là cấu trúc của hệ thống địa chất
tồn tại trong tự nhiên. Đó là quan hệ sắp xếp
trong không gian giữa các hợp phần của môi
trường địa chất hay các thể địa chất tự nhiên
đẳng cấp khác nhau. Các thể địa chất tự nhiên
đẳng cấp khác nhau là các phần môi trường địa
chất được phân chia bằng những dấu hiệu địa
chất nhất định phù hợp với hệ thống phân loại
trong địa chất công trình, theo thứ tự từ đẳng
cấp cao đến đẳng cấp thấp.
Nghiên cứu cấu trúc nền, tức là nghiên cứu
cấu trúc hệ thống địa chất tồn tại tự nhiên phục
vụ một mục đích cụ thể, thường cho mục đích
xây dựng. Đối với công trình đê, khi nghiên cứu
cấu trúc nền để phục vụ đánh giá biến dạng
thấm, điều quan trọng cần đặc biệt chú ý là quan
hệ tương tác giữa nước sông và môi trường địa
chất, điều kiện để nước sông thâm nhập vào và
vận động trong môi trường địa chất dưới áp lực
cột nước dâng cao do đê tạo ra trong mùa lũ làm
phát sinh quá trình biến dạng thấm ở nền đê.
4.2. Cơ sở phân chia.
Đoạn đê Tả Hồng từ K6+00 K8+00 được
đắp trên nền các trầm tích bở rời tuổi Đệ Tứ
tạo thành một hệ tầng trên cùng phủ khắp khu
vực châu thổ sông Hồng. Nguồn gốc sinh thành
§Þa kü thuËt sè 3-2010 34
chủ yếu là các trầm tích aluvi thềm sông có
tuổi từ cổ đến trẻ. Do ảnh hưởng của chế độ
thu văn tương đối khác nhau của sông Thao,
sông Đà và sông Lô nên điều kiện bồi lắng của
các vật liệu do dòng chảy của sông Hồng tại
khu vực nghiên cứu không ổn định. Bên trên là
hệ tầng loại sét, bên dưới là các hệ tầng loại
cát. Mỗi đoạn nền đê có cấu trúc địa chất khác
nhau, mức độ ổn định thấm không giống nhau.
Để đánh giá khả năng phát sinh biến dạng thấm
và áp dụng các giải pháp xử lý thích hợp, cần
phải điển hình hoá cấu trúc địa chất nền trên
toàn bộ tuyến đê, nghĩa là phải phân chia các
kiểu cấu trúc nền đê.
Khi phân chia cấu trúc nền đê ở đây, cần
phải xét tới quan hệ tương tác giữa môi trường
nước sông dâng cao và môi trường địa chất, tới
khả năng moi chuyển các hạt trầm tích rời và
phá vỡ lớp phủ thấm nước yếu dưới tác dụng
của áp lực dòng thấm, tức là phải xét tới quan
hệ sắp xếp, phân bố không gian giữa các lớp
trầm tích nền đê, giữa các lớp chứa nước với
các lớp phủ thấm nước yếu ở trên, xét tới thành
phần hạt, tính thấm và tính chất cơ lý của các
lớp đất này. Ngoài ra còn phải xét tới khoảng
cách từ đê tới lòng sông và các yếu tố địa hình
địa mạo ảnh hưởng tới ổn định thấm nền đê.
Qua những phân tích về đặc điểm địa chất
công trình vùng tuyến đê đã cho thấy, mức độ
nguy hiểm của biến dạng thấm ở đây rất cao do
có mặt của những trầm tích hạt rời có khả năng
dẫn nước và chứa nước lớn, có diện phân bố
rộng, liên tục dưới nền đê. Tuy nhiên, khả năng
phát sinh biến dạng thấm khi mực nước sông
dâng cao còn phụ thuộc vào độ bền vững của
các lớp phủ thấm nước yếu bên trên, nghĩa là
phụ thuộc vào chiều dày của tính chất cơ lý của
tầng phủ. Vì thế, dấu hiệu để phân biệt các kiểu
cấu trúc nền đê ở đây là chiều dày và độ bền
của tầng phủ phía trong đê.
4.3. Các kiểu cấu trúc nền đê và đặc điểm
của chúng
Dựa vào các dấu hiệu nêu trên, phân biệt
được trong phạm vi nghiên cứu 2 kiểu cấu trúc
nền đê:
- Kiểu cấu trúc nền I
Kiểu cấu trúc nền I phân bố ở 2 đoạn đê:
đoạn 1 từ Km6+00 đến Km6+500; đoạn 2 từ
Km7+00 đến Km8+00. Tổng chiều dài đê nằm
trên kiểu cấu trúc này 1500m. Trong kiểu cấu
trúc nền I các trầm tích thấm nước yếu có chiều
dày tương đối lớn, áp lực khó phá vỡ vị trí
xung yếu trong lớp phủ. Tại đây đê nằm xa
sông Hồng từ 500-600m. Khu vực này mật độ
dân cư thưa, sân phủ thượng hạ lưu được bảo
vệ tương đối tốt. Kiểu cấu trúc này gồm 4 mặt
cắt: tuyến V-V' tại Km6+00, tuyến VI-VI' tại
Km6+500, tuyến mặt cắt VII - VII tại
Km7+450, tuyến VII Km 8 + 00.
- Kiểu cấu trúc nền II
Trong kiểu cấu trúc nền II các trầm tích
thấm nước yếu nằm ở phía trong đê có chiều
dày không lớn thường nhỏ hơn 4m, áp lực thấm
dễ dàng phá vỡ vị trí xung yếu trong lớp phủ,
đoạn này lòng sông áp sát chân đê cách chân
đê khoảng 350-400m. Khu vực phân bố kiểu
cấu trúc nền II có mật độ dân cư sống tương
đối dày đặc, sân phủ thượng hạ lưu bị phá hu
nghiêm trọng do con người đào ao, lấy đất làm
gạch. Vì vậy, ở kiểu cấu trúc nền này rất dễ
xẩy ra biến dạng thấm khi mực nước sông
Hồng dâng cao. Kiểu cấu trúc nền này phân bố
từ Km6 + 500 – Km7+00. Mặt cắt ngang địa
chất công trình đại diện cho kiểu cấu trúc nền
II là mặt cắt IX - IX'(km 6+530), mặt cắt X-
X'(km 6+ 810).
Nhìn chung, cấu trúc kiểu I tương đối ổn
định, còn cấu trúc kiểu II kém ổn định. Nền đê
thuộc kiểu II có biểu hiện biến dạng thấm xảy
ra thường xuyên nhất vào mùa mưa lũ. Tại đây,
khi mực nước sông dâng cao, dòng thấm có thể
phá vỡ lớp phủ thấm nước yếu và thoát ra ở
phía trước đê, gây ra biến dạng thấm mạnh.
Mặt cắt điển hình các cấu trúc nền được thể
hiện ở hình 1, hình 2 và phân chia các dạng cấu
trúc nền được thể hiện trên bình đồ hình 3.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 35
51
52
1a
168.25 180.66211.00Kho¶ng c¸ch
6
-12
-16
-24
-22
-20
-18
-14
Cao ®é (m)
Tªn hè
-8
-4
-2
0
-6
2
4
-10
4
3
§ª bèi
S«ng Hång
8
10
12
14
16
18
2
1
§
§ª t¶ Hång
K=4.71E-4
704
K=4.68E-5
14
.08
TC15
738
3
4
5
6
12
.65
TC16
08/4/05
I
I'
736
1
2
Kªnh tíi
12/4/05 739
II'
II
5
5a
4
3
11
.1
TC17
698
697
1
2
§
09/4/05
III'
III
696
36.67199.42
6
4
5a
-12
12
.37
TC18
-16
-24
-22
-20
-18
-14
4
5a
-8
-4
-2
0
-6
2
4
-10
§êng bê kªnh
2
3
1
12/4/053
1
2
§
700
IV
K=8.63E-4
IV'
8
10
12
14
16
18
699
739A
Hình 1. Tuyến VIII-VIII' tại Km 8+00
(kiểu cấu trúc nền I)
TC26TC25TC24
9.4
5
9.5
3
9.5
4
9.5
5
9.5
7
9.7
8
9.8
9
9.9
31
2.3
31
2.3
61
0.1
3
10
.13
12
.31
2.3
10
.03
8.9
7
9.0
9.0
9.0
11
0.8
31
0.8
31
0.5
7
10
.76
10
.96
8.8
8.8
10
.93
10
.94
9.8
5
9.8
51
0.9
8
11
.47
11
.53
12
.36
12
.38
14
.83
14
.87
15
.27
15
.21
13
.14
12
.11
11
.57
11
.02
10
.18
10
.18
11
.39
11
.82
11
.83
12
.51
13
.01
13
.32
13
.37
13
.46
14
.51
4.5
11
.92
11
.92
11
.93
13
.98
13
.51
13
.07
12
.48
12
.2
4
5a
3
4
2
4
§
22
1
1
5a
5
-24
-22
-12
-10
-20
-18
-16
-14
18
16
14
-4
-2
0
2
4
6
8
10
12
-8
-6
Cao ®é (m)
Kho¶ng c¸ch
Tªn hè
TC23
Hình 2. Tuyến X-X' tại Km 6+810
(kiểu cấu trúc nền II)
km 8+00
km 7+450
km6+810
km6+530km6+300
km6¶nh 103
¶nh 98
¶nh 99
¶nh 97
¶nh 96
¶nh 89
¶nh 90
¶nh 94
¶nh 93
¶nh 92
¶nh 91
¶nh 88
VIII'
VII'
VI'
II
III'
II'
tû lÖ: 1/2000
S¬ ®å ph©n vïng cÊu tróc nÒn ®ª t©n c¬ng
2350
400
2348
600
2348
400
2348
200
2348
000
2347
800
2347
800
2348
000
2348
600
2348
800
2349
000
2349
200
2349
400
2349
600
2349
800
2350
000
2350
200
2350
400
5488
00
5486
00
5484
00
5482
00
5480
00
5478
0054
7600
5476
00
5478
00
5480
00
5482
00
5484
0054
8600
5488
0054
9000
2350
200
2350
000
2349
800
2349
600
2349
400
2349
200
2349
000
5474
0054
7200
5472
00
5474
00
2348
800
TC112.53
31
TC210.79
20
TC310.40
20
TC411.23
20
TC513.18
30
TC610.17
25
TC710.44
20
TC810.99
30
TC912.18
30
TC1013.74
20
TC1112.51
30
TC1211.11
20
TC1312.17
21
TC1413.08
30
TC1514.08
20
TC1612.65
30
TC1711.10
20
TC1812.37
20
gp
s8
17.9
82
18.3
91
c7
12.4
2
f1
-c1
14.8
8
f3
gp
s6
18.9
2
10.9
9
t1
-2
12.7
1t1
11.9
3
f1-c
2
11.8
4
f1
-1
12.3
0
f1 11.2
3
f-2
10.8
3
t2
-2
12.0
2
f2-c
41
2.3
0
t2
12.1
9
f3-c
4
11.1
9
t1
-1
10.0
6
t2
10.5
4
t2
-1
t3
-1
11.5
7
s5-5
12.0
9
®1
19.1
0
f2
-5
12.9
4f1
11.9
2
f2
-2
f2
-3
f2
-1
f2
-3
f2
-5
11.8
5
s5-6
11.6
4
s5-6
/1
19.6
2
k8
19.1
0
s5-7
gp
s7
c2
c3
c4
18.0
6
f1
/61
3.2
81
6.6
4
f1
/5
16.5
8
f1
/4
14.8
6
f1
/314.6
3
f1
/2
14.2
7
f1
/1
14.2
7
f1
f1/c
4
v1
10.1
7
10.4
7
c50
10.5
1
v1-1
12.6
0
v7
12.6
0
v7-1
12.6
0
v7-1
10.8
7
11.3
0
v2-9
12.7
70
gp
s9
12.7
5
p2-1
3
12.4
1
p2-1
2
12.3
3
p2-1
1
10.8
6
p2-1
0
p2-9
p2-8
9.9
8
p2/1
3
10.3
4
a2-1
11.2
3
a1/1
10.4
7
a1
11.2
0
a2/2
11.1
2
a2
a3
11.1
0
c1
f1_
gp
s8
b2
f2_
32
13.2
3
c¸c kiÓu cÊu tróc nÒn ®ª
dÊu hiÖu quy íc
KiÓu cÊu tróc nÒn I(tÇng phñ phÝa trong ®ª lín h¬n 3 m)
KiÓu cÊu tróc nÒn II(tÇng phñ phÝa trong ®ª nhá h¬n 3 m)
KiÓu Ii KiÓu I
KiÓu I
Hình 3. Bình đồ phân chia các kiểu cấu trúc nền
trên đoạn đê Tân Cương.
5. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG MẤT ỔN
ĐỊNH THẤM NỀN ĐÊ TÂN CƢƠNG
5.1. Xác định áp lực dòng thấm phía trong đê
Để đánh giá khả năng mất ổn định thấm nền
đê Tân Cương, trước hết cần phải xác định áp
lực dòng thấm tác dụng lên tầng phủ phía trong
đê vào mùa lũ tại thời điểm nguy hiểm nhất.
Trong nghiên cứu này chọn đỉnh lũ năm 1972 ở
cao trình +17.69, trong đồng mực nước bằng
mặt đất tự nhiên ở cao trình +11.5 m.
Trong thời gian gần đây, khi các công nghệ máy
tính cũng như việc ứng dụng phương pháp phần tử
hữu hạn trở nên phổ biến đã cho phép giải các bài
toán thấm với điều kiện biên phức tạp. Mặt khác
các bài toán thấm được đưa về sơ đồ tính gần với
điều kiện làm việc thực tế của công trình. Ở đây sử
dụng chương trình GEO-STUDIO 2004 của hãng
phần mềm Địa kỹ thuật Quốc tế GEO-SLOPE của
Canađa để xác định áp lực thấm gia tăng trong nền
đê Tân Cương. Với đặc trưng địa chất nền có tầng
cát thông vói sông, bài toán thấm ổn định là phù
hợp với làm việc của đê mùa lũ.
5.2. Các đặc trưng thấm của đất dùng trong
tính toán
Các giá trị đặc trưng thấm của từng lớp đất
được cho ở bảng 1
Bảng 1. Chỉ tiêu cơ lý đất nền đê Tân Cƣơng
TT Tên lớp Hệ số thấm
(m/s) Mô tả
1 Đất đắp 1x10-7
Đất sét pha trung-nh , màu xám nâu, xám vàng, trạng thái cứng,
kết cấu chặt vừa
2 Lớp 1 1x10-7
sét pha nặng đến trung, màu xám nâu, trạng thái dẻo mềm, đất
kết cấu chặt vừa
3 Lớp 2 5x10-8
đất sét có chỗ là sét pha nặng màu xám vàng, nâu hồng. Trạng
thái nủa cứng đến dẻo cứng, đất kết cấu chặt vừa
4 Lớp 3 5x10-6
Cát pha sét màu xám vàng, xám xanh trạng thái dẻo cứng đến
nửa cứng, đất kết cấu chặt vừa
5 Lớp 4 1x10-4
Cát hạt vừa, kích thước hạt tăng dần theo chiều sâu, màu xám
vàng, vàng nhạt bão hoà nước
6 Lớp 5a 5x10-4
Cát sỏi chứa cuội màu xám xanh, xám trắng. Cuội sỏi mài mòn
tốt, cứng chắc, kích thước từ 0.2 đến 6 cm. Chiếm khoảng 40-
50%.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 36
5.3. Kết quả tính toán:
Kết quả tính thấm được trình bày cho một số
mặt cắt điển hình từ hình 4 đến hình 7.
MNHL = +11.5 m
1
2
Dat dap, K = 1E-7 m/s
3
4
Lop
Lop
Lop
MNT L:+17.69
Lop 4
11.5
12 12.5
13 13.5
14 14.5 15
15.5
16 16.5
17
Khoang cach (m)
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100 105 110 115 120 125 130 135 140 145 150 155 160 165 170 175 180 185
Hình 4. Phân bố cột nước tổng trong thân và
nền đê tại mặt cắt V-V'(Km6+00)
Dat dap, K = 1E-7 m/s
Lop 1
MNTL:+17.69
Lop 2
Lop 3
Lop 4
Lop 5
Lop 6
11.5
12
12.5
13 13.5
14
15 15.5 16
16.5
17
17.5
2.6
512
e-0
06
Khoang cach (m)
0 2 0 4 0 6 0 8 0 1 00 1 20 1 40 1 60 1 80 2 00 2 20 2 40
Hình 5. Phân bố cột nước tổng trong thân và
nền đê tại mặt cắt tính toán
VI-VI’ (K6+300)
MNTL = +17.69 m
Dat dap DOAN MAT ON DINH THAM
5a
5
lop 1
lop 2
lop 3
lop 4
lop 5
15.5 16
16.5
Khoang cach (m)
0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 220 240 260
Hình 6. Phân bố cột nước tổng trong thân và
nền đê tại mặt cắt toán
IX-IX' ( K6+530)
Dat dapDOAN MAT ON DINH THAM
MNTL:+17.69
1
2
3
4
5a
5
14 14.5
Khoang cach (m)
0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 220 240 260 280
Hình 7. Phân bố cột nước tổng trong thân và
nền đê tại mặt cắt tính toán X-X'(K6+810)
5.4. Kiểm tra khả năng mất ổn định thấm
nền đê
- Đánh giá khả năng đùn đất tầng phủ
Để kiểm tra mất ổn định thấm nền đê, cần
phải kiểm tra đùn đất tầng phủ sau đó kiểm tra
khả năng xói ngầm của nền đê.
Điều kiện để không xảy ra đùn đất được xác
định theo TCXD VN 285: 2002 với [K] = 1.25
(Công trình cấp I).
Việc kiểm tra đùn đất tầng phủ được xem
xét cho điểm có chiều dầy tầng phủ mỏng nhất
trong các điểm xem xét từ chân đê về phía
trong đồng.
Kết quả kiểm tra đùn đất tại các mặt cắt khác
nhau từ K6+00 đến K8+00, ở mỗi mặt cắt kiểm
tra cho các điểm đặc biệt trong khoảng 250m từ
chân đê về phía đồng.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam-TCVN 4253-86
quy định việc tính độ bền thấm cục bộ của nền
không phải là đá phải được xem xét trong vùng
dòng thấm thoát ra ở hạ lưu, ở ranh giới của đất
không đồng nhất hoặc về phía thiết bị tiêu nước
và được xác định theo công thức đã nêu ở trên:
Kết quả tính toán dnK và maxJ tại các mặt cắt
được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Kết quả kiểm tra ổn định thấm tại các mặt cắt
Mặt cắt Đặc trưng
Khoảng cách các điểm đang xét tại đáy tầng phủ
tính từ toạ độ gốc tính toán (m)
110 130 175 185 200 220 250
V-V'
Hmax 15 14,5 14,5 14,5 14,5 14,5 14,5
mp 10 8,2 6.6 5,4 6,4 6,5 6,4
Kdn 2,28 3,28 2.64 2,16 2,4 2,61 2,6
Jmax 0,3 0,60 0,6 0,6 0,5 0,5 0,5
§Þa kü thuËt sè 3-2010 37
Mặt cắt Đặc trưng
Khoảng cách các điểm đang xét tại đáy tầng phủ
tính từ toạ độ gốc tính toán (m)
110 130 175 185 200 220 250
VI-VI’
100 117 140 165 200 220 240
Hmax 13,5 13,3 13,3 13,1 13,1 13,1 13,1
mp 7,5 5,6 5,0 4,8 4,8 4,8 5,6
Kdn 3,0 2,24 2,0 2,56 2,56 2,56 2,2
Jmax 0,2 0,2 0,45 0,5 0,5 0,5 0,2
VII-VII’
80 100 121 127 135 150 170
Hmax 13,5 13,0 12,8 12,8 12,5 12,5 12,5
mp 6,9 6,0 5,5 5,1 4,8 5,1 5,1
Kdn 2,76 3,2 3,7 2,5 2,32 2,52 2,52
Jmax 0,26 0,26 0,26 0,35 0,46 0,35 0,14
VIII-VIII’
120 140 160 180 200 220 250
Hmax 13,0 13,0 12,8 12,5 12,5 12,0 12,0
mp 8,5 7,0 6,6 5,6 5,3 6,2 6,3
Kdn 4,5 3,7 4,06 4,4 3,26 4,7 4,7
Jmax 0,07 0,1 0,15 0,3 0,36 0,27 0,16
IX-IX’
80 90 105 125 145 160 180
Hmax 16 16 15,8 15,6 15,5 14,0 14,0
mp 8,2 7,4 3,47 3,57 3,32 6,5 6,5
Kdn 1,45 1,31 0,64 0,68 0,64 1,27 1,28
Jmax 0,2 0,2 0,7 0,7 0,7 0,55 0,21
X-X’
90 120 140 151 167 180 200
Hmax 14,5 14,3 14,3 14,3 14,1 14,1 14,1
mp 8,0 6,4 5,7 4,7 3,1 4,5 4,7
Kdn 2,13 1,80 1,63 1,34 0,95 1,30 1,35
Jmax 0,15 0,26 0,37 0,57 0,82 0,4 0,3
Trong đó Hmax là cột nước tổng lớn nhất
tại đáy tầng phủ, sau khi từ đi cột nước vị trí
tại đáy tầng phủ sẽ được cột nước áp tại đáy
tầng phủ
Mặt cắt Biến đổi hệ số ổn định đẩy nổi Kđn phía
trong đê theo khoảng cách tại mặt cắt V -
Biến đổi gradien áp lực thấm tác dụng
lên lớp phủ thấm nước yếu phía trong
đê theo khoảng cách
V-V’ 1
1.5
2
2.5
3
3.5
110 120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220 230 240 250
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é tÝnh to¸n ( m)
K®n
Mặt cắt V- V
[K] =1.25
0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
110 120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220 230 240 250
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é tÝnh to¸n ( m)
J
Mặt cắt V- V
[J] =0.65
§Þa kü thuËt sè 3-2010 38
VI-VI’ 1
1.5
2
2.5
3
3.5
100 110 120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220 230 240 250
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é ( m)
K®n
Mặt cắt VI- VI
[K] =1.25
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
100 110 120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220 230 240 250
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é tÝnh to¸n ( m)
J
[J] =0.65
Mặt cắt VI- VI
VII-VII’ 1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
80 90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é ( m)
K®n
Mặt cắt VII- VII
[K] = 1.25
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
80 90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é tÝnh to¸n ( m)
J
[J] =0.7
Mặt cắt VII- VII
VIII-VIII’
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
5
120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220 230 240 250 260 270
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é ( m)
K®n
Mặt cắt VIII- VIII
[K] =1.25
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220 230 240 250 260 270
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é tÝnh to¸n ( m)
J
[J] =0.65
Mặt cắt VIII- VIII
IX-IX’
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
80 90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190 200Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é ( m)
K®n
Mặt cắt IX-IX
[K] = 1.25
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
80 90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190 200Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é tÝnh to¸n ( m)
J
[J] =0.65
Mặt cắt IX - IX
X-X’ 0.5
0.7
0.9
1.1
1.3
1.5
1.7
1.9
2.1
2.3
90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é ( m)
K®n
Mặt cắt X-X
[K] = 1.25
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220
Kho¶ng c¸ch tõ gèc to¹ ®é tÝnh to¸n ( m)
J
[J] =0.65
Mặt cắt X - X
Hình 8. Đồ thị biến đổi građient áp lực thấm và hệ số đẩy nổi kiểm tra cho các mặt cắt
5.5. Nhận xét và đánh giá
Từ kết quả tính ổn định thấm đối với 6 mặt
cắt địa chất công trình đặc trưng cho 2 kiểu
cấu trúc nền đê Tân Cương theo chế độ biến
đổi mực nước lũ trong đợt lũ lịch sử năm 1971
cho thấy:
- Kiểu cấu trúc nền I: mặt cắt V-V’tại
K6+00, VI-VI' tại K6+300, VII-VII tại K7 +
450, VIII-VII' tại K8+00
+ Không có khả năng xảy ra khả năng đùn
đất vì có KKdn =1.25;
+ Không có khả năng xảy ra xói ngầm vì có
JJ max = 0.65
- Kiểu cấu trúc nền II:
Mặt cắt IX-IX':
+ Có khả năng xảy ra khả năng đùn đất từ vị
trí có toạ độ X= 90 m đến vị trí có toạ độ
X=160 vì có KKdn =1.25;
+ Có khả năng xảy ra xói ngầm từ vị trí
§Þa kü thuËt sè 3-2010 39
X=105m đến vị trí có toạ độ X=150 vì có
JJ max = 0.65
Mặt cắt X-X tại K6+810:
+ Có khả năng xảy ra khả năng đùn đất từ vị
trí có toạ độ X= 155 m đến 175m vì có
KKdn =1.25;
+ Có khả năng xảy ra xói ngầm từ vị trí
X=155m đến vị trí có toạ độ X=175m vì có
JJ max = 0.65
Kết quả tính toán theo điều kiện đùn đất và
xói ngầm cho thấy, mức độ nguy hiểm biến
dạng thấm ở kiếu cấu trúc nền II là rất lớn, còn
kiểu cấu trúc nền I khá ổn định.
Kết quả tính toán đùn đất và xói ngầm
phù hợp với thực tế đã xảy ra trong các đợt
lũ lớn ở năm 1971, 1983, 1986 và 1996.
Trong những năm này, xảy ra hiện tượng
mạch đùn mạch sủi khi nước lũ về tác động
trực tiếp đến đoạn đê nghiên cứu mà nguyên
nhân chính là do áp lực nước dưới đất đã
phá vỡ tầng phủ thấm nước yếu phía trên.
Các điểm mạch đùn, mạch sủi đều xuất hiện
và xảy ra mạnh ở khu vực hạ lưu đê và xuất
lộ tại các vị trí ao, hồ và giếng của dân nơi
có miền xả và tiêu thoát (tác nhân gây xói
ngầm). Khi mực nước lũ lên cao thì hiện
tượng mạch đùn mạch sủi càng xảy ra mạnh
do tác động của gradien thu lực thực tế lớn
hơn gradien thu lực cho phép đối với các
lớp cát nền. Theo tài liệu theo dõi của Ban
chỉ huy phòng chống lụt bão tỉnh Vĩnh Phúc
thì hàng năm, khi mực nước sông vượt mức
báo động 3, rất nhiều giếng ăn trong khu dân
cư, trên mặt ruộng, vườn gần chân đê, đáy
ao phía đồng đều có hiện tượng mạch sủi.
Phần lớn các mạch sủi, giếng sủi đều mang
theo bùn cát. Hiện tượng sủi xảy ra ngay cả
khi nước sông còn thấp dưới báo động 3, khi
nước sông Hồng còn ở ngoài đê bối chưa
vào trong đê chính.
Biện pháp xử lý được liệt kê tóm tắt trên cơ
sở phân tích tổng thể về địa hình, địa chất và
tình hình dân sinh ở ven đê.
6. PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP XỬ LÝ BIẾN DẠNG THẤM THÍCH
HỢP Ở NỀN ĐÊ TÂN CƢƠNG
6.1. Các giải pháp xử lý biến dạng thấm ở
nền đê
+ Kéo dài đường thấm bằng sân phủ chống
thấm phía trong và ngoài đê.
+ Đắp cơ phản áp tiêu nước phía trong đê
+ Kéo dài đường thấm bằng tường chống
thấm dưới nền đê.
+ Tạo màn chống thấm bằng phương pháp
bơm phụt dung dịch vào nền đê.
+ Xây dựng giếng giảm áp
+ Xây dựng các tuyến đê quây giảm cấp phía
trong đê
+ Tạo tầng lọc ngược, dâng cao mức nước
nơi dòng thấm xuất lô
6.2. Đề xuất các giải pháp xử lý biến dạng
thấm ở nền đê Tân Cương
Trên cơ sở kết quả tính toán ổn định thấm
cho các mặt cắt và đặc điểm địa hình khu vực
nghiên cứu, cấu trúc địa chất của nền đê, cần
phải áp dụng các giải pháp xử lý biến dạng thấm
khác nhau ở những đoạn đê khác nhau ở nền đê
Tân Cương .
Đối với kiểu cấu trúc nền I đoạn từ K6+00
đến K6+500 và từ Km7+00 đến Km8+00: Từ
kết quả tính toán thấy đoạn đê này ổn định
thấm, mật độ dân cư thưa hơn và chỉ xuất hiện
một vài hố đào, thùng đào ở độ sâu khoảng 1m
so với mặt đất. Vì vậy, giải pháp bảo vệ chiều
dày tầng phủ, không được đào ao, đào giếng và
khai thác đất làm gạch trong phạm vi 250 m kể
từ chân đê về phía đồng, tiến hành lấp những vị
trí hố đào, vị trí ao trong phạm vi nêu trên bằng
loại đất có hệ số thấm nước nhỏ. Vào mùa lũ
cần kiểm tra các vị trí xung yếu, có khả năng
mất ổn định thấm. Tuy nhiên, có hiện tượng
mạch đùn, mạch sủi cần áp dụng biện pháp tạo
tầng lọc ngược kết hợp vòng vây cọc ván.
Đối với kiểu cấu trúc nền II đoạn từ K6+500
đến K7+00 theo kết quả tính toán ổn định thấm
mức độ mất ổn định là rất lớn, đoạn này có mật
§Þa kü thuËt sè 3-2010 40
độ dân cư dày đặc ở sát chân đê. Theo tài liệu
khảo sát thì trong phạm vi này có rất nhiều
giếng đào của nhân dân để khai thác nước
ngầm. Mặt khác, sát chân đê cũng có nhiều ao,
thùng đào rất dễ gây mất ổn định thấm cho nền
đê vào mùa lũ. Để đảm bảo ổn định lâu dài và
tiết kiệm diện tích sử dụng, nên sử dụng giải
pháp giếng khoan giảm áp để giảm áp lực tác
dụng lên đáy tầng phủ phía trong đê vào mùa lũ,
giữ cân bằng mực nước ngầm phục vụ cho dân
sinh phía trong đê.
7. KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu ở trên, có thể
rút ra một số kết luận sau đây:
1.Qua những phân tích về đặc điểm địa chất
công trình vùng tuyến đê Tân Cương đã cho
thấy, mức độ nguy hiểm của biến dạng thấm ở
đây rất cao do có mặt của những trầm tích hạt
rời có khả năng dẫn nước và chứa nước lớn, có
diện phân bố rộng, liên tục dưới nền đê, lớp phủ
thấm nước yếu nằm bên trên có chiều dày biến
đổi và bị phá hu cục bộ. Có thể chia nền đê
Tân Cương thành hai kiểu cấu trúc I và II, trong
đó kiểu cấu trúc nền I ổn định, còn kiểu cấu trúc
nền II có khả năng xảy ra mất ổn định thấm và
mùa mưa lũ.
2. Để đảm bảo ổn định nền đê có thể sử
dụng giải pháp giếng giảm áp tại đoạn đê xung
yếu từ Km 6+500 đến Km7+00. Đây là giải
pháp phù hợp vì mùa lũ có thể giảm cột nước
áp phía trong đê, còn mùa kiệt vẫn đảm bảo
mực nước ngầm không ảnh hưởng đến dân sinh
phía trong đồng.
3. Nhằm tăng cường ổn định nền đê và đảm
bảo an toàn tuyệt đối cho đê cần nghiêm cấm
nhân dân sống ven đê không đào ao, khai thác
đất làm gạch bừa bãi phá vỡ tầng phủ, đồng thời
tiến hành lấp những hố đào, ao hồ, trong phạm
vi 250 từ chân đê về phía trong đồng, các giếng
đào lấy nước sinh hoạt của nhân dân phải kết
cấu tầng lọc ngược đề phòng chống xói ngầm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh. “Về việc phân loại và
thành lập bản đồ cấu trúc nền các công trình xây
dựng ở Việt Nam”, Ký yếu hội nghị Khoa học
địa kỹ thuật toàn quốc lần thứ 11. 1984.
2. Nguyễn Trấn. “Biến dạng thấm ở nền đê
lưu vực sông Hồng”, Ký yếu hội thảo toàn quốc
về chất lượng nền đê, Bộ Thu Lợi. 1987.
3. Nghiêm Hữu Hạnh. “Một số biểu hiện
mất ổn định đê sông Hồng và giải pháp xử lý”,
Hội nghị khoa học địa chất công trình với sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. 1997.
4. Phạm Văn Tỵ. “Một số ý kiến về nguyên
nhân biến dạng và những kiến nghị về việc
nghiên cứu địa chất công trình ở nền đê”, Ký
yếu hội thảo toàn quốc về chất lượng nền đê, Bộ
Thu lợi, 1987.
5. R. Whitlow. Cơ học đất, Nhà xuất bản
giáo dục Hà Nội. 1966.
6. Công ty Tư vấn Xây dựng Thu lợi 1.
Thuyết minh địa chất công trình, Dự án xử lý
nền đê Tả Hồng khu vực Tân Cương đoạn từ km
6 + 00 - Km 8+100, Hà Nội. 2005.
7. Đội quản lý đê huyện Vĩnh Tường, Thống
kê các sự số và hư hỏng đê Tả Hồng.
8. TCXDVN 285.2002. Tiêu chuẩn Xây
dựng VN - Các quy định chủ yếu về thiết kế
công trình thu lợi.
9. DWW - Technical report on sand
Boil(Piping) - The Netherlands 2002.
Người phản biện: TS. LÊ XUÂN KHÂM
§Þa kü thuËt sè 3-2010 41
KÕT QU¶ NGHI£N CøU Ban §ÇU QU¸ TR×NH
DÞCH CHUYÓN §ÊT §Ê TR£N Bê dèc §¦êNG
GIAO TH¤NG VïNG §åI NóI T¢Y QU¶NG B×NH
NguyÔn §øc Lý*
NguyÔn Thanh**
Research results with the system initially on gravity shifting process of
rock soils on slopes and side slopes of traffic roads in mountainous area
west of Quang Binh
Abstract: The contents of the article is a synthesis of research results with the
system initially on gravity shifting process of soils and rocks on slopes and side
slopes of traffic roads in mountainous area west of the Quang Binh province.
1. GIỚI THIỆU
Tỉnh Quảng Bình có diện tích tự nhiên 8.065,26
km2, được giới hạn bởi các toạ độ địa lý ở phần đất
liền là: Điểm cực Bắc: 180
05'12'' vĩ độ Bắc; Điểm
cực Nam: 170 05'02'' vĩ độ Bắc; Điểm cực Đông:
1060 59'37'' kinh độ Đông và Điểm cực Tây: 105
0
36'55' kinh độ Đông.
Trên địa phận vùng đồi núi phía Tây tỉnh
Quảng Bình có nhiều tuyến đường giao thông
quan trọng đi qua, như đường Hồ Chí Minh,
đường xuyên Á, đường quốc lộ 12A, các đường
tỉnh lộ TL 10, TL 11, TL 16 và TL 20. Các
tuyến đường này là tuyến giao thông huyết
mạch quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong tất
cả các lĩnh vực: chính trị, an ninh quốc phòng,
kinh tế và văn hoá - xã hội của đất nước, khu
vực miền Trung nói chung và tỉnh Quảng Bình
nói riêng. Vào mùa mưa lũ, quá trình dịch
chuyển đất đá (QTDCĐĐ) trên bờ dốc, thường
xuyên xảy ra và đã gây nên những ảnh hưởng
nhất định. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tổng
quát QTDCĐĐ trên bờ dốc đường giao thông
vùng đồi núi Tây Quảng Bình có một ý nghĩa
quan trọng.
2. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ CẤU
TRÚC ĐỊA CHẤT CÁC THÀNH TẠO ĐẤT
ĐÁ TẠO NÊN CÁC KHỐI DỊCH CHUYỂN
CHỦ YẾU
Đối tượng nghiên cứu là các bờ dốc đường
giao thông vùng đồi núi Tây Quảng Bình.
Các hệ tầng chủ yếu của các thành tạo đất đá
tạo nên khối dịch chuyển trong khu vực nghiên
cứu, bao gồm: hệ tầng Rào Chắn - D1 rc, Bản
Giàng - D1-2 bg, Bãi Dinh - J1-2 bd, Mục Bài - D2
g mb, Bắc Sơn - C-P bs, Đông Thọ - D2 - D3 fr đt,
phụ hệ tầng Long Đại 3: O3 -S1 lđ 3, Long Đại 2:
O3 -S1 lđ 2, Long Đại1: O3 -S1 lđ 1, hệ tầng Tân
Lâm D1 tl, La Khê C1 lk, Xóm Nha D3 - C1 xn và
phức hệ Trường Sơn - Ga C1 ts..., trong đó:
Hệ tầng Rào Chắn chỉ phân bố trong phạm vi
nghiên cứu từ Km 108 +815 đến Km 114 + 000
đường 12A; từ Km 861 + 225 đến Km 862 +
692 và từ Km 886 + 140 đến Km 887 + 389
đường HCM. Bề dày tầng phủ biến đổi từ 2 m
đến 5 m, trung bình 3 - 4 m, thành phần tầng
phủ chủ yếu là đất sét pha lẫn dăm sạn.
Hệ tầng Bản Giàng phân bố rộng trong phạm vi
nghiên cứu từ Km 104 +350 đến Km 108 + 815, từ
Km114 + 000 đến Km 114 + 841, từ Km 117 +060
đến 118 +162 đường 12A; từ Km 860 + 779 đến
* Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Bình
17A - Quang Trung - TP. Đồng Hới - Quảng Bình.
ĐT: 0913.295.246. ** §¹i häc HuÕ
11A - Phan Bội Châu - TP Huế.
ĐT: 054.3822410.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 42
Km 861 + 225, từ Km 863 + 919 đến Km 866 +
387, từ Km 874 + 237 đến Km 875 + 486, từ Km
894 + 987 đến Km 895 + 981, từ Km 12T
+ 410
đến 12T
+ 770, từ Km 22T + 680 đến 26
T + 125
đường HCM. Bề dày tầng phủ biến đổi từ 4 m đến
12 m, trung bình 8 -10 m, thành phần tầng phủ chủ
yếu là đất sét pha lẫn dăm sạn bị phong hoá mạnh.
Hệ tầng Bãi Dinh phân bố rộng và lớn nhất
trong phạm vi nghiên cứu từ Km 120 + 467 đến
Km 122 + 585, từ Km125 + 300 đến Km 125 +
670, từ Km 128 + 486 đến 133 + 300, từ Km
134+800 đến 142 đường 12A và hầu như vắng
mặt trên các tuyến đường HCM, TL 10 và TL 11.
Bề dày tầng phủ biến đổi từ 3 m đến 10 m, trung
bình 7 - 8 m, thành phần tầng phủ chủ yếu là đất
sét pha lẫn mãnh dăm vụn cát kết, bột kết bị
phong hoá mạnh.
Hệ tầng Mục Bài cũng phân bố rất rộng lớn
trong phạm vi nghiên cứu từ Km 104 + 000 đến
Km 104 + 350, từ Km 115 + 841 đến Km 117 +
060, từ Km 118 + 162 đến Km 120 + 467, từ Km
122 + 585 đến Km 125 + 300, từ Km 125+ 670
đến 128 +486 đường 12A và từ Km 923+003 đến
Km 924+394 đường Hồ Chí Minh. Bề dày tầng
phủ biến đổi từ 4 m đến 12 m, trung bình 8 - 10
m, thành phần tầng phủ chủ yếu là đất sét pha lẫn
dăm sạn đá gốc bị phong hoá mạnh.
Hệ tầng Bắc Sơn, trong phạm vi nghiên cứu
thuộc đường 12A, chỉ phân bố từ Km 133 + 300
đến Km 134 + 800, còn trên tuyến đường HCM
thì phân bố rộng, cụ thể từ Km 862 + 904 đến
Km 863 + 919, từ Km 867 + 280 đến Km 868 +
814, từ Km 879 + 832 đến Km 880 + 106, từ Km
3T
+ 110 đến Km 4T
+ 770, từ Km 12T
+ 250
đến Km 12T + 410, từ Km 12
T + 770 đến Km
15T + 770, từ Km 16
T + 953 đến Km 17
T + 749
và từ Km 28T
+ 077 đến Km 29T + 732 đường
HCM. Bề dày tầng phủ biến đổi từ 3 m đến 15
m, trung bình 10 - 12 m, thành phần tầng phủ chủ
yếu là đất sét và đất sét pha lẫn dăm sạn.
Hệ tầng Đông Thọ phân bố từ Km 855 + 940
đến Km 857 + 831, từ Km 917 + 387 đến Km
923 + 003 và từ Km 924 + 394 đến Km 936 +
062 đường HCM; Hệ tầng này hoàn toàn vắng
mặt trên tuyến đường 12A, TL 10 và TL11. Bề
dày tầng phủ biến đổi từ 1 m đến 12 m, trung
bình 4 - 8 m với thành phần chủ yếu là đất sét
pha lẫn dăm sạn màu nâu, xám bạc; Tầng dưới
là đá cát kết màu xám sẫm, phong hoá vừa -
mạnh thuộc hệ tầng Đông Thọ.
Phức hệ Trường Sơn phân bố trên trên đường
TL 11 và đoạn từ Km 43T + 300 đến Km 56
T +
796 đường HCM và vắng mặt trên tuyến đường
12A và đường TL 10.. Bề dày tầng phủ biến đổi
từ 0,5 m đến 4m, trung bình từ 2 đến 3 m với
thành phần chủ yếu là lớp sét pha lẫn dăm sạn
màu nâu xám, xám vàng có nguồn gốc tàn tích.
Tầng dưới là đá magma gồm các khoáng vật
thạch anh, felspat, mica có máu xám trắng bị
phong hoá vừa -mạnh. Điểm trượt này có chiều
dày tầng phủ trung bình 3 m và góc dốc mặt
trượt bình quân 360 .
Phụ hệ tầng Long Đại 3 phân bố trên đường
TL 10 và đoạn từ Km 83T + 128 đến 90
T + 069,
từ Km 107T + 715 đến 119
T + 295 đường HCM
và hoàn toàn vắng mặt trên tuyến đường 12A,
TL 11. Bề dày tầng phủ biến đổi từ 1,0 m đến
6m, trung bình từ 3 đến 4 m với thành phần chủ
yếu là lớp sét pha lẫn dăm sạn màu nâu xám,
xám vàng có nguồn gốc tàn tích. Tầng dưới là
đá phiến sét màu nâu xám phong hoá mạnh, đôi
chỗ lẫn đất có chiều dày lớn.
Phụ hệ tầng Long Đại 2 phân bố trên tuyên
đường TL 10, TL 11 và đoạn từ Km 26T
+ 125
đến 210T + 010, từ Km 32
T + 682 đến 33
T + 050,
từ Km 39T
+ 232 đến 39T + 922, từ Km 119
T + 295
đến 130T + 739 đường HCM và hoàn toàn vắng
mặt trên tuyến đường 12A . Bề dày tầng phủ biến
đổi từ 0,5 m đến 4m; Trung bình từ 2 đến 3 m với
thành phần chủ yếu là lớp sét pha lẫn dăm sạn
màu nâu xám, xám vàng có nguồn gốc tàn tích.
Tầng dưới là đá phiến sét màu nâu xám phong hoá
mạnh, đôi chổ lẫn đất có chiều dày lớn.
Phụ hệ tầng Long Đại 1 phân bố trên tuyến
đường TL 11 và đoạn từ Km 40T + 613 đến 40
T
+ 959, từ Km 42T + 748 đến 43
T + 300, từ Km
§Þa kü thuËt sè 3-2010 43
56T + 796 đến 72
T + 187, từ Km 146
T + 591 đến
148T + 161, từ Km 149
T + 166 đến 150
T + 129,
từ Km 150T + 789 đến 167
T + 200 đường HCM
và hoàn toàn vắng mặt trên tuyến đường 12A,
TL 10. Bề dày tầng phủ biến đổi từ 0,5 m đến
4m; trung bình từ 2 đến 3 m với thành phần chủ
yếu là lớp sét pha lẫn dăm sạn màu nâu xám,
xám vàng có nguồn gốc tàn tích. Tầng dưới là
đá phiến sét màu nâu xám phong hoá mạnh, đôi
chổ lẫn đất có chiều dày lớn.
3. KẾT QUẢ KHẢO SÁT DIỄN BIẾN
DỊCH CHUYỂN ĐẤT ĐÁ Ở BỜ DỐC KHU
VỰC NGHIÊN CỨU TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY
Qua 9 chuyến khảo sát các tuyến đường giao
thông vùng miền núi tỉnh Quảng Bình ngày
10/11/2006 sau cơn bão Sanxang số 6/2006,
ngày 24/4/2007, ngày 06/5/2007, ngày
06/10/2007 sau cơn bão số 5/2007, ngày
13/01/2008 và ngày 17-18/5/2008, ngày
17/12/2008, ngày 03/10/2009 sau cơn bão số 9
(Ketsana) và ngày 25/10/2009, chúng tôi đã
thống kê được 216 điểm dịch chuyển đất đá
được trình bày ở bảng 1 và bảng 2.
Bảng 1: Các điểm dịch chuyển đất đá
trên bờ dốc đƣờng giao thông vùng
miền núi Quảng Bình
T.T
Tuyến
đư ờ ng giao
thông
Số điể m
sụ t,
trư ợ t
và dòng
bùn đấ t
đá
Số điể m
sụ t, đổ
đá
1 Đư ờ ng
Quố c lộ
12A
89 7
2 Đư ờ ng
xuyên Á 0 0
3 Đư ờ ng
Hồ Chí Minh 99 11
4 Đư ờ ng TL
20 0 0
5 Đư ờ ng TL
11 3 0
6 Đư ờ ng TL
10 6 1
Cộ ng 197 19
Tổ ng cộ ng 216
Bảng 2: Kết quả thống kê phân bố số điểm
sụt, trƣợt phân chia theo hệ tầng
Đấ t e-dQ thuộ c
hệ tầ ng
Số điể m
sụ t,
trư ợ t
Tỉ lệ
%
Long Đạ i 1 10 5,08
Long Đạ i 2 16 8,12
Long Đạ i 3 6 3,05
Hệ tầ ng Rào
Chắ n
7 3,55
Tân Lâm 04 2,03
Hệ tầ ng Bả n
Giằ ng
13 6,60
Hệ tầ ng Mụ c
Bài
28 14,21
Hệ tầ ng Đông
Thọ
35 17,77
Xóm Nha 01 0,50
Phứ c hệ
Trư ờ ng Sơ n
4 2,03
La Khê 21 10,66
Hệ tầ ng Bắ c
Sơ n
14 7,11
Hệ tầ ng Bãi
Dinh
38 19,29
Cộ ng 197 100
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, kiểm toán, đánh
giá và dự báo độ ổn định bờ dốc đường giao thông
vùng đồi núi Tây Quảng Bình, có thể rút ra một số
§Þa kü thuËt sè 3-2010 44
kết luận ban đầu có tính quy luật như sau:
4.1. Quá trình dịch chuyển đất đá trên bờ dốc
các tuyến đường giao thông vùng đồi núi Tây
Quảng Bình chủ yếu phát sinh, phát triển trên bờ
dốc nhân tạo đã chịu sự tác động của các hoạt động
kinh tế, xây dựng, công trình và đốt phá rừng làm
nương rẫy của con người, chiếm 98,61% tổng số
điểm dịch chuyển trọng lực đất đá được khảo sát,
nghiên cứu. Hầu hết ở bờ dốc quá cao, quá dốc do
thiết kế hoặc thi công chưa phù hợp với đặc điểm
địa chất, hoặc bờ dốc chưa hoàn thiện đều dễ xảy ra
dịch chuyển đất đá. Các khu vực khai thác lâm thổ
sản bừa bãi, chặt phá rừng làm nương rẫy cũng
phát sinh nhiều sụt, trượt và dòng bùn đất đá. Nền
móng công trình không đầm nén tốt dễ sinh sụt lún
nứt vỡ đường và công trình. Các chấn động, rung
động do nổ mìn, đóng cọc, khai đào, máy thi công,
lưu thông của xe tải trọng nặng...là những nguyên
nhân rất quan trọng gây nứt nẻ đất đá, làm xúc tiến
nhanh quá trình phong hoá, giảm lực liên kết giữa
các phân tố đất đá, gây tách phân lớp tại mặt trượt
(mặt đá gốc hoặc đới yếu gần kề), làm giảm mạnh
lực dính kết và góc nội ma sát của đất đá...đặc biệt
là khi các chấn động, rung động tập trung làm gia
tăng mức độ phá hủy và thậm chí lớn hơn nếu là
cộng hưởng (có thể có). Đây là yếu tố trực tiếp góp
phần làm giảm hệ số ổn định bờ dốc và phát sinh,
phát triển DCĐĐ.
Nguyên nhân kịch phát quan trọng nhất làm
phát sinh, phát triển dịch chuyển trọng lực đất đá
trên bờ dốc vùng nghiên cứu là tác động của mưa
nhiều với cường độ lớn và thời gian kéo dài. Thực
tế khảo sát, nghiên cứu cho thấy: QTDCĐĐ hầu
như chỉ xảy ra ồ ạt vào mùa mưa lũ với cường độ
và lượng mưa lớn, kéo dài từ 2 - 4 ngày liên tục,
còn vào mùa khô hiếm khi xảy ra. Mưa lớn vừa tạo
dòng chảy mặt lớn, vừa làm phát sinh dòng ngầm
với áp lực thủy động và thủy tĩnh, cũng như làm
giảm lực kháng cắt của đất đá.
4.2. Về phương diện cấu trúc địa chất: Quá trình
dịch chuyển đất đá xảy ra nhiều nhất trong hệ tầng
La Khê (chiếm 11,57%), Mục Bài (chiếm 14,81%),
Đông Thọ (chiếm 17,13%) và Bãi Dinh (chiếm
17,59%) tổng số các điểm dịch chuyển, ít nhất có
hệ tầng Xóm Nha, Tân Lâm và phức hệ Trường
Sơn. Bề dày tầng phủ vỏ phong hoá của các khối
đất đá dịch chuyển dao động chủ yếu từ 2 đến 10 m
(chiếm 76,65% - xét riêng 197 điểm sụt, trượt và
dòng bùn đất đá).
Khu vực nghiên cứu nằm ở ven rìa phía Đông
Bắc của địa khối Indosini, nơi chịu tác động mạnh
mẽ của các mảng (lục địa Âu-Á ở phía Bắc và
mảng Thái Bình Dương ở phía Đông), nên địa hình
khu vực này đặc trưng cho vùng vừa bị ảnh hưởng
bởi các hoạt động dập vỡ, phá hủy, dịch trượt phức
tạp vừa bị dồn ép nâng lên với cường độ từ yếu đến
trung bình trong giai đoạn Tân kiến tạo, để tạo vùng
núi khối tảng, phân dị cao, hình thành nên nhiều
khối kiến trúc tân kiến tạo có biên độ nâng, hạ, nhiều
hệ thống đứt gãy có tính chất hoạt động khác nhau,
kèm theo là sự xuất hiện nhiều loại hình tai biến địa
chất khác nhau trong đó chủ yếu là QTDCĐĐ trên
bờ dốc. DCĐĐ trên bờ dốc thường xảy ra tập trung
chủ yếu ở khu vực miền núi, nơi khối kiến trúc tân
kiến tạo nâng trung bình và nâng yếu.
Các đứt gãy kiến tạo khu vực nghiên cứu hầu hết
ít nhiều đều có biểu hiện hoạt động trong Kainozoi,
làm cho đá bị vụn nát thành đới rộng 5km đến hơn
10km, tạo điều kiện cho phong hóa phát triển mạnh,
tạo địa hình phân cắt sườn dốc và sâu, chứa các trầm
tích bở rời Neogen - Đệ tứ kéo dài theo phương đứt
gãy. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh,
phát triển các QTDCĐĐ trên bờ dốc.
Điều kiện quan trọng hỗ trợ phát triển
QTDCĐĐ trên bờ dốc là thành phần thạch học,
tính chất cơ lý của đất đá cấu tạo bề dày tầng phủ,
thế nằm của đá (mặt trượt nằm nghiêng), độ dốc và
độ cao tương đối của bờ dốc.
Cấu tạo và thành phần đất đá là yếu tố quan
trọng đối với DCTLĐĐ, vừa là điều kiện hỗ trợ
phát triển, vừa là đối tượng chịu sự biến dạng của
hoạt động dịch chuyển. Các loại đá giàu
alumosilicat dễ bị phong hoá, tích tụ đất loại sét,
thường dễ phát sinh trượt. Các đá có thế nằm
nghiêng đổ xuống đường, dễ phát sinh sụt, trượt,
đổ. Các đới đập vỡ phá hu kiến tạo, gắn kết yếu,
§Þa kü thuËt sè 3-2010 45
phong hoá sâu và triệt để cũng hay bị trượt lớn.
4.3. Quá trình dịch chuyển đất đá trên bờ dốc
thường phát triển mạnh ở khu vực đồi núi, nhất là
các đèo cao, địa hình phân cắt phức tạp, hoạt động
xâm thực bóc mòn mạnh mẽ, nơi lộ đá gốc dễ bị
phong hoá, phá hu do các tác động ngoại sinh,
tích tụ tàn tích, sườn tích dày, đã và đang phát sinh
nhiều khối dịch chuyển cổ và hiện đại. Thực tế đã
chứng minh điều đó, đa số các điểm sụt, trượt lớn
hoặc tương đối lớn chủ yếu tập trung vào các khu
vực có độ cao tuyệt đối địa hình từ 200m đến
500m; đối với địa hình còn lại (dưới 200m hoặc
cao hơn 500m) xảy ra sụt, trượt ít hơn và với quy
mô nhỏ hơn.
Trượt thường xảy ra trong tầng đất sét pha, sét
và chủ yếu là trượt theo mặt phẳng nằm nghiêng
của lớp đá gốc hoặc theo đới yếu gần kề cắm thuận
xuống đường giao thông.
Qua kết quả khảo sát, nghiên cứu và kiểm toán,
có thể khẳng định: những khu vực có góc dốc mặt
trượt nằm nghiêng dưới 200
là những bề mặt thoải
hoặc gần như nằm ngang (bề mặt bóc mòn hoặc
tích tụ), nên không hoặc rất ít xảy ra hiện tượng sụt,
trượt đất đá. Những khu vực có góc dốc địa hình
lớn hơn 650 với bề dày tầng phủ mỏng hoặc rất
mỏng cũng rất ít xảy ra trượt; thường xảy ra đổ đá,
sụt đá và một phần ít sụt đất đá.
Địa hình khu vực nghiên cứu (vùng đồi núi Tây
Quảng Bình) có định hướng không gian chủ yếu
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, vuông góc với
hướng của gió mùa Đông Bắc trong mùa mưa lũ,
cùng với độ cao tuyệt đối lớn đã tạo nên địa hình
với hệ thống vành đai liên tục các sườn núi lý
tưởng đảm bảo chắn gió, đồng thời các thung lũng
có tác dụng hút luồng không khí ẩm từ biển
vào....Do đó, mưa lớn, cường độ cao chủ yếu tập
trung ở khu vực vùng đồi núi phí Tây Quảng Bình.
Đây là điều kiện thuận lợi tạo nguyên nhân kịch
phát các QTDCĐĐ trên bờ dốc.
Các điểm dịch chuyển phát sinh, phát triển nhiều
nhất ở khu vực có độ cao tuyệt đối địa hình trên 200
m (chiếm 65,74%), độ cao sườn dốc tự nhiên từ 10 m
trở lên (chiếm 81,94%) và độ dốc địa hình (góc sườn
dốc tự nhiên) 35 - 650 (chiếm 69,04%). Các khối đất
đá dịch chuyển có quy mô chủ yếu là bé và rất bé
(nhỏ hơn 104 m
3) và chiếm 88,83% tổng số điểm dịch
chuyển. Các khối trượt bé và rất bé xảy ra ở khu vực
có góc dốc mặt trượt cao 300 - 45
0 hoặc > 45
0 ; Các
khối trượt trung bình và lớn xảy ra ở khu vực có góc
dốc mặt trượt bé và vừa từ 200 - 30
0. Các khối sụt đều
có quy mô bé và rất bé và thường phát sinh, phát triển
chủ yếu trên các bờ dốc có góc dốc > 450. Dòng bùn
đất đá có quy mô rất bé và xảy ra chủ yếu trên các
sườn dốc bậc thang và sườn dốc có góc dốc từ 35 -
450; đặc biệt do địa hình chung của cả vùng rừng núi
Trường Sơn dốc, nên trên khu vực nghiên cứu, dòng
bùn đá xảy ra cũng rất ít. Đổ đá và sụt đá với quy mô
rất bé và tần suất xảy ra cũng rất ít. Hiện tượng trượt
đá chưa phát hiện ở khu vực nghiên cứu.
4.4. Theo cơ chế dịch chuyển, loại hình dịch
chuyển đất đá khu vực nghiên cứu chiếm phổ biến
nhất là sụt đất đá (chiếm 77,78 %); trượt đất đá chiếm
8,33%; sụt đá và đổ đá chiếm 8,8%; còn lại là dòng
bùn đất đá chiếm 5,09% tổng số các điểm dịch chuyển.
4.5. Kiểm toán độ ổn định của bờ dốc khi sử
dụng giá trị các đặc tính địa chất công trình của đất
đá trong mùa bất lợi nhất - mùa mưa lũ (trong điều
kiện đất đá bị bảo hoà nước) đều cho thấy các bờ
dốc không ổn định. Do vậy, ngoài việc xác định giá
trị tính chất cơ lý đất bị bão hòa, để có thể dự báo,
đánh giá được mức độ ổn định của sườn dốc, còn
cần phải điều tra xác định vị trí tương đối chính xác
của mặt trượt, mặt tách đứt, các chỉ tiêu cơ lý của
đất ở trạng thái bất lợi nhất, đồng thời cần xét đầy
đủ ảnh hưởng của các yếu tố, đặc biệt là tính chất
và thành phần thạch học của đất đá cấu tạo của tầng
phủ và tầng đá gốc, bề dày tầng phủ, góc dốc mặt
trượt, tác động của nước mặt (nước mưa chảy tràn)
và nước ngầm (khối lượng thể tích, góc nội ma sát,
lực dính kết ở trạng thái tự nhiên và bảo hoà nước).
Đối với vùng núi cao như khu vực nghiên cứu,
phương pháp kiểm toán ổn định theo mặt trượt nằm
nghiêng là phù hợp và đúng với thực trạng điều
kiện địa chất công trình khu vực.
4.6. Việc phòng chống và khắc phục sự cố
DCĐĐ trên bờ dốc có nhiều giải pháp khác nhau,
§Þa kü thuËt sè 3-2010 46
thông thường không thể sử dụng một phương pháp
riêng biệt mà là một tổ hợp nhiều phương pháp,
biện pháp liên kết hữu cơ, bổ trợ lẫn nhau. Tuỳ
thuộc đặc điểm địa chất công trình từng khối dịch
chuyển, điểm dịch chuyển khác nhau mà có các
giải pháp kết hợp khác nhau và đặc biệt phải trên
cơ sở luận cứ khoa học về đặc điểm địa chất công
trình, địa chất thu văn và các yếu tố, nguyên nhân,
điều kiện có liên quan khác của khu vực.
Đối với khu vực nghiên cứu nên áp dụng tổ hợp
biện pháp phòng chống DCĐĐ sau đây: Giải pháp
phi công trình (phòng hộ); san bằng và gia cố bề
mặt bằng cây cỏ; thoát nước mặt và nước dưới đất
bằng hệ thống rãnh đỉnh, rãnh thu nước, rãnh dẫn
thoát nước, hào chắn nước ngầm; xây dựng kè đá,
tường chắn bê tông, tường chắn bê tông cốt thép có
móng trực tiếp hoặc thông qua khoan nhồi cắm sâu
xuống tầng đá gốc và có kết cấu thoát nước.
Trượt trên sườn dốc vùng núi cao chủ yếu là
trượt phẳng hoặc gãy khúc theo mặt phẳng (hoặc
mặt phẳng gãy khúc) nằm nghiêng, nên việc sử
dụng bệ, đê phản áp là không những không có tác
dụng mà ngược lại là vật gia tải (tải trọng ngoài) hỗ
trợ cho quá trình trượt, vì bệ và đê phản áp có tác
dụng tích cực trong điều kiện trượt theo cung tròn
hình trụ (đối với đất đá đồng nhất) và với nguyên lý
cân bằng moment gây trượt và chống trượt.
Tường chắn có tác dụng đối với những bờ dốc
có góc nghiêng của mặt trượt lớn hơn 300 (là những
nơi có bề dày tầng phủ mỏng, đá gốc lộ ra gần mặt
đường) và hầu như không có tác dụng đối với các
bờ dốc có góc dốc mặt trượt nhỏ hơn 300 (nơi có bề
dày tầng phủ lớn) nếu móng tường chắn không trực
tiếp gắn kết sâu xuống tầng đá gốc hoặc gián tiếp
thông qua cọc khoan nhồi liên kết đến tầng đá gốc
(đây là một thực tế đang diễn ra khá phổ biến), đặc
biệt là đường giao thông đi qua giữa thân trượt.
Khi quy hoạch, thiết kế đường giao thông đi qua
vùng núi nên chọn bờ dốc có thế nằm đá gốc cắm
vào sườn dốc (không cắm thuận hướng xuống
đường), đặc biệt không được đi qua thân trượt.
Trong trường hợp bất khả kháng có thể chọn
phương án đi qua chân thân trượt, nhưng phải có
biện pháp xử lý phù hợp.
4.7. Kết quả đánh giá, dự báo trượt lở đất đá trên
bờ dốc đường giao thông vùng đồi núi Tây Quảng
Bình theo phương pháp ma trận định lượng cường độ
tác động tương hỗ các yếu tố ảnh hưởng cho thấy:
Trên sườn dốc, mái dốc khu vực đường 12A
(đoạn từ ngã ba Khe Ve Km 104 đến Cửa khẩu
quốc tế Cha Lo Km 142), đường HCM đoạn
Km 852+ 640 đến Km 876 + 146, đường HCM
đoạn Đèo Đá Đẻo (Km 917+387 đến Km
933+882), nhánh Tây đường Hồ Chí Minh nói
chung, cường độ trượt lở đất đá diễn ra ở mức
độ rất yếu vào mùa hè và ở mức độ trung bình
vào mùa mưa lũ (riêng khu vực đường 12A và
đường HCM đoạn Đèo Đá Đẻo ở phân độ cao -
tiệm cận mức độ mạnh vào mùa mưa lũ).
Trên các bờ dốc đường xuyên Á, nhánh Đông
đường Hồ Chí Minh, đường TL 20 nói chung,
cường độ trượt lở đất đá diễn ra ở mức độ rất yếu
vào cả mùa hè và mùa mưa lũ.
Trên các bờ mái dốc đường TL 11, đường TL
10 nói chung, cường độ trượt lở đất đá diễn ra ở
mức độ rất yếu vào mùa hè và ở mức yếu vào mùa
mưa lũ (đối với TL 10, mức độ yếu ở phân độ cao -
tiệm cận gần mức độ trung bình vào mùa mưa lũ).
Kết quả đánh giá, dự báo nói trên hoàn toàn phù
hợp với thực trạng trượt lở đất đá khu vực nghiên
cứu trong thời gian qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghiêm Hữu Hạnh. “Một số giải pháp quản
lý, phòng chống tai biến trượt lở ở vùng núi Việt
Nam”, Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học toàn
quốc về tai biến địa chất và giải pháp phòng
chống, NXBXD, Hà Nội, 2008.
2. Lomtadze V.Đ. Địa chất công trình - Địa
chất động lực công trình, NXB Đại học và trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1982.
3. Sở Giao thông Vận tải Quảng Bình. Báo
cáo thiệt hại bão, lụt năm 2005, 2006, Quảng
Bình, 2006.
4. Doãn Minh Tâm. “Tăng cường các giải
pháp thiết kế để phòng chống, giảm nh thiệt hại do
§Þa kü thuËt sè 3-2010 47
hiện tượng đất sụt gây ra trên đường giao thông”,
Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học toàn quốc về
tai biến địa chất và giải pháp phòng chống,
NXBXD, Hà Nội, 2008.
5. Nguyễn Thanh. Tập bài giảng dành cho học
viên cao học chuyên ngành địa chất, Trường Đại
học Khoa học Huế, 2007.
6. Unesco working party on world landslide
inventory (1993), “A suggested method for
desdribing the activity of a landslide”, Bullentin of
Engineering Geology and the Environment,
Springer Berlin / Heidelberg, France 4/1993.
Người phản biện: PGS.TS. NGUYỄN SỸ NGỌC
THI£N TAI TR¦îT Lë §ÊT ë QU¶NG NAM, QU¶NG NG·I
Vµ MéT Sè PH¦¥NG PH¸P Dù B¸O
Ng« C¶nh Tïng*, NguyÔn h÷U N¨m*,
Nghiªm H÷u H¹nh**
Natural landslide disasters in Quang Nam, Quang Ngai and some
methods of warnings
Abatract: For some decades, natural landslides disasters frequently
occuring in the Central coastal areas have caused heavy loss of human
life and properties. Landslides are of natural disaster phenomena occuring
in these areas. The authors innitially enterprete the reason causing
landslides in the provinces of Quang Nam,Quang Ngai wher landslides
are considered relatively strong.In this article some assesment methods ,
warning on landslides are also raised by the authors.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong mấy thập k gần đây, trượt lở đất xảy
ra mạnh mẽ và phổ biến ở vùng núi các tỉnh
duyên hải miền Trung nói chung, các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi nói riêng [4,6]. Tại
đây, trong mùa mưa lũ năm 2004, đã xảy ra
hàng trăm vụ trượt lở núi. Đặc biệt là trên các
tuyến giao thông lên các huyện vùng núi cao,
các vụ trượt lở vùi lấp đường giao thông, rất
nguy hiểm cho người đi đường. Tại núi Đầu
Voi, xã Tiên An, huyện Tiên Phước, vào mùa
mưa năm 2005, đã xuất hiện những khe nứt
chạy dài gần 3km ở lưng chừng núi, một phần
trái núi đã đổ sập vùi lấp một số nhà dân, hơn
30 ngôi nhà dân dưới chân núi có nguy cơ bị vùi
lấp bất kể lúc nào. Trong mùa mưa năm 2007,
mưa lớn kéo dài gây sạt lở trên 100 điểm trên
tuyến đường Hồ Chí Minh qua Quảng Nam,
Quảng Ngãi
Theo Wikipedia [11], thiên tai trượt lở là
hiệu ứng của trượt lở - một dạng tai biến tự
nhiên, xảy ra một cách tự nhiên có những tác
động tiêu cực đến con người hoặc môi trường.
Trượt lở đất rộng khắp ở các tỉnh miền Trung,
đặc biệt là tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, gây
thiệt hại đáng kể về người và của cũng như
hu hoại môi trường, đã thực sự là một loại
thiên tai phổ biến, đang được nhiều tổ chức và
cá nhân nghiên cứu, đánh giá [3,4,6,7,8,9].
Bài báo này phân tích yếu tố, nguyên nhân
gây trượt và giới thiệu một số giải pháp có thể
* Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
181 Tây Sơn - Đống Đa - Hà Nội
DĐ: 0982383735, 0982999199 **
Viện Địa kỹ thuật
38 Bích Câu, Đống Đa, Hà Nội
DĐ: 0913554386
§Þa kü thuËt sè 3-2010 48
sử dụng để đánh giá, dự báo trượt lở ở khu
vực này.
2. NGUYÊN NHÂN GÂY TRƢỢT LỞ
Như đã biết, trượt lở có thể xảy ra khi điều
kiện cân bằng của khối đất đá ở sườn dốc bị phá
hủy. Nguyên nhân gây trượt có thể hoặc là do
độ bền của đất đá bị giảm đi, hoặc là do trạng
thái ứng suất ở sườn dốc bị thay đổi theo chiều
hướng bất lợi, hoặc do cả hai nguyên nhân trên.
Theo Lomtadze [5], các nguyên nhân gây trượt
thường là: tăng cao độ dốc của sườn dốc khi cắt
xén, khai đào hoặc xói lở, khi thi công mái quá
dốc; giảm độ bền của đất đá do biến đổi trạng
thái vật lý khi tẩm ướt, trương nở, giảm độ chặt,
phong hoá, phá hu kết cấu tự nhiên, các hiện
tượng từ biến trong đất đá; tác động của áp lực
thu tĩnh và thu động lên đất đá gây nên biến
dạng thấm (xói ngầm, chảy trôi, biến thành
trạng thái cát chảy .v.v.); biến đổi trạng thái ứng
suất của đất đá ở trong đới hình thành sườn dốc
và thi công mái dốc; các tác động bên ngoài như
chất tải trên sườn dốc, dao động địa chấn và vi
địa chấn, v.v. Mỗi một nguyên nhân riêng biệt
kể trên đều có thể làm mất cân bằng của các
khối đất đá ở sườn dốc, nhưng thông thường là
do tác động đồng thời của một số trong những
nguyên nhân đó. Trong vùng nghiên cứu các
nguyên nhân nêu trên có thể được thể hiện như
một số phân tích sau đây.
1. Độ dốc của sườn dốc. Khi các điều kiện
khác như nhau, độ dốc quá lớn của sườn dốc là
một trong những nguyên nhân cơ bản, thường là
chủ yếu, trong sự phá hu cân bằng các khối đất
đá ở sườn dốc. Trên quan điểm nguồn gốc và
hình thái địa hình, khu vực nghiên cứu có thể
phân chia ra 6 dạng địa hình khác nhau. Các
dạng có địa hình phân cắt mạnh, độ cao tuyệt
đối của địa hình từ 1.000 đến 2.500m, chiều sâu
phân cắt của địa hình lớn nhất 1.000 - 1.200m,
các sông suối bắt nguồn từ sườn các hệ thống
núi cao lòng sông suối thường dốc và có dạng
chữ V, sườn sốc của địa hình từ 30o đến 60
o rất
thuận lợi cho các quá trình trượt lở.
Khi phân tích điều tra hiện trạng trượt lở đất do
thiên tai gây ra ở Quảng Ngãi năm 1999, Nguyễn
Văn Lâm và nnk [4] cho thấy các điểm trượt lở
đất tập trung chủ yếu ở cao độ 100-400m, tại độ
cao trên 400m, hầu hết là các khối trượt dòng.
Theo độ dốc địa hình, trong 59 điểm khảo sát có
37 điểm trượt xảy ra ở độ dốc 10-30o, chiếm
62,7% 22 điểm xảy ra ở độ dốc cao hơn 30o,
chiếm 37,3%. Các tác giả cũng nhận định rằng các
khối trượt ở độ dốc trên 30o thường là các khối
trượt dòng. Trên tuyến đường Hồ Chí Minh, điều
tra các khối trượt lở trong các năm 2003-2004 [3]
cho thấy các khối trượt xuất hiện trên sườn núi có
độ cao 300-700m ở Quảng Nam, 1.000-1.500m ở
Quảng Ngãi, ứng với độ dốc của sườn núi khoảng
từ 25o đến 45
o.
Khi những điều kiện khác như nhau, sự tăng
độ dốc của sườn dốc do tác động của các yếu tố
thiên nhiên hoặc nhân tạo có thể trở thành
nguyên nhân phá hu ổn định của đất đá trên
sườn dốc ấy do trị số của lực gây trượt tăng lên.
Nghiên cứu trượt lở trên đường Hồ Chí Minh
cho thấy, các ta luy đường đã làm tăng góc dốc
của sườn dốc và là một trong những nguyên
nhân gây trượt đáng được quan tâm [3,6,9].
2. Giảm độ bền của đất đá. Một trong những
nguyên nhân thường gặp trong sự thành tạo
trượt là sự giảm độ bền của đất đá do biến đổi
trạng thái vật lý của chúng khi ẩm ướt, trương
nở, giảm độ chặt, phong hoá, phá hoại kết cấu tự
nhiên, cũng như liên quan với quá trình phát
triển hiện tượng từ biến [5,10].
Trong quá trình hình thành và tồn tại, đất đá đã
trải qua những chu kỳ hoạt động kiến tạo phức
tạp, tạo nên miền núi uốn nếp Bắc Trung Bộ có
mặt phức nếp lồi đoản Phú Hoạt, phức nếp lõm
sông Cả, võng chồng Sầm Nưa và phức nếp lồi
Trường Sơn. Các lớp đất đá bị nâng - hạ, uốn
lượn, vò nhàu, cà nát và phân cách bởi các hệ đứt
gãy, nứt nẻ khác nhau, tạo nên các mặt yếu trong
khối đất đá ở sườn dốc. Sự ổn định của sườn dốc
phụ thuộc nhiều vào thế nằm và tính chất cơ học
của các mặt yếu này. Những trường hợp mà mặt
§Þa kü thuËt sè 3-2010 49
phân lớp của các loại đá sét, các đứt gẫy, các hệ
khe nứt lớn cắm ra phía không gian ngoài sườn
dốc là những trường hợp tiềm ẩn nguy cơ trượt lở.
Thống kê các điểm trượt năm 2003-2004 trên
tuyến đường Hồ Chí Minh cho thấy, trượt lở ở
Quảng Nam, Quảng Ngãi lại phổ biến trên các hệ
thống đứt gãy Đông - Tây và Bắc - Nam [3,6].
Các quá trình phong hoá có ảnh hưởng rất
lớn đến sự biến đổi trạng thái vật lí của đất đá ở
sườn dốc. Tuỳ thuộc vào mức độ phong hoá mà
nhiều tính chất của đất đá, như khối lượng thể
tích, độ rỗng, độ khe nứt, độ hấp thụ nước và độ
bền..., bị biến đổi. Trong 86 điểm trượt ở Quảng
Ngãi năm 1999, có 50 điểm trượt, chiếm 58%
xảy ra trong đới phong hoá dày dưới 2m, còn lại
là những điểm trượt có khối lượng lớn xảy ra
trong đới phong hoá dày trên 2m [4]. Vùng Bắc
Trung Bộ là vùng mưa nhiều, lớp phủ thực vật
tương đối dày, vỏ quả đất được cấu tạo chủ
yếu bởi các thành tạo trầm tích vụn kết, vụn
kết sinh hoá, vụn kết phun trào v.v..., nhưng
do địa hình cao, quá dốc, sườn ngắn, sông
ngòi chia cắt nên chiều dày vỏ phong hoá
không lớn (ít khi vượt quá 20 - 40m) ngay cả
ở vùng núi thấp [1].
Sự biến đổi trạng thái vật lý của đất đá, nhất là
đất đá loại sét như ở vỏ phong hoá, có khuynh
hướng dễ bị trượt ở trên sườn dốc, thường quan
sát thấy khi chúng bị tẩm ướt bằng nước mưa,
nước mặt và nước dưới đất. Sự tẩm ướt đất đá
trước hết làm tăng trọng lượng đất đất đồng thời
làm giảm độ bền của chúng. Chẳng hạn, đất sét,
sét pha trong đới phong hoá ở sườn dốc vùng núi
Quảng Ngãi với độ ẩm tự nhiên là 19-41%, khối
lượng thể tích tự nhiên là 1,34-1,45g/cm3, khi bị
bão hoà đã tăng lên đến 1,69-1,83g/cm3, tăng 10-
15% [4]. Đối với một số mẫu đất đá phong hoá kể
trên, góc ma sát trong ở trạng thái tự nhiên là 18-
21o đã giảm xuống còn 13-17
o khi bão hoà (giảm
2-7o), còn lực liên kết đơn vị giảm từ 26-43 kPa
xuống còn 6-16 kPa [3,4,6,9]. Sự giảm sức chống
cắt khi tăng độ ẩm gặp trong tất cả các đất đá loại
sét và biểu hiện càng mạnh mẽ khi đất đá càng dễ
bị tan rã và càng kém ổn định đối với nước. Một
vài loại đất sét có tính trương nở mạnh, thể tích
của nó tăng lên đến 25 - 30% [6].
Nhiều quan sát trên khu vực khác nhau đều
phát hiện thấy mối liên quan chặt chẽ của các chu
kỳ dịch chuyển trượt mạnh và rộng khắp trên sườn
dốc và mái dốc với các thời kỳ mưa lớn, kéo dài,
mực nước cao trong các vực nước và nhiều dạng
xuất lộ nước dưới đất. Điều đó lại một lần nữa
chứng minh mối liên hệ có tính chất nhân quả của
sự phát sinh trượt với sự biến đổi trạng thái vật lý,
tính chất của đất đá khi bị tẩm ướt [5].
Sự tẩm ướt, phơi khô đất đá lặp đi lặp lại nhiều
lần cũng như do sự dịch chuyển có chu kì và các
nhân tố nhân tạo khác đều có ảnh hưởng không
nhỏ đến sự biến đổi trạng thái và tính chất của đất
đá, đặc biệt là đất đá loại sét. Sự tẩm ướt, phơi khô
đất đá nhiều lần do ảnh hưởng của ứng suất co
ngót làm cho đất đá khô nẻ, vụn rời.
Như đã biết, đá nửa cứng và đất sét đều có
khả năng biến đổi độ bền, bị biến dạng theo thời
gian và chính vậy làm cho nhiều quá trình khác
phát triển, đặc biệt là quá trình trượt. Cho nên,
khi nghiên cứu nguyên nhân hình thành trượt
trong các loại đất đá này, cần xét tới tính chất lưu
biến của chúng. Nhiều công trình nghiên cứu đã
chứng minh sự giảm độ bền của đá nửa cứng và
đất loại sét theo thời gian có thể tới 70% so với
độ bền tức thời và 10 - 50% so với độ bền tiêu
chuẩn (cắt chậm) [5,6].
3. Tác động của lực thuỷ tĩnh, thuỷ động. Do
đặc điểm cấu trúc địa chất, đặc biệt là thành phần
thạch học của đất đá và đặc điểm địa hình h p,
dốc của miền núi uốn nếp Trung Bộ nên khả
năng chứa nước và tàng trữ nước của các thành
tạo đá cứng rất kém, mực nước dưới đất thường
nằm sâu hơn 10m dưới mặt đất. Ở khối đất đá
nằm bên dưới mực nước mặt và nước dưới đất,
các hạt khoáng bị tác động đẩy nổi của nước, do
đó trọng lượng của nó bị giảm đi và trong trạng
thái bị đẩy nổi, trọng lượng của nó không đủ để
giữ yên các khối đất đá nằm trên. Đất đá nằm
trên gần như mất điểm tựa, bắt đầu dịch chuyển
§Þa kü thuËt sè 3-2010 50
và làm cho phần đất đá ở trạng thái đẩy nổi bên
dưới bị trượt. Ngoài ra, đất đá ở trạng thái đẩy
nổi cũng làm giảm ứng suất pháp hữu hiệu ở mặt
trượt làm cho sức chống cắt của đất đá ở sườn
dốc giảm đi và có thể tạo nên sự mất ổn định gây
ra trượt lở. Áp lực thu tĩnh cũng gây ảnh hưởng
lớn đối với độ ổn định của sườn dốc cấu tạo bởi
đá cứng bị nứt nẻ, đá nửa cứng và đất sét nén
chặt. Trong mùa mưa, mực nước ngầm khe nứt
ở những khu vực riêng biệt dâng cao lên nhiều và
áp lực thu tĩnh tác dụng lên thành khe nứt cũng
tăng lên. Nhiều khối trượt trong các loại đất đá
nứt nẻ phát sinh ngay trong thời kỳ dâng cao đột
ngột mực nước dưới đất.
Vai trò của áp lực thu động trong sự phát sinh
trượt ở một số nơi trên sườn dốc là đáng kể. Áp lực
thu động hướng theo phương dòng thấm và có giá
trị càng lớn khi độ thấm nước của đất càng bé.
Trong những thời gian biến đổi đột ngột gradient
áp lực, áp lực thu động có thể là nguyên nhân phá
hu ổn định của đất đá ở sườn dốc. Nếu vào thời
gian lũ mực nước ở sông dâng cao đột ngột và
ngập phần dưới của sườn dốc, và sau đó lại hạ thấp
đột ngột thì trong đất đá thấm nước, đặc biệt là đất
đá thấm nước yếu, sẽ phát sinh áp lực thu động,
nhưng trong điều kiện thấm ngược lại. Tổng của
lực gây trượt T trên mặt sườn dốc được bổ sung
thêm áp lực thu động Dtđ và hệ số ổn định của
sườn dốc bị giảm đi. Dưới ảnh hưởng của các hiện
tượng thấm đó, các khối đất đá trong phần dưới của
sườn dốc mất điểm tựa và bắt đầu dịch chuyển, có
thể làm phát sinh trượt. Khi đó, hệ số ổn định có
thể được xác định theo công thức sau [5]:
tdD.1T
cLfN
,
trong đó:
N, T - các thành phần lực pháp tuyến và tiếp
tuyến của phân tố đất đá trên mặt sườn dốc,
f, c - hệ số ma sát và cường độ lực liên kết
trên đoạn L của sườn dốc,
Dtđ - áp lực thu động, Dtd = In, I - gradient
thu lực ở điểm ra của dòng nước ngầm.
Lượng mưa lớn kéo dài là nguồn bổ sung
quan trọng cho nước dưới đất. Một mặt làm giảm
độ bền khối đất đá sườn dốc, mặt khác làm thay
đổi trạng thái ứng suất theo hướng có hại cho ổn
định sườn dốc. Dưới tác dụng của các dòng chảy
mặt, bề mặt bờ dốc sẽ bị bào mòn, các công trình
bảo vệ bị phá hoại, do đó khả năng mất ổn định
của sườn dốc tăng lên. Do vậy, cùng với mưa
lớn, hiện tượng trượt lở phát triển mạnh mẽ.
Nhiều vụ trượt lở lớn ở vùng núi các tỉnh duyên
hải miền Trung liên quan tới các trận mưa lớn và
nhiều khu vực trượt lở thường trùng với những
vùng có lượng mưa lớn như nêu ở bảng 1.
Bảng 1. Các trận mƣa và trƣợt lở lớn ở các tỉnh duyên hải miền Trung [2, 6]
STT Thời gian Địa điểm trượt lở Lượng mưa 1 trận Lượng mưa năm
1 11 - 1964 Quế Sơn, Quảng Nam 300 - 1000mm 2.500-3.500mm
3 12 - 1986 Sơn Trà, Quảng Ngãi 500 - 1227mm 2.500-3.500mm
5 11 - 1999 Phú Lộc, Thừa Thiên Huế gần 1000mm 2.400-3.000mm
6 9 - 2002 Hương Sơn, Hà Tĩnh 500-700mm 2.400-3.20mm
4. Sự thay đổi trạng thái ứng suất ở sườn dốc
do dở tải. Đất đá trong điều kiện thế nằm tự
nhiên thường ở trong trạng thái ứng suất nào đó
cân bằng với các lực bên trong của đất đá.
Nhưng nếu có sự thay đổi các điều kiện của môi
trường xung quanh, thì ứng suất trong đất đá sẽ
giảm xuống và bị phân tán. Thí dụ, ở bề mặt đất
thường xảy ra hiện tượng giải thoát các lực nén
vốn có hoặc tàn dư ở trong bờ và đáy thung lũng
sông, trong sườn và các khối đá, trong mái dốc
khai đào ta luy đường sắt, đường bộ, trong bờ
mỏ, bờ dốc các hố móng công trinh, v.v. Giải
§Þa kü thuËt sè 3-2010 51
thoát ứng suất trong khối đá dẫn tới sự mở rộng
khe nứt và làm xuất hiện những khe nứt thoát tải
mới - dãn nở đàn hồi, phát triển gần song song
với mặt sườn dốc và tạo nên nhiều mặt và đới
yếu. Càng gần mặt đất, các khe nứt đó càng
nhiều và càng thể hiện rõ hơn; ngược lại, càng
xuống sâu, khe nứt càng hiếm, càng khó nhận
biết. Nếu bề mặt xuất lộ của đá song song với
mặt phân lớp hoặc phân phiến, thì khe nứt thoát
tải phát triển theo mặt phân lớp và phát triển song
song với mặt sườn dốc. Nói chung, khe nứt thoát
tải luôn luôn định hướng bất lợi đối với sự ổn
định sườn dốc và cũng vì thế mà chính theo
những khe nứt thoát tải dạng đường xảy ra sự
dịch chuyển đất đá và hình thành địa hình sườn
dốc bậc thang, trượt kiến trúc và đổ đá.
5. Sự gia tải trên sườn dốc. Xây dựng nhà
cửa, công trình trên bờ dốc, kho bãi vật liệu, vun
đắp các bãi thải, đắp đường, hoạt động của
nhiều phức hợp máy móc (cần trục, máy xúc,
băng chuyền, vận tải ô tô và xe lửa), công tác
khoan nổ thường làm giảm độ ổn định và gây ra
hiện tưởng chuyển dịch đất đá. Động đất gây ra
gia tốc địa chấn và sự dịch chuyển đất đá trong
một đơn vị thời gian và do đó tăng lực cắt, có
ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn định của bờ dốc
và mái dốc.
3. MỘT SỐ PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ,
DỰ BÁO NGUY CƠ TRƢỢT LỞ
3.1. Đánh gía ổn định trƣợt của một khối trƣợt
Đánh giá độ ổn định trượt phải là sự đánh giá
tổng hợp thường là định tính và cuối cùng là định
lượng [5]. Để đánh giá định lượng ổn định trượt
có thể sử dụng phương pháp tính chặt chẽ (theo
trạng thái ứng suất biến dạng) và phương pháp
thực hành theo lý thuyết cân bằng giới hạn [2,10].
Về nguyên lý, tính toán theo trạng thái ứng
suất-biến dạng, cần xuất phát từ luận điểm cho
rằng trường ứng suất tại mỗi điểm trong khối đất
đá ở bờ dốc phải thoả mãn điều kiện cân bằng tĩnh
học (trong điều kiện bài toán động phải tính đến
gia tốc dịch chuyển). Như chúng ta thường biết,
đất đá ở sườn dốc, trừ một số trường hợp bờ dốc
được tạo nên do đắp đất đồng chất, thường là
không đồng nhất, đẳng hướng và do vậy, bức
tranh về mối quan hệ ứng suất-biến dạng của cả
sườn dốc sẽ trở nên phức tạp, đa dạng tuỳ thuộc
vào đặc tính biến dạng của từng nhóm đất đá có
mặt trong khu vực. Hơn nữa, bờ dốc là một phần
của vỏ Trái Đất, các phân tố trong nó chịu tác
dụng của ứng suất trọng lực và các trường ứng
suất khác, như ứng suất kiến tạo, ứng suất địa
hình... Nếu chỉ xét nguyên tác dụng của ứng suất
trọng lực thôi, thì bất kỳ một nhóm đất đá nào đó,
tuỳ thuộc vào độ sâu từ mặt bờ dốc, cũng có thể
ứng xử theo mô hình của vật thể đàn hồi, đàn dẻo,
dẻo, chảy, từ biến... Việc mô tả ứng xử thực tế của
các nhóm đất đá đó đã trở thành một rào cản khó
khắc phục để sử dụng phương pháp tính theo ứng
suất-biến dạng.
Khác với phương pháp tính toán theo trạng thái
ứng suất - biến dạng, phương pháp cân bằng giới
hạn dựa vào những khái niệm gần đúng của sự
phân tích ứng suất và một số tiền đề suy luận về
đặc tính biến dạng của khối đất đá ở bờ dốc. Cho
đến nay, các phương pháp này vẫn là cơ sở thực
tiễn có hiệu quả nhất để tính toán bờ dốc cho
những trường hợp cụ thể [6,8,10,13].
Về lý thuyết, hệ số an toàn khi >1 lăng thể
đang xét ở trạng thái ổn định, =1 lăng thể
đang xét ở trạng thái cân bằng, <1 lăng thể
đang xét ở trạng thái mất ổn định. có thể được
tính bởi công thức đơn giản sau [13]:
i
iiiii
T
lctgDN
Σ
Ση
trong đó: Ni, Ti, Di - tương ứng là lực pháp
tuyến, lực tiếp tuyến, lực đẩy của nước dưới đất
kể từ mặt trượt ở thỏi thứ i, ci - cường độ lực
liên kết của thỏi thứ i ở mặt trượt, li - chiều dài
mặt trượt của thỏi thứ i.
Từ công thức trên thấy rằng sự trượt đất xảy
ra khi sức chống cắt của đất bị giảm đi, khi mực
nước dưới đất tăng lên thì trị số (N-D) giảm đi
và khi tăng độ dốc của bờ dốc thì lực gây trượt
T tăng lên. Vào mùa mưa, sức chống cắt của đất
đá giảm đi do bị bôi trơn, trạng thái ứng suất bất
§Þa kü thuËt sè 3-2010 52
lợi do áp lực thu tĩnh, thu động gia tăng ở mặt
trượt, nước mưa gây xói bề mặt làm tăng độ dốc
của bờ, làm cắt chân bờ dốc, nước mưa chảy
trên sườn dốc và ngấm vào đất như một phụ tải
tác dụng trên bờ dốc… Các tác giả [2,34,6,9]
đều ghi nhận được hiện tượng trượt lở phát triển
rất mạnh mẽ và rộng khắp ở khu vực Quảng
Nam, Quảng Ngãi, nơi có lượng mưa lớn và tập
trung vào mùa mưa. Với biến đổi khí hậu, như
đã nhận xét ở trên, tính cực đoan của mưa về cả
chỉ số lẫn t lệ thay đổi theo các tháng, theo địa
phương khá rõ ràng. Kèm theo đó, diễn biến của
các tai biến trượt lở sẽ càng trở nên phức tạp
hơn, khó đánh giá hơn [2].
2.2. Dự báo nguy cơ trƣợt lở khu vực
Khảo sát bước đầu cho thấy, trượt lở xảy ra
hầu hết các tỉnh duyên hải miền Trung nước ta.
Do vậy, cần hướng tới việc dự báo thiên tai trượt
lở khu vực. Đây là một vấn đề tương đối mới mẻ
đối với nước ta. Kết quả và kinh nghiệm nghiên
cứu chưa có nhiều. Để dự báo nguy cơ trượt lở
khu vực các tỉnh duyên hải miền Trung, cần phân
tích các nhóm yếu tố ảnh hưởng, mà theo chúng
tôi, có thể chia thành các nhóm chính gồm các
điều kiện địa hình, địa chất và mưa.
Phụ thuộc vào loại đất đá, các tác giả [12]
chia ra hai nhóm: bờ dốc đất và bờ dốc đá.
Đối với bờ dốc đất có 10 yếu tố ảnh hưởng,
trong đó có 5 yếu tố địa chất 2 yếu tố địa hình
và 3 yếu tố sinh vật. Đó là:
Các yếu tố địa chất:
1. Đất rời không bị phá hu cấu trúc, tính chất
của đất bị thay đổi dưới tác động của nước, phong
hoá, ngoại tải và tác động của các sinh vật
2. Thế nằm: có sự phân lớp, góc nghiêng của
lớp đất không thuận lợi, có các lớp đất yếu, khi
bị ẩm dễ hình thành các mặt trượt
3. Đều kiện địa chất thu văn có các tầng
nước ngầm và tầng nước có áp làm thay đổi tính
chất của đất, tạo mặt trượt, tăng cường quá trình
phong hoá, giảm sức chống cắt của đất
4. Sự phong hoá có tác dụng giảm tính chất
cơ lý của đất đá, đất dễ bị làm ẩm do mưa; đất
phong hoá dễ bị xói mòn do nước mặt, làm tăng
độ phân cách của địa hình.
5. Tải trọng tác dụng có thể là tải trọng tĩnh
của đất đá, công trình và tải trọng động, như
động đất
Các yếu tố địa hình:
6. Bờ dốc có góc dốc lớn, có dòng nước mặt,
nước ngầm làm tăng quá trình xói mòn, tăng độ
ẩm của đất làm giảm sức chống cắt của đất
7. Bờ dốc rất dốc, dễ bị xói lở và trượt mái dốc
Các yếu tố sinh vật:
8 Các tác động kỹ thuật như dạng, cường độ
tiến hành các công trình trên sườn dốc có thể
làm phát sinh những tải trọng bất lợi gây trượt
9. Thảm thực vật bị phá hu gây ra sự xói
mòn bề mặt
10. Hoạt động cuả động vật: tạo nên các hang
hốc, làm tơi xốp đất cục bộ, đẩy nhanh quá trình
xói mòn.
Mười yếu tố trên được cho điểm bằng 1 như
nhau. Yếu tố nào không có thì cho 0 điểm. Tổng
cộng điểm các yếu tố đó được hệ số ảnh hưởng
KB. T số giữa KB và 10 được gọi là mức độ
nguy hiểm A, theo đó dự báo được nguy cơ
trượt lở của vùng nào đó theo bảng 2.
Bảng 2. Xác định mức độ nguy hiểm đối với trƣợt sƣờn dốc đất [12]
Mức độ nguy hiểm A Cấp nguy cơ Đánh giá ổn định
0,000- 0,300 I Ổn định cao
0,301-0,500 II Ổn định tốt đến trung bình
0,501-0,700 III Ổn định không cao
§Þa kü thuËt sè 3-2010 53
0,701-1,000 IV Kém ổn định
Đối với bờ dốc đá, sự ổn định của sườn núi
phụ thuộc vào cấu trúc mặt gián đoạn, thành
phần và tính chất của các chất lấp nhét trong
các gián đoạn, góc dốc của sườn núi, đặc điểm
địa chất thu văn...và có thể được đánh giá
qua 15 thông số ảnh hưởng đến mức độ an
toàn của bờ dốc đá như ở bảng 3.
Hệ số mức độ nguy hiểm OCO được xác
định bằng cách lấy tổng số điểm lớn nhất có thể
có DCT chia cho tổng số điểm có được DCD
qua khảo sát:
DCD
DCTOCO
Cấp độ nguy hiểm được đánh giá theo OCO,
như ở bảng 4.
Bảng 3. Đánh giá mức độ nguy hiểm cho bờ dốc đá [12]
No Đặ c điể m sư ờ n dố c Điể m đánh giá
6 4 2 0
1 Chiều cao, m <3 3-6 6-12 >12
2 Góc nghiêng củ a bờ
dố c, độ
<30 30-45 45-60 >60
3 Bề mặ t sư ờ n dố c phẳ ng không phẳ ng có bậ c có bậ c, có
bậ c treo
Điều kiệ n đị a chấ t Điể m đánh giá
3 2 1 0
4 Mứ c độ dỡ tả i củ a
đấ t đá
dỡ tả i dỡ tả i
hoàn toàn
5 Bề mặ t phân cách có
thể xả y ra trư ợ t
tư ơ i phong hoá
theo bề
mặ t
phong hoá phong hoá
6 Tầ n số khe nứ t/m 1 1-10 11-100 >100
7 Chiều dài khe nứ t, m <0,1 0,1-1,0 1,1-10 >10
8 Modul khe nứ t, % <1 1-3 3-5 >5
9 Độ mở khe nứ t, cm 0,0 <0,5 0,5-1,0 >1
10 Đặ c điể m bề mặ t
thành khe nứ t
không phẳ ng không phẳ ng,
nhẵ n
phẳ ng, nhám phẳ ng,
nhẵ n
11 Chấ t lấ p nhét không có có góc
cạ nh, hạ t,
khô
hạ t tròn
cạ nh, ẩ m
đấ t dẻ o
12 Nư ớ c khe nứ t không có điể m lộ
đơ n
có chu kỳ
tạ i mộ t
số điể m
thư ờ ng
xuyên trên
bờ dố c
13 Thự c vậ t làm tơ i
đấ t
không có ả nh hư ở ng
không đáng
kể
ả nh hư ở ng
xấ u cho
mặ t phân
cách
trên toàn
bờ dố c
§Þa kü thuËt sè 3-2010 54
No Đặ c điể m sư ờ n dố c Điể m đánh giá
6 4 2 0
14 Góc nghiêng củ a khe
nứ t vào phía bờ ,
độ
0-30 30-50 50-70 70-90
15 Thể tích khố i đá
không ổ n đị nh trên
bờ dố c, m3
không có < 1,0 1,0-3,0 >3,0
Bảng 4. Đánh giá cấp độ nguy hiểm của bờ
dốc theo hệ số mức độ nguy hiểm OCO [12]
OCO Cấp độ nguy hiểm
1,00- 1,40 I (nhỏ nhất)
1,41-1,99 IIa (trung bình)
2,00-2,50 IIb (trung bình)
>2,50 III (lớn nhất)
Trên cơ sở dự báo nguy cơ trượt lở, có thể
khoanh được những vùng có nguy cơ trượt lở
theo các cấp độ khác nhau. Phương pháp dự
báo trên đã xét khá đầy đủ các yếu tố ảnh
hưởng. Tuy nhiên, yếu tố tác động của nước
mưa còn mờ nhạt và nằm trong các yếu tố
khác, như nước mặt, nước ngầm, độ ẩm của
đất đá... Do đó yếu tố này cần được nghiên
cứu bổ sung.
4. KẾT LUẬN
1. Ở vùng núi các tỉnh duyên hải miền Trung,
với các điều kiện: địa hình phân cắt mạnh, sườn
núi khá dốc, cấu trúc địa chất phức tạp bởi nhiều
đứt gãy, đất đá bị uốn nếp vò nhàu, phong hoá,
lượng mưa lớn và tập trung, tai biến trượt lở là
rất phổ biến. Chúng thường xảy ra mạnh mẽ vào
mùa mưa bão với những trận mưa lớn, thường
liên quan tới hoạt động dân sinh kinh tế như làm
đường, phá rừng..., gây ra những hậu quả nặng
nề, gây thiệt hại về người và của. Cùng với sự
biến đổi khi hậu, những điều kiện thiên tai bất
thường, diễn biến của các hiện tượng trượt lở
càng rất đa dạng, phức tạp.
2. Nghiên cứu thiên tai trượt lở ở các tỉnh
duyên hải miền Trung hiện mới bắt đầu, thường
là phát hiện và xử lý những khối trượt có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh tế, xã hội. Để
đánh giá nguy cơ trượt lở cho một vùng cụ thể
có thể áp dụng thử nghiệm phương pháp Reiter
và nnk [12] cùng với sự nghiên cứu chi tiết hơn
về ảnh hưởng của mưa.
3. Quản lý thiên tai trượt lở đã trở thành yêu
cầu của sự phát triển bền vững của xã hội. Tuy
nhiên, cơ sở khoa học để phân tích, đánh giá,
tiến tới quản lý thiên tai trượt lở ở miền Trung
nói riêng, nước ta nói chung còn là vấn đề mới
mẻ сần được quan tâm. Để giảm nh tai biến
trượt lở cần có một Chương trình quản lý thiên
tai trượt lở thống nhất, liên ngành. Trên cơ sở
đó, tại những vùng có nguy cơ trượt lở lớn cần
xây dựng hệ thống quan trắc, cảnh báo sớm
nguy cơ trượt lở; lắp đặt các trạm quan trắc đơn
giản, mạng lưới thông tin; tư vấn cho các nhà
chức trách kế hoạch phòng chống trượt lở;
truyền bá cho người dân những kiến thức cơ bản
để nhận biết, phòng tránh và tự bảo vệ mình
trước đe dọa của trượt lở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Đại. Đánh giá tổng hợp điều
kiện địa chất công trình Việt Nam phục vụ quy
hoạch xây dựng cơ bản và khai thác kinh tế lãnh
thổ. 1990
2. Nghiêm Hữu Hạnh. Biến đổi khí hậu, nguy
cơ tai biến trượt lở ở vùng núi Việt Nam và một
số giải pháp quản lý, phòng chống. Tạp chí Địa
§Þa kü thuËt sè 3-2010 55
kỹ thuật, số 3 năm 2009.
3. Trần Trọng Huệ, Nguyễn Văn Hoàng. Báo
cáo tổng kết dự án điều tra cơ bản. Phần 1.
Trượt lở đường Hồ Chí Minh, phân vùng nguy
cơ trượt lở và đề xuất các giải pháp giảm thiểu.
Hà Nội, 2006.
4. Nguyễn Văn Lâm, nnk; Điều tra đánh giá
hiện tượng nứt đất, sạt lở đất vùng núi Quảng
Ngãi (sau lũ 1999), đề xuất các giải pháp phòng
tránh giảm nh thiệt hại. Quảng Ngãi, 2000.
5. Lomtadze V.D., Địa chất động lực công
trình. NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp. Hà Nội, 1982
6. Nguyễn Văn Mạo. Báo cáo kết quả nghiên
cứu năm 2009-2010 đề tài cấp nhà nước:
Nghiên cứu cơ sở khoa học và giải pháp kỹ
thuật nhằm đảm bảo an toàn các công trình xây
dựng trong điều kiện thiên tai bất thường vùng
duyên hải miền Trung. Hà Nội, 2010
7. Vũ Cao Minh. Báo cáo tóm tắt: Nghiên
cứu thiên tai trượt lở ở Việt Nam. Hà Nội, 2000
8. Nguyễn Sỹ Ngọc. Các yếu tố ảnh hưởng
tới ổn định bờ dốc ở Việt Nam. Tuyển tập công
trình Hội nghi khoa học toàn quốc lần thứ 5.
Hội Cơ học đá Việt Nam. Hà Nội, 2006
9. Doãn Minh Tâm. Báo cáo đề tài KHCN
Bộ Giao thông - Vận tải: Nghiên cứu lựa chọn
công nghệ và điều kiện áp dụng công nghệ mới
trong phòng chống đất sụt trượt trên các tuyến
đường bộ. Hà Nội, 2008
10. Varnes D.J., Slope movement types and
processes. Chapter 2: Landslides-analysis and
control. National academy of sciences.
Washington, D.C. 1978
11. Wikipedia
12. Реитер Ф. дрг., Инжинернаа геологиа
М., Hедра. 1983
13. Φисенко Г.Л., Устойчивость бортов
карьеров и отвалов. M., Hедра. 1965
Người phản biện: PGS.TS. NGUYỄN SỸ NGỌC
Sù H×NH THµNH TR÷ L¦îNG KHAI TH¸C N¦íC D¦íI §ÊT
VïNG THµNH PHè Hå CHÝ MINH
Phan Chu Nam*
Formation of exploitable grounwater reserve in the Ho Chi Minh city area
Abstract: Determination of groundwater reserve in the specified area is
nessasisity for groundwater resource management. Nowadays,
groundwater flow model is good tool to determine the budget of
components which are the sources to form exploitation reserve. It is
important for susstainable groundwater management not only in HCMC
but also in other areas. This paper is focussed on building flow of
groundwater model and determining the sources to form exploitable
reserve in HCMC in oder to contribute to susstainable groundwater
exploitation management in this city.
Trữ lượng khai thác nước dưới đất (NDĐ)
vùng TP HCM đã được nhiều tác giả nghiên
cứu, đánh giá như Đoàn Văn Tín (1988), Đố
Tiến Hùng (2002), Nguyễn Văn Ngà (2008)… ở
các thời điểm khác nhau và cũng đưa ra các kết
quả khác nhau. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
sự khác biệt này là do mức độ nghiên cứu và áp
dụng phương pháp tính toán của từng tác giả.
§Þa kü thuËt sè 3-2010 56
Với phương pháp mô hình số, tác giả đã cập
nhật những nghiên cứu mới nhất về Địa chất,
Địa chất thủy văn, hiện trạng khai thác… để xác
định các nguồn hình thành trữ lượng khai thác
NDĐ của vùng TP HCM sát với thực tế nhất.
1. Đặc điểm địa chất thủy văn vùng
nghiên cứu
Vùng nghiên cứu có 7 tầng chứa nước, trong
đó có 4 tầng đang được khai thác nhiều nhất là
tầng chứa nước qp2-3, qp1, n22, và n2
1, có thể tóm
tắt như sau:
Tầng chứa lỗ hổng trong các trầm tích
Pleistocen giữa - trên qp2-3 lộ trên diện rộng ở
Thủ Đức, Củ Chi và chìm sâu về phía biển.
Thành phần thạch học chủ yếu là cát mịn đến
thô, cát bột, bột cát đôi khi có lẫn sạn sỏi, xen
k p các thấu kính bột, bột sét, sét… tầng chứa
nước có độ giàu nước thay đổi từ nghèo đến
giàu. Vùng giàu nước phân bố ở trung tâm
TPHCM và chiếm trên 1/2 diện tích phân bố của
tầng chứa nước qp2-3. Lưu lượng Q = 5,00
13,89l/s, tỉ lưu lượng q = 0,339 4,510l/sm.
Tầng chứa lỗ hổng trong các trầm tích
Pleistocen dưới qp1 có thành phần đất đá hạt thô,
phân bố khá liên tục và chỉ bị gián đoạn chung
quanh vùng lộ của thành tạo rất nghèo nước
N22bm ở ven sông Sài Gòn. Chiều sâu gặp mái
tầng chứa nước thay đổi trong khoảng 5,0 ÷
82,0m, chiều sâu gặp đáy trong khoảng vài mét
đến 90,0m, Bề dày tương ứng là 0,7 ÷ 68,9m.
Vung giàu nước phân bố trung tâm TPHCM và
mở rộng về phía Long An. Lưu lượng Q = 5,68
27,77l/s, tỉ lưu lượng q = 0,374 5,623 l/sm..
Tầng chứa nước Pliocen trên (n22) từ nóc đến
đáy tầng chứa nước có thể phân ra hai phần:
phần trên là lớp cách nước yếu gồm bột, bột cát,
cát bột xen lẫn cát mịn màu xám tro, xám xanh,
vàng, nâu đỏ, tạo thành lớp liên tục trên toàn
vùng nghiên cứu, có chiều sâu mái từ 8,0 ÷ 95,0
m và chiều sâu đáy từ 20,0 ÷ 113,0 m. Phần
dưới là cát hạt mịn đến thô, nhiều nơi lẫn sạn
sỏi, cuội màu xám tro, xám xanh, xám vàng,
tạo thành lớp liên tục trên vùng nghiên cứu.
Chiều dày thay đổi từ 20,0 ÷ 138,0 m. Lưu
lượng Q = 8,0 l/s ÷ 35,0 l/s, tỉ lưu lượng q =
0,307 4,26 l/sm.
Chất lượng nước thay đổi khá phức tạp, nước
mặn đến lợ gặp ở Quận 8, Quận 5, Bình Thạnh,
một phần phía Tây Bình Chánh và đặc biệt xuất
hiện một khu vực nhỏ tại Củ Chi, Đông Nam
huyện Nhà Bè nước hoàn toàn mặn. Phần còn
lại là nước nhạt phân bố ở khu vực nội thành,
Hóc Môn, Gò Vấp và một phần Thủ Đức, Quận
2, Quận 9.
Tầng chứa nƣớc Pliocen dƣới (n21) phân bố
rộng trong vùng nghiên cứu và không có mặt ở
khu vực Quận 2, Thủ Đức-TP.HCM. Các lớp
đất thuộc tầng chứa nước này có thể chia thành
hai phần. Phần trên có thành phần là bột, bột sét,
bột cát, có mái lớp gặp ở độ sâu từ 50,0 ÷ 212,0
m và nghiêng từ Đông bắc xuống Tây nam, bề
dày từ 2,3 ÷ 34,0 m. Phần dưới là cát hạt mịn
đến thô lẫn sạn sỏi, cuội xám tro, xám xanh,
xám vàng, tạo thành lớp chứa nước liên tục
trong vùng nghiên cứu. Chiều dày thay đổi từ
7,6 ÷ 142,0 m. Khả năng chứa nước trung bình.
Chất lượng nước thay đổi phức tạp, nước mặn
đến lợ phân bố khu vực Quận 2, 5, 8 và Bình
Thạnh, Đông nam Hóc Môn, Nam Nhà Bè, Tây
nam Củ Chi và khu vực còn lại là nước nhạt.
2. Xây dựng mô hình dòng chảy nƣớc
dƣới đất
Để xây dựng được các mô hình dòng chảy
NDĐ cần phải có các thông tin: Qui mô và
chiều dày của các tầng chứa nước và cách nước;
các điều kiện biên kiểm soát tốc độ và hướng di
chuyển của NDĐ; đặc tính thủy lực các tầng
chứa nước và cách nước; sự phân bố theo
phương nằm ngang và thẳng đứng của mực
nước trong vùng mô hình từ lúc bắt đầu (điều
biện ban đầu), ổn định (vận động ổn định), khi
* Liªn ®oµn Quy ho¹ch vµ §iÒu tra tµi nguyªn
níc MiÒn Nam
59 ®êng sè 2 phêng B×nh An Q2. TP. Hå ChÝ Minh D§: 0903838292
§Þa kü thuËt sè 3-2010 57
mực nước thay đổi theo thời gian (vận động
không ổn định); sự phân bố và độ lớn của lượng
bổ cập, lưu lượng khai thác hoặc bổ sung, tính
thấm của hoặc từ các khối nước trên mặt.
Vùng lập mô hình có diện tích 5.637 km2
được phân thành 94 hàng và 72 cột, với kích
thước ô lưới tương ứng là 1000 x 1000 m.
Lưới hai chiều được sử dụng để nội suy dữ
liệu từ các tập điểm rời rạc (2D Scatter Point)
đến từng ô lưới và lưu dữ liệu thành từng tập tin
phục vụ cho việc chuyển dữ liệu này vào lưới ba
chiều. Lưới tính toán 3 chiều (3D Grid) được
phân thành 94 hàng và 72 cột và 15 lớp được sử
dụng để mô phỏng cấu trúc không gian của các
tầng chứa nước. Lưới ba chiều chứa toàn bộ dữ
liệu thuộc tính phục vụ cho việc giải các bài
toán trong mô hình.
Các dữ liệu đầu vào cho mô hình dòng chảy
ND Đ vùng nghiên cứu bao gồm:
a) Các lớp tính toán
Trên cơ sở đặc điểm các tầng chứa nước
vùng nghiên cứu, mô hình dòng chảy NDĐ
được mô phỏng thành 15 lớp chứa nước và thấm
nước yếu (bán thấm).
Lớp 1 phần trên của trầm tích Holocen, lớp
bán thấm Q2.
Lớp 2 phần dưới của trầm tích Holocen, lớp
chứa nước qh.
Lớp 3 phần trên của trầm tích Pleistocen
trên, lớp bán thấm Q13.
Lớp 4 phần dưới của trầm tích Pleistocen
trên, lớp chứa nước qp3.
Lớp 5 phần trên của trầm tích Pleistocen
giữa – trên, lớp bán thấm Q12-3
.
Lớp 6 phần dưới của trầm tích Pleistocen
giữa - trên, lớp chứa nước qp2-3.
Lớp 7 phần trên của trầm tích Pleistocen
dưới, lớp bán thấm Q11.
Lớp 8 phần dưới của trầm tích Pleistocen
dưới, lớp chứa nước qp1.
Lớp 9 phần trên của trầm tích Pliocen giữa,
lớp bán thấm N22.
Lớp 10 phần dưới của trầm tích Pliocen
giữa, lớp chứa nước n22.
Lớp 11 phần trên của trầm tích Pliocen dưới,
lớp bán thấm N21.
Lớp 12 phần dưới của trầm tích Pliocen
dưới, lớp chứa nước n21.
Lớp 13 phần trên của trầm tích Miocen
dưới,lớp bán thấm N13.
Lớp 14 8 phần dưới của trầm tích Mliocen
dưới, lớp chứa nước n13.
Lớp 15 là lớp thấm nước yếu của các đá đa
nguồn gốc, đa tuổi được xem như là lớp bán
thấm.
Hình 1. Cấu trúc không gian 2 và 3 chiều mô phỏng hệ thống NDĐ vùng TP HCM
§Þa kü thuËt sè 3-2010 58
b) Chiều sâu phân bố các lớp
Bề mặt địa hình được sử dụng bản đồ địa
hình VN2000, tỉ lệ 1/100.000 đã được số hóa.
Các đường bình độ được chuyển thành điểm cao
độ kết hợp cùng các điểm cao độ lỗ khoan.
Dùng chức năng nội suy (Interpolation) với
thuật toán Natural Neighbor để gán dữ liệu đến
các ô lưới. Bản đồ đẳng chiều dày các lớp chứa
nước và đẳng cao bề mặt địa hình lót đáy vùng
nghiên cứu được xây dựng dựa trên 45 thiết đồ
lỗ khoan có địa tầng tin cậy do Liên đoàn Quy
hoạch và Điều tra Tài nguyên nước miền Nam
thực hiện từ trước đến nay trong phạm vi
TPHCM và vùng lân cận (chủ yếu là những lỗ
khoan được thực hiện trong các đề án của Cục
ĐC&KS Việt Nam). Đây là những lỗ khoan
được đầu tư nghiên cứu rất chi tiết và có độ tin
cậy cao. Bên cạnh đó còn sử dụng tài liệu các
báo cáo tìm kiếm, thăm dò hoặc các dự án của
địa phương.
c) Các thông số địa chất thủy văn
Các thông số địa chất thủy văn cần nhập
vào mô hình dòng chảy NDĐ gồm hệ số thấm
(thẳng đứng kh và nằm ngang kv), hệ số nhả
nước đàn hồi µ* và hệ số nhả nước trọng lực
µ được chọn từ kết quả bơm thí nghiệm và
phân tích độ hạt tại các lỗ khoan nghiên cứu
trong vùng.
Hệ số thấm theo chiều ngang được lấy theo
kết quả hút nước thí nghiệm. Đối với lớp có
nhiều loại thạch học khác nhau hệ số thấm sẽ
được tính toán giá trị trung bình cho từng lớp.
Hệ số thấm theo chiều thẳng đứng của các lớp
thấm nước yếu (bán thấm) được xác định theo
thành phần hạt, các mẫu đất và sẽ được hiệu
chỉnh trong quá trình vận hành mô hình.
Hệ số nhả nước trọng lực được tính toán theo
công thức: 70,117 k
Hệ số nhả nước đàn hồi * được xác định
theo tài liệu thí nghiệm thấm của các phương
án, báo cáo thăm dò có từ trước đến nay trong
vùng nghiên cứu.
Các thông số này được nhập vào mô hình
cho tất cả các lớp chứa nước và lớp bán thấm.
Ví dụ trên hình 3 là bản đồ đẳng chiều dày và hệ
số thấm của tầng chứa nước n22.
Hình 2. Bản đồ đẳng chiều dày (a) và phân bố
hệ số thấm tầng chứa nước n22 (b)
d) Dữ liệu về lƣợng bổ cập và bốc hơi
Dữ liệu lượng bổ cập (Recharge) là tổng hợp
lượng bổ cập từ mưa và bốc hơi. Dữ liệu này được
nhập theo bản đổ phân vùng, được tính toán theo
tài liệu quan trắc mực nước và ranh giới phân bố
của các tầng chứa nước lộ trên mặt.
Lượng bổ cập được lấy theo tài liệu khí
tượng thủy văn trong vùng. Số liệu ban đầu đưa
vào mô hình bằng 1/10 lượng mưa cho các tầng
chứa nước lộ và sẽ được điều chỉnh theo xu
hướng nhỏ đi trong quá trình vận hành mô hình.
d) Dữ liệu về lƣợng khai thác
Lượng khai thác được sử dụng theo tài liệu
điều tra hiện trạng từ nhiều nguồn khác nhau,
chủ yếu là từ Sở Tài nguyên và Môi trường TP
HCM. Do tài liệu thu thập được thực hiện tại
nhiều thời điểm khác nhau, nên số liệu đưa vào
mô hình đã được cập nhật, thống kê, điều chỉnh
lại địa tầng và bổ sung thêm số liệu mới được
cập nhật từ tỉnh Bình Dương và Long An nằm
trong vùng lập mô hình, do vậy số liệu này sẽ
khác với số liệu hiện trạng khai thác. Dữ liệu về
lượng khai thác tại từng tầng chứa nước được
§Þa kü thuËt sè 3-2010 59
nhập vào mô hình theo tài liệu hiện trạng khai
thác cập nhật theo tọa độ và đơn vị hành chính
như sau: lớp 2: không có khai thác tập trung; lớp
4: 812m3/ngày; Lớp 6: 37.900m
3/ngày; Lớp 8:
122.316m3/ngày; Lớp 10: 472.529m
3/ngày; Lớp
12: 104.446m3/ngày; Lớp 14: 14.400m
3/ngày.
Tổng lưu lượng khai thác của các tầng chứa
nước chính được đưa vào để vận hành mô hình
là: 752.403m3/ngày.
e) Biên và điều kiện biên
Vùng lập mô hình dòng chảy NDĐ được
mô phỏng 15 lớp và mỗi lớp đều có biên và
điều kiện biên khác nhau trên cả bình đồ lẫn
mặt cắt. Trên bình đồ các tầng chứa nước
được khống chế bởi ranh giới lập mô hình
dòng chảy nước dưới đất (MHDCNDĐ), có
các loại biên sau:
Biên không dòng chảy (No Flow
boundary Q = 0) được dùng để mô phỏng biên
giới không thấm nước của các lớp thấm nước
yếu : lớp 1, 3, 5, 7, 9, 11, 13 và ranh giới bắt
đầu phân bố của các tầng chứa nước. Dọc theo
biên này, dòng chảy ra hoặc vào vùng lập
MHDCNDĐ rất nhỏ và lượng nước dịch chuyển
không đáng kể.
Biên tổng hợp (General Head boundary -
GHB): thường được dùng để mô phỏng mối
quan hệ trao đổi nước giữa nước mặt với NDĐ.
Lưu lượng dòng thấm qua biên được tình theo
công thức:
Qb = Cb(hb – h),
ở đây, Cb - sức cản thấm đáy lòng, biểu thị
sức cản dòng chảy giữa biên và tầng chứa nước.
Loại biên này thường dùng cho sông lớn, hồ,
biển vì sẽ mô phỏng dòng chảy cả theo chiều
đứng lẫn chiều ngang dọc theo đáy sông.
hb-h- mực nước trên biên được xác lập theo
mực nước khu vực của tài liệu quan trắc mực
nước ở đồng bằng Nam bộ.
Biên mực nước xác định được gán cho
ranh giới MHDCNDĐ dọc theo sông Vàm Cỏ
Tây cho các lớp 2, lớp 4, lớp 6, lớp 8, lớp 10,
lớp 12 và lớp 14. Giá trị mực nước trên biên này
được lấy theo tài liệu quan trắc từ các trạm quan
trắc Quốc gia là trạm Q027, Q022, Q326 và
trạm Q822.
Trên hình 3, là ví dụ điển hình về biên và vị
trí các lố khoan khai thác của tầng chứa nước
n22, được nhập vào mô hình.
Hình 3. Bản đồ biên và vị trí các lỗ khoan khai
thác của tầng chứa nước qp1 (a) và n22 (b)
g) Hệ thống lỗ khoan quan trắc
Trong quá trình chạy bài toán ngược chỉnh lý
mô hình, mực nước mô hình sẽ được so sánh
với mực nước trong các lỗ khoan quan trắc
(LKQT) được thể hiện trong hình 4.
3. Các nguồn hình thành trữ lƣợng
Kết quả chỉnh lý mô hình đã khôi phục lại
hệ thống dòng chảy nước dưới đất vùng
TPHCM.
Để dự báo mực nước hạ thấp, xác định các
nguồn hình thành trữ lượng khai thác cần tiến
hành tiến hành chạy bài toán thuận. Bài toán
thuận được vận hành trên cơ sở giá trị các thông
số, điều kiện biên của các lớp trên mô hình đã
được xác lập trong bài toán ngược (ổn định và
không ổn định).
Kết quả xác định vào thời điểm năm 2010
phễu hạ thấp của các tầng chứa nước chủ yếu
tập trung ở các khu vực có mật độ lỗ khoan và
lưu lượng khai thác lớn như Tân Bình, Hóc
Môn, Gò Vấp và kéo dài xuống khu vực quận
7, Bình Chánh. Đối với tầng chứa nước n22,
§Þa kü thuËt sè 3-2010 60
n21 còn xuất hiện phễu hạ thấp ở phía nam thị
xã Thủ Dầu Một, khu chế xuất Linh Trung và
thành phố Nhơn Trạch (Đồng Nai). Mực nước
hạ thấp sâu nhất của các tầng chứa nước được
trình bày trong bảng 1.
Hình 4. Bản đồ vị trí các LKQT
các tầng chứa nước
Qua vị trí và phễu hạ thấp mực nước cho
thấy, các tầng chứa nước qp1, n22, n2
1 đã
được khai thác mãnh liệt. Tài liệu quan trắc
cho thấy trong 10 năm qua, mực nước của
các tầng này ngày càng bị hạ thấp với tốc độ
từ 0,79m tới 15,96 m (tầng qp1), 2,92 m tới
13,10m (tầng n22), 10,35m (tầng n2
1).
Thực tế hiện nay hàng ngày, hàng giờ các
máy khoan nhỏ lẻ của các doanh nghiệp tư
nhân vẫn tiến hành khoan khai thác NDĐ
phục vụ cho nhu cầu sử dụng của cá nhân và
những doanh nghiệp nhỏ lẻ trên địa bàn thành
phố, song các cơ quan chức năng không kiểm
soát được. Do đó, mực nước của các tầng
chứa nước vẫn tiếp tục hạ thấp với tốc độ
ngày càng lớn hơn, là một thực tế của vùng
TP HCM.
Bảng 1. Mực nƣớc hạ thấp các tầng chứa nƣớc, thời điểm xác định năm 2010
Tầng chứa nước qp3 qp2-3 qp1 n22
n21
n13
Mực nước hạ thấp (m) -6,56 -9,30 -24,60 -31,30 -34,00 -18,60
Với tổng lưu lượng khai thác là 752.403
m3/ngày, mực nước hạ thấp xác định dự báo
năm 2010 của các tầng chứa nước được trình
bày trên các hình 5, hình 6 và hình 7.
Hình 5. Bản đồ mực nước tầng chứa nước qp3
(a) và qp 2-3 (b) thời điểm xác định năm 2010
§Þa kü thuËt sè 3-2010 61
Kết quả nghiên cứu bài toán cân bằng nước
dưới đất đã xác định được các thành phần tham
gia vào trữ lượng khai thác (TLKT) nước dưới
đất hiện nay của vùng TP HCM. Các thành phần
tham gia vào trữ lượng khai thác nước dưới đất
vùng TP HCM được tổng hợp ở bảng 2.
Hình 6. Bản đồ mực nước tầng chứa nước qp1
(a) và n22 (b) thời điểm xác định năm 2010
Hình 7. Bản đồ mực nước tầng chứa nước n21
(a) và n13 (b) - thời điểm xác định năm 2010
Bảng 2. Tổng hợp các nguồn hình thành TLKT
của các tầng chứa nƣớc, thời điểm xác định năm 2010
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đối với
tầng chứa nước nằm nông qp3 thì nguồn hình
thành chủ yếu là do thấm qua đáy sông là chủ
yếu, còn tầng chứa nước nằm sâu n13 thì TLKT
được hình thành chủ yếu được cung cấp từ
ngoài vào. Đối với 4 tầng chứa nước chính qp2-
3, qp1, n22 và n2
1 thì hàm lượng thấm xuyên
đóng vai trò chủ đạo trong sự hình thành TLKT
của các tầng chứa nước, t lệ này thay đổi từ
43,59 ÷ 71,94%
T lệ lượng nước thấm qua đáy sông vào các
tầng chứa nước cũng giảm dần theo độ sâu đối
với các tầng chứa nước bị chúng cắt qua 51,96%
ở tầng chứa nước qp3 đến 12,77% ở tầng n22.
Còn đối với thành phần thấm xuyên thì t lệ
thuận với lưu lượng khai thác, tầng chứa nước
nào khai thác với lưu lượng lớn thì nguồn hình
thành TLKT do thấm xuyên càng lớn và ngược
lại. T lệ này không thay đổi trong suốt thời
gian khai thác và theo thời gian lượng thấm
xuyên được gia tăng.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu về các nguồn
hình thành trữ lượng khai thác NDĐ vùng TP
§Þa kü thuËt sè 3-2010 62
HCM, thì cần có những giải pháp mang tầm
chiến lược về quy hoạch và quản lý khai thác
nguồn tài nguyên quý giá này trong điều kiện
khí hậu ngày càng xấu đi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đoàn Văn Cánh, Phạm Quý Nhân, Tìm
kiếm thăm dò và đánh giá trữ lượng nước dưới
đất, Nhà xuất bản Xây dựng. 2003.
[2]. Đoàn Văn Cánh, Phạm Quý Nhân, Tin
học ứng dụng trong địa chất thủy văn, giáo trình
Cao học và Nghiên cứu sinh, trường Đại Học
Mỏ Địa chất. 2001.
[3]. Phan Ngọc Cừ, Tôn Sỹ Kinh. Động lực
học nước dưới đất, nhà xuất bản Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, 1981.
[4].Phan Chu Nam, Các phương pháp đánh
giá trữ lượng khai thác nước dưới đất, áp
dụng vào khu vực thành phố Hồ Chí Minh,
chuyên đề cấp Tiến sỹ, trường đại học Mỏ
Địa chất. 2008.
[5]. Phan Chu Nam. Đặc điểm địa chất thủy
văn và hiện trạng khai thác nước dưới đất vùng
thành phố Hồ Chí Minh, chuyên đề cấp Tiến sỹ,
Trường đại học Mỏ Địa chất. 2008.
[6]. Lars Rosen. Ground water protecion.
Chalmers Unversity of Technology.
Gothenburg-Sweden, 1996,
[7]. The Environmental Modeling Research
Laboratory, GMS 3.0 Tutorial, Brigham Young
University, New York., 1999.
[8]. Mary P. Anderson, William W.
Woesseer. Applied ground water modeling,
Academic Press., Unc, New York, 1992.
[9]. H.P. Ritzema (Editor-in-Chief).
Drainage Principles and Applications,
International Institute for Land Reclamation and
Improvement, the Netherlands, 1994.
[10]. Daniel Gomes, bài giảng “Groundwater
Modeling", Waterloo Hydrogeologic, Inc -
Bangkok, 2000.
[11]. Groundwater Resources Sustainability
Indicators . Jaroslav Vrba and Annukka Lipponen.
I H P - V I S E R I E S ON GROUNDWAT E R
NO. 1 4. © UNESCO 2007. IHP/2007/GW-14.
Người phản biện: PGS.TS. PHAN NGỌC CỪ
Giíi thiÖu quy tr×nh thÝ nghiÖm
TR×NH Tù THùC HIÖN Xö Lý §ÊT Cã PHô GIA CONSOLID
DïNG §Ó §¾P Vá BäC §£ BIÓN
Hoµng ViÖt Hïng*
Systematic testing of consolid treated sils to be applied to cover soils of
sea dikes
Abstract: Field and laboratory tests are performed to identify the problem
areas, so that Proper design and precautions can be made. During
construction, testing is performed to ensure the quality of work is met with
the design specification. A CONSOLID treated soil has the strength of the
§Þa kü thuËt sè 3-2010 63
treated soil will improve in time, hence extending the life span of the cover
soil of sea dikes. This paper presents the results of laboratory test of the
Geotechnical Engineering Laboratory-Water Resources University.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đê biển hiện nay chủ yếu đắp bằng đất cát,
đất cát pha sét làm lõi và có vỏ bọc ngoài dày
khoảng 50 cm bằng đất sét. Tuy nhiên khi mưa
kéo dài thì vỏ bọc này thường bị phá hỏng do
nước mưa trên mặt đê chảy tập trung thành dòng
xói hỏng, hoặc trong trường hợp sóng tràn qua
đê thì mái hạ lưu đê thường bị phá vỡ vỏ bọc đê
dẫn đến phá hỏng đê
Để khắc phục tình trạng này, cần phải có
biện pháp gia cường sao cho vỏ bọc đê biển bền
vững dưới các tác dụng chảy xói của dòng nước
mưa hoặc sóng tràn. Từ các kết quả nghiên cứu
nhận thấy việc sử dụng phụ gia CONSOLID để
gia cường vỏ bọc đê biển là hợp lý hơn cả và
cần thiết phải xây dựng một quy trình rõ ràng để
việc ứng dụng công nghệ đạt hiệu quả cao.
II. CÁC LOẠI SẢN PHẨM CONSOLID
Hiện nay có nhiều loại sản phẩm
CONSOLID do nhiều hãng trên thế giới sản
xuất với các tên gọi khác nhau, nhưng phổ biến
vẫn là hai loại dạng bột và dạng nước. Khi sử
dụng sẽ phối hợp cả hai loại này để trộn vào đất
cần gia cường. T lệ pha trộn tuỳ thuộc vào
thành phần hạt của loại đất chúng ta đang dùng
và phải tiến hành các thí nghiệm trong phòng.
Khi thi công hiện trường, vấn đề thiết bị thi
công và yêu cầu trộn đều phụ gia cần quan tâm
đặc biệt. Quy trình thực hiện như sau.
III. QUY TRÌNH THỰC HIỆN
1. Các bƣớc tiến hành thí nghiệm trong
phòng
1.1. Thí nghiệm xác định thành phần hạt
Nếu đường cong cấp phối của đất biểu thị đất
có cấp phối tốt, sơ bộ biết được bề dày vật liệu có
sử dụng phụ gia sẽ mỏng đi. Kiểm tra nếu thấy
hàm lượng sét trong đất lớn hơn 15% thì đạt yêu
cầu. Nếu nhỏ hơn 15% hàm lượng sét thì phải bổ
sung thêm ít nhất là bằng hoặc lớn hơn
Nhưng nếu đất lớn hơn 30% sét thì cần phải
bổ sung cát, hoặc vật liệu thô hơn. Việc này giúp
cho vấn đề sử dụng phụ gia hiệu quả hơn, đất sẽ
có cường độ tốt hơn đồng thời giá thành hạ.
Đất để gia cường với phụ gia nên chọn loại
đất có đường kính hạt nhỏ hơn 10 mm. Không
nên chọn các loại đất có đường kính hạt lớn hơn
vì phụ gia CONSOLID không hiệu quả với các
loại đất này.
1.2 Xác định độ ẩm của đất và chế bị mẫu
với các hàm lượng khác nhau
Việc xác định độ ẩm của đất được thực hiện
theo quy phạm hiện hành
1.2.1 Chuẩn bị mẫu đất 0% phụ gia
+ Lấy mẫu đất khô
+ Cho nước vào mẫu sao cho đạt độ ẩm
tối ưu
+ Trộn đều đất
+ Cho vào khuôn đúc mẫu
+ Đầm chặt mẫu
+ Đánh dấu là mẫu 0% phụ gia
+ Cân mẫu
+ Đo kích thước mẫu
+ Thí nghiệm nén mẫu, ngừng gia tải trước
khi mẫu bị nứt.
+ Ghi chép kết quả.
1.2.2 Chuẩn bị mẫu 1% phụ gia
+ Chuẩn bị mẫu đất theo điều kiện phân
tích hạt như trên, nếu đất có hàm lượng sét
nhỏ hơn 15% phải bổ sung thêm sét vào đất.
Nếu đất có hàm lượng sét lớn hơn 30% phải
bổ sung thêm cát.
+ Pha CONSOLID 444 với nước theo t lệ
1:100
+ Tưới 20 ml nước phụ gia vừa xử lý vào 1
* Trêng §¹i häc Thuû lîi
175 Tây Sơn - Đống Đa - Hà Nội
DĐ: 0912723376
§Þa kü thuËt sè 3-2010 64
kg đất
+ Thêm 10 gam SOLIDRY vào 1 kg đất
+ Thêm nước để đất đạt được độ ẩm tối ưu
+ Trộn đều
+ Đầm mẫu
+ Đánh dấu mẫu 1% phụ gia
+ Cân mẫu
+ Đo kích thước mẫu
+ Thí nghiệm nén mẫu, ngừng gia tải trước
khi mẫu bị nứt.
+ Ghi chép kết quả.
1.2.3 Chuẩn bị mẫu 2% phụ gia
+ Chuẩn bị mẫu đất theo điều kiện phân
tích hạt như trên, nếu đất có hàm lượng sét
nhỏ hơn 15% phải bổ xung thêm sét vào đất.
Nếu đất có hàm lượng sét lớn hơn 30% phải
bổ xung thêm cát.
+ Pha CONSOLID 444 với nước theo t lệ
1:50
+ Tưới 20 ml nước phụ gia vừa xử lý vào 1
kg đất
+ Thêm 20 gam SOLIDRY vào 1 kg đất
+ Thêm nước để đất đạt được độ ẩm tối ưu
+ Trộn đều
+ Đầm mẫu
+ Đánh dấu mẫu 2% phụ gia
+ Cân mẫu
+ Đo kích thước mẫu
+ Thí nghiệm nén mẫu, ngừng gia tải trước
khi mẫu bị nứt.
+ Ghi chép kết quả.
1.3 Tiến hành các thí nghiệm
Để mẫu khô khoảng 50% độ ẩm tốt nhất.
Điều kiện này tương tự như trong tự nhiên, như
vậy có thể cho kết quả tin cậy hơn. Sự co ngót
lúc này nhỏ hơn 2% của thể tích mẫu.
+ Cân mẫu
+ Đo kích thước mẫu
+ Đặt các mẫu đất vào khay, đổ nước vào
khay tới chiều cao khoảng 2 cm; lưu ý mẫu
0% rất dễ bị đổ sập
+ Để các mẫu khoảng 24 giờ trong điều kiện
ngâm nước
+ Đo và cân mẫu
+ Ghi chép kết quả
+ Khoảng 3 ngày sau lặp lại thí nghiệm
+ Thí nghiệm nén mẫu, ngừng gia tải trước
khi mẫu bị nứt
1.4. Đánh giá kết quả thí nghiệm
Nếu mẫu xuất hiện các vết rạn trong quá
trình làm khô thì mẫu chứa quá nhiều sét
hoặc bụi. Cần phải thêm cát hoặc vật liệu
hạt thô, như vậy sẽ hạn chế quá trình co ngót
của đất.
Nếu mẫu có biểu hiện chảy, xệ thì mẫu cũng
chứa quá nhiều sét hoặc bụi. Cần phải thêm cát
hoặc vật liệu hạt thô, như vậy sẽ hạn chế quá
trình nở của đất.
Nếu mẫu có biểu hiện tơi rời, tức là mẫu
không đủ hàm lượng sét hoặc không đủ hàm
lượng CONSOLID, cần phải thêm sét hoặc
thêm CONSOLID.
Kết quả thí nghiệm sẽ được ứng dụng dọc
theo tuyến công trình đã lấy mẫu. Thành phần
hạt và thành phần hoá học của đất có sự thay đổi
trên toàn tuyến công trình vì vậy cần phải thí
nghiệm đất cho từng đoạn công trình cụ thể.
Không được thí nghiệm một mẫu chung cho
toàn tuyến.
Không cần thiết phải gia tăng lượng phụ gia
nhiều hơn 2% vì hiệu quả tăng không đáng kể.
Nhưng nếu cho lượng phụ gia nhỏ hơn 1% thì sẽ
có vấn đề về sự trộn đều của phụ gia trong đất.
Lượng phụ gia quá ít rất dễ bị phân bổ không
đều, hiệu quả sẽ giảm đi nhiều.
2. Quy trình thi công hiện trƣờng
2.1 Chuẩn bị mặt bằng trộn phụ gia
Mặt bằng trộn phải đảm bảo đủ khối lượng
đất trong một đợt đắp, vì có thiết bị xới nên vị
trí trộn tốt nhất là vị trí có nền bê tông hay trên
sân gạch, đất trước khi trộn được rải đều ở một
độ dày nhất định khoảng 15-20 cm, đảm bảo
việc phun phụ gia đạt hiệu quả cao.
2.2 Trình tự thực hiện
Khi sử dụng phụ gia CONSOLID để đạt
được kết quả tốt cần có một nhiệt độ vừa đủ cho
§Þa kü thuËt sè 3-2010 65
sự dính kết đất tạo nên một lớp đất hỗn hợp có
độ bền cao. Và lớp đất này sẽ liên tục được hệ
thống CONSOLID đảm bảo độ bền đồng thời
ngăn chặn hiện tượng mềm đất do độ ẩm và độ
thấm hút cao của lớp đất trên cùng.
Trộn đất: Trộn CONSOLID theo t lệ đã thí
nghiệm, pha loãng với nhièu nước đủ để đất đạt
độ nén phù hợp với hàm lượng độ ẩm tối ưu.
Tiếp theo là rải SOLIDRY đều theo hàm
lượng thí nghiệm, yêu cầu trộn đều cho đến
khi không còn nhìn thấy bột xám trắng của
phụ gia.
Đầm nén: Đất được rải đều và đầm nén
theo tiêu chuẩn thi công đất đầm nén của
ngành thu lợi 14-TCN-20 :1985. Quá trình
kiểm tra độ chặt được thực hiện theo các tiêu
chuẩn hiện hành.
IV. KẾT LUẬN
Phụ gia CONSOLID không hiệu quả với các
loại đất rời. Vì vậy kiểm tra nếu thấy hàm lượng
sét trong đất lớn hơn 15% thì đạt yêu cầu và tiến
hành pha trộn phụ gia theo các bước thí nghiệm
đã nêu ở trên. Nếu nhỏ hơn 15% hàm lượng sét
thì phải bổ sung thêm hàm lượng sét ít nhất là
bằng hoặc lớn hơn.
Nhưng nếu đất lớn hơn 30% sét thì cần phải
bổ sung cát, hoặc vật liệu thô hơn để đất tăng
cường độ khi có thêm phụ gia.
Các bước tiến hành thí nghiệm trong phòng
cần tuân thủ theo các bước đã nêu ở trên. Hàm
lượng phụ gia không nên vượt quá 2%. Nếu
vượt quá phải có những luận cứ chắc chắn.
Khi thi công đất ở hiện trường cần đảm bảo
pha trộn đều phụ gia, nếu không đều sẽ dẫn đến
hiện tượng vón cục gây nứt vỡ cục bộ và hao
phí phụ gia.
Quá trình đầm nén đất phải được tuân thủ
theo các quy trình, quy phạm hiện hành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Việt Hùng-Trịnh Minh Thụ-Ngô
Trí Viềng, Kết quả nghiên cứu về ứng dụng phụ
gia CONSOLID để gia cường đất đắp đê biển-
Tạp chí Nông nghiệp và PTNT số tháng 7-2010.
2. Phòng thí nghiệm Địa kỹ thuật-Đại học
Thu lợi-Báo cáo kết quả thí nghiệm đất đắp đê
biển Giao Thu với hàm lượng phụ gia ảnh
hưởng bởi hàm lượng sét.
3. Tiêu chuẩn Việt Nam - 14-TCN-
20 :1985 Quy phạm kỹ thuật thi công đập đất
theo phương pháp đầm nén
4. ASIA - EUROPE COMMERCE LTD –
Soil Test Procedure-2008
ASIA - EUROPE COMMERCE LTD- The
Consolid System Manual -2008
Người phản biện: GS.TS. NGÔ TRÍ VIỀNG
§Þa kü thuËt sè 3-2010 66
thÓ lÖ viÕt bµi ®¨ng t¹p chÝ ®Þa kü thuËt
T¹p chÝ §Þa kü thuËt ®îc xuÊt b¶n 3 th¸ng/kú, theo GiÊy phÐp ho¹t ®éng b¸o chÝ sè
1358/GPXB ngµy 17-6-1996 cña Bé V¨n hãa vµ Th«ng tin.
T«n chØ vµ môc ®Ých cña T¹p chÝ lµ: C«ng bè c¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc, c«ng
nghÖ, phæ biÕn, trao ®æi kiÕn thøc, tiÕn bé kü thuËt vµ kinh nghiÖm trong c¸c lÜnh vùc ®Þa
chÊt c«ng tr×nh, c¬ häc ®Êt - nÒn mãng, c¬ häc ®¸, ®Þa kü thuËt vµ m«i trêng, c¸c vÊn ®Ò
®Êt - níc - m«i trêng vµ con ngêi, gãp phÇn n©ng cao chÊt lîng c¸c c«ng tr×nh x©y
dùng h¹ tÇng c¬ së, ®¸p øng nhu cÇu c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa ®Êt níc.
Trong thêi gian qua T¹p chÝ ®· nhËn ®îc sù ®ãng gãp, ñng hé nhiÖt thµnh cña nhiÒu
®ång nghiÖp ®«ng ®¶o b¹n ®äc, c¸c tæ chøc, c¬ quan, ban ngµnh vÒ bµi viÕt, th«ng tin vµ
vËt chÊt … T¹p chÝ mong tiÕp tôc nhËn ®îc sù céng t¸c vµ ñng hé ®ã.
Bµi göi ®¨ng T¹p chÝ ®îc ®¸nh m¸y vi tÝnh theo font Unicode Times New Roman,
cì ch÷ 12, in trªn khæ A4 kÌm theo ®Üa mÒm hoÆc ®Üa CD. Bµi viÕt sö dông tiÕng ViÖt,
kÌm theo tãm t¾t néi dung b»ng tiÕng ViÖt vµ Anh (kh«ng qu¸ 200 tõ). C«ng thøc ®îc
viÕt theo Equation Editor vµ ®¸nh sè thø tù vÒ bªn ph¶i. §¬n vÞ tÝnh cña c¸c ®¹i
lîng vËt lý ph¶i sö dông ®¬n vÞ theo hÖ SI. DÊu thËp ph©n ph¶i dïng dÊu
ph¶y. C¸c b¶n vÏ ph¶i theo ®óng quy ®Þnh vÏ kü thuËt, kÝch thíc kh«ng qu¸ 15 x 20cm.
C¸c bµi cã b¶n ®å tõng vïng hoÆc c¶ níc cÇn vÏ theo mÉu chÝnh x¸c, ®óng theo quy c¸ch
hiÖn hµnh; c¸c b¶n vÏ, biÓu b¶ng ph¶i ®îc ®¸nh sè thø tù. Dung lîng bµi b¸o kh«ng
vît qu¸ 8 trang kÓ c¶ h×nh ¶nh, biÓu b¶ng, tµi liÖu tham kh¶o.
Thø tù s¾p xÕp bµi b¸o:
- Tªn bµi b¸o (b»ng tiÕng ViÖt);
- Hä vµ tªn t¸c gi¶;
- §Þa chØ, Tel/Fax; Email;
- Tãm t¾t néi dung (b»ng tiÕng ViÖt);
- Tªn bµi b¸o vµ tãm t¾t néi dung b»ng tiÕng Anh;
- Néi dung bµi b¸o;
- Tµi liÖu tham kh¶o: ®îc ®¸nh m¸y liÒn víi bµi vµ ®îc ghi theo thø tù ABC. C¸c tµi
liÖu tham kh¶o tr×nh bµy theo tr×nh tù: TiÕng ViÖt, tiÕng Anh, tiÕng Latinh, tiÕng Nga,
tiÕng Trung…, theo thø tù: Tªn t¸c gi¶, tªn tµi liÖu, nhµ xuÊt b¶n, n¨m xuÊt b¶n.
Ban Biªn tËp sÏ bè trÝ lÊy ý kiÕn ph¶n biÖn truíc khi ®¨ng. Bµi kh«ng ®îc ®¨ng
kh«ng tr¶ l¹i b¶n th¶o.
T¸c gi¶ bµi viÕt ph¶i chÞu tr¸ch nhiÖm vÒ c¸c th«ng tin cung cÊp vµ ®îc biÕu 02 cuèn
t¹p chÝ cã bµi ®¨ng.
ý kiÕn ®ãng gãp, bµi göi ®¨ng vµ ®Æt mua t¹p chÝ xin liªn hÖ theo ®Þa chØ sau:
ViÖn ®Þa kü thuËt
38 phè BÝch C©u, quËn §èng §a - Hµ Néi
Tel: 04.22141917; 22108643; Fax: 04. 37325213, Email: [email protected],
[email protected]; Website: http//www.vgi-vn.com