Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
VIỆN CHIẾN LƯỢC NGÂN HÀNG – BANKING STRATEGY INSTITUTE (BSI); website: www.bsi.org.vn
BẢN TIN ĐIỆN TỬ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC RESEARCH BULLETIN
Số 12 - Tháng 12/2016 Volume: 12 – Dec, 2016
LƯU HÀNH NỘI BỘ
THÔNG TIN KHOA HỌC THÁNG 12
NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ THÁNG 12
VIỆN CHIẾN LƯỢC
NGÂN HÀNG
*** Bản tin phát hành định kỳ vào
ngày 10 hàng tháng,
được gửi trực tiếp qua email và
đăng tải trên Cổng thông tin
khoa học và công nghệ ngành
Ngân hàng:
www.khoahocnganhang.org.vn
***
Liên hệ Email: [email protected]
Khuyến cáo sử dụng:
® Bản tin này được tổng hợp từ
các báo cáo, đề tài nghiên cứu
định kỳ hàng tháng liên quan đến
lĩnh vực kinh tế tài chính – ngân
hàng của các tổ chức quốc tế WB,
ADB, IMF, BIS và thông tin kết
quả nghiên cứu của các đề tài cấp
nhà nước, cấp ngành của NHNN,
các Bộ, ngành TW của Việt Nam,
các thông tin Hội thảo của các
Viện nghiên cứu, trường đại học,
ấn phẩm khoa học của các NXB
có uy tín tại Việt Nam phù hợp với
quy định pháp luật về báo chí và
bản quyển.
® Mọi quan điểm, nội dung
trong Bản tin đều được dịch hoặc
căn cứ vào thông tin khoa học
chính thống, chỉ có hàm ý cung
cấp thông tin tham khảo mà không
phản ánh ý kiến hay quan điểm
của Ban Biên tập cũng như của
Viện CLNH. Người đọc chỉ nên
sử dụng Bản tin nội bộ như là
thông tin tham khảo.
CHỊU TRÁCH NHIỆM
XUẤT BẢN
Triển vọng tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
đang phát triển Châu Á tiếp tục ổn định mặc dù
dự báo trong năm 2016 về Triển vọng Phát triển
Châu Á cập nhật gần đây đã giảm nhẹ mức tăng
trưởng. Chi tiêt
ADB
Báo cáo bổ sung của Báo cáo Triển vọng Phát
triển Kinh tế Châu Á: Các nền kinh tế Châu Á
phát triển ổn định trong bối cảnh bất ổn toàn cầu
Khi cơ sở hạ tầng của một quốc gia kém phát
triển, chính phủ cần ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ
tầng trong nước hơn là cơ sở hạ tầng quốc tế. Chi
tiết
ADB
Thương mại, cơ sở hạ tầng và phát
triển
Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (PRC) đang trải
qua những thay đổi về cấu trúc và chu kỳ đối với
các hoạt động kinh tế tại Trung Quốc và các nước
khác trên thế giới. Chi tiết
ADB
Thay đổi cấu trúc và quản trị tăng
trưởng kinh tế tại Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Trung hoa:
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa đang ở
vị trí giao điểm của hai giai đoạn phát triển kinh
tế..Chi tiết
ADB
Hai giai đoạn của phát triển kinh tế
Liệu các quy định liên quan tới hoạt động cho
vay nhà ở nhằm đảm bảo an toàn vĩ mô có tác
động tới hoạt động cho vay thương mại?. Chi tiết
BIS
Bộ đệm vốn ngược chu kỳ và cấu trúc
tín dụng ngân hàng
Bài viết này phân tích diễn biến nợ xấu của Ấn
Độ trong một chu kỳ kinh tế. Chi tiết
BIS
Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín
dụng: Trường hợp của Ấn Độ
Hiệu ứng lan tỏa của chính sách tiền tệ phi truyền
thống của Mỹ lên thị trường tín dụng Châu Á là
rất lớn nhưng có sự khác nhau tùy thuộc vào loại
nợ, mục đích của khoản nợ và điều khoản của các
khoản vay. Chi tiết
ADB
Hiệu ứng lan tỏa của chính sách tiền tệ
phi truyền thống của Mỹ tới các quốc
gia Châu Á mới nổi: kênh cho vay ngân
hàng
Sự phục hồi liên tục nhưng èo uột của kinh tế
toàn cầu, tăng trưởng thương mại của khu vực
Châu Á và Thái Bình Dương tiếp tục giảm sâu
so với tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước.
Chi tiết
ADB
Báo cáo hội nhập kinh tế Châu Á năm
2016
Nghiên cứu này trình bày mô hình cân bằng
tổng thể với một hệ thống ngân hàng động
(dynamic banking sector) nhằm xác định
lượng vốn pháp định tối ưu phụ thuộc vào
quy mô của ngân hàng (size-dependent bank
capital regulation). Chi tiết
BIS
Tính động trong hệ thống ngân
hàng và các quy định về vốn phụ
thuộc quy mô
Nghiên cứu này đánh giá cách việc cách sử
dụng một đồng tiền sẽ truyền dẫn cú sốc
chính sách tiền tệ trong hệ thống ngân hàng
toàn cầu như thế nào. Chi tiết
Nợ ròng hay tổng nợ có ảnh hưởng tới chênh
lệch lãi suất dài hạn của các quốc gia ở các
thị trường mới nổi là một nội dung quan
trọng để hiểu được tác động của các quyết
định quản trị tài sản nợ - có lên chi phí đi
vay. Chi tiết
Nghiên cứu này thảo luận về bản chất của
chu kỳ tài chính, giám sát chu kỳ tài chính
và các tác động kinh tế của giai đoạn bùng
nổ và suy thoái. Chi tiết
BIS
Khả năng phục hồi của nền kinh tế:
góc nhìn tài chính
BIS
Kinh tế vĩ mô của vốn ngân hàng và
các quy định thanh khoản
Chúng tôi nghiên cứu cơ chế truyền tải các
quy định về thanh khoản và vốn cũng như
tác động của chúng lên nền kinh tế và phúc
lợi xã hội. Chi tiết
BIS
FED có tác động tới tính dễ bị tổn
thương của hệ thống liên ngân hàng
trước các rủi ro lan truyền?
Dựa trên nghiên cứu lý thuyết về thị trường
liên ngân hang nhăm đánh giá ảnh hưởng
của FED lên khả năng phục hồi của hệ thống
với các cú sốc tới khả năng thanh toán cũng
như khả năng lan truyền của các cú sốc này.
Chi tiết
IMF
Biến động nợ công và khả năng tiếp
cận thị trường
Nghiên cứu chỉ ra rằng, đối với các thị
trường mới nổi, sự biến động của tỷ lệ nợ
đóng vai trò quan trọng quyết định khả năng
tiếp cận thị trường. Chi tiết
IMF
Tổng nợ hay nợ ròng quyết định tới
chênh lệch lãi suất trên các thị
trường mới nổi?
Nghiên cứu cung cấp cả chỉ số tổng hợp
phản ánh độ mở của tài khoản vốn nói chung
và phân tách theo từng cấu phần của dòng
vốn nói riêng. Chi tiết
Liệu việc già hóa dân số và gần đây hơn là
tình trạng suy giảm dân số có đang kìm hãm
các nỗ lực tăng trưởng kinh tế và chống
giảm phát của Nhật Bản? Chi tiết
IMF
Tác động của nhân khẩu học lên
năng suất và lạm phát tại Nhật Bản
IMF
Tác động của già hóa lực lượng lao
động lên năng suất lao động của
Châu Âu
Sự già hóa khiến tăng trưởng năng suất
giảm, chủ yếu thông qua tác động tiêu cực
lên tăng trưởng nhân tố tổng hợp TFP với dự
báo trong hai thập kỷ tiếp theo là tăng trưởng
TFP sẽ giảm khoảng 0,2 điểm phần
trăm/năm. Chi tiết
IMF
Cơ chế điều chỉnh tự động trong hệ
thống hưu trí châu Á?
Cơ chế điều chỉnh tự động (AAM) đã được
đưa ra tại nhiều nước OECD để đối phó với
tình trạng suy giảm bền vững tài chính của
các hệ thống hưu trí công.. Chi tiết
Nghiên cứu đánh giá mối quan hệ giữa
luồng vốn vào và tăng trưởng công nghiệp ở
22 quốc gia mới nổi từ năm 1998 đến 2010.
Kết quả có sự khác biệt giữa giai đoạn trước
khủng hoảng từ 1998 đến 2007 và sau khủng
hoảng. Chi tiết
BIS
Truyền dẫn chính sách tiền tệ quốc
tế qua kênh cho vay ngân hàng đối
với các loại tiền khác nhau
IMF
Tác động đến nền kinh tế thực của
luồng vốn vào các thị trường mới
nổi
IMF
Độ mở tài khoản vốn tại các quốc
gia đang phát triển có thu nhập
thấp: Bằng chứng từ một cơ sở dữ
liệu mới
WB
Tỷ giá linh hoạt và tác động của
kiều hối lên tăng trưởng kinh tế
Bài viết này nghiên cứu câu hỏi rằng liệu
chính sách tỷ giá hối đoái ảnh hưởng như thế
nào đến tác động của kiều hối lên tăng
trưởng kinh tế ở các quốc gia nhận kiều hối.
Chi tiết
HỘI THẢO: “ĐIỀU TRA THỐNG KÊ TIỀN TỆ - NGÂN HÀNG”. (CHI TIẾT)
PHÂN CẤP TÀI CHÍNH VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM
Từ năm 1975, Việt Nam từng bước phân cấp trách nhiệm tài chính về cho các chính quyền địa
phương. Nghiên cứu này nhằm hai mục đích: (i) chỉ ra khuôn khổ thể chế hiện hành về các mối quan
hệ tài khóa giữa các chính quyền địa phương tại Việt Nam, và (ii) đánh giá thực nghiệm về tính bền
vững của các khoản nợ của các chính quyền địa phương tại Việt Nam. Các phân tích thực nghiệm sử
dụng hai phương pháp ước lượng: (i) phương pháp bình phương nhỏ nhất đã hiệu chỉnh (OSL) để ước
lượng các mối tương quan dài hạn giữa các phương trình đồng tích hợp, bao gồm các véc tơ của các biến
đồng tích hợp và các biến động ngẫu nhiên của các biến giải thích; và (ii) các phương trình phản ứng tài
khóa ở cấp tỉnh, dựa trên mô hình của Bohn (2008). Kết quả thực nghiệm cho thấy mức thâm hụt ngân
sách được duy trì bền vững ở cấp địa phương. Chi tiết
NGHIÊN CỨU
CHUYÊN SÂU
THÁNG 12
ẤN PHẨM KHOA HỌC TRONG THÁNG 12
ĐÓN ĐẦU XU HƯỚNG. (Chi tiết)
TỪNG LÀ BÁ CHỦ. (Chi tiết)
QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG. (Chi tiết)
HỘI THẢO KHOA HỌC TRONG THÁNG 12
TỌA ĐÀM VỀ TÀI TRỢ CƠ SỞ HẠ TẦNG CHẤT
LƯỢNG CHO ĐẦU TƯ DÀI HẠN VÀ HUY ĐỘNG
VỐN TỪ KHU VỰC TƯ NHÂN. (Chi tiết)
HỘI THẢO “QUYỀN XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG”. (Chi tiết)
HỘI THẢO “TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI
KHOÁ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ”. (Chi tiết)
NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC THÁNG 12
THÔNG TIN
ĐỀ TÀI
TRONG
NƯỚC
CƠ SỞ SỬ DỤNG HẠN MỨC TÍN DỤNG TRONG ĐIỀU
HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM. (Chi tiết)
Chủ nhiệm: GS.TS. Nguyễn Văn Tiến,
Trưởng Khoa Kinh doanh Quốc tế,
Học viện Ngân hàng
Mã số: DTNH.02/2015
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 1
BẢN TIN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ
1. Hiệu ứng lan tỏa của chính sách tiền tệ phi truyền thống của Mỹ tới các quốc gia Châu Á
mới nổi: kênh cho vay ngân hang (Spillovers of the United States’ Unconventional Monetary
Policy to Emerging Asia: The Bank Lending Channel)
Nguồn: ADB
Tác giả: Xu; Ying; La & Hai Anh
Ngày xuất bản: 05/12/2016
Hiệu ứng lan tỏa của chính sách tiền tệ phi truyền thống của Mỹ lên thị trường tín dụng
Châu Á là rất lớn nhưng có sự khác nhau tùy thuộc vào loại nợ, mục đích của khoản nợ và điều
khoản của các khoản vay. Nghiên cứu này đánh giá tác động lan tỏa của chính sách tiền tệ phi
truyền thống của Mỹ (ví dụ, các chương trình nới lỏng định lượng được áp dụng trong khoảng
thời gian từ năm 2008 đến năm 2014) lên thị trường tín dụng Châu Á. Tập trung vào cho vay
ngân hàng xuyên biên giới, chúng tôi sử dụng dữ liệu khoản cho vay ở cấp độ doanh nghiệp đối
với thị trường cho vay hợp vốn và đo lường kênh cho vay của ngân hàng quốc tế thông qua
những thay đổi trong các khoản nợ bằng đồng đô la Mỹ được mở rộng sang những người đi vay
tại Châu Á. Chúng tôi nhận thấy tăng trưởng của tín dụng bằng đồng đô la tại Châu Á đã tăng
lên đáng kể để phản ứng với chính sách nới lỏng định lượng trên thị trường tài chính Mỹ. Các
kết của nghiên cứu này đã xác nhận sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng tại Châu Á và nhấn
mạnh vai trò của các dòng tín dụng trong việc truyền dẫn các điều kiện tài chính. Nghiên cứu
cũng cung cấp những bằng chứng mới về hiệu ứng lan tỏa thanh khoản xuyên biên giới trong
thị trường cho vay hợp vốn. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng hiệu ứng lan tỏa tổng quát là rất
lớn nhưng có sự khác biệt đáng kể tại Châu Á khi xét trên loại hình của doanh nghiệp đi vay,
mục đích tài trợ và các điều khoản tín dụng tại những giai đoạn khác nhau của chương trình nới
lỏng định lượng. Nghiên cứu kết luận bằng một cuộc thảo luận về các ngụ ý chính sách cho khu
vực trên.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
2. Báo cáo hội nhập kinh tế Châu Á năm 2016 (Asian Economic Integration Report 2016)
Nguồn: ADB
Tác giả:
Ngày xuất bản: 05/12/2016
Với sự phục hồi liên tục nhưng èo uột của kinh tế toàn cầu, tăng trưởng thương mại của
khu vực Châu Á và Thái Bình Dương đã giảm tốc trong năm 2015, tiếp tục giảm sâu so với
tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước. Tăng trưởng thương mại Châu Á tính theo kim ngạch
đã giảm 2.3% trong năm 2015, dưới mức 2.7% tăng trưởng của thương mại toàn cầu, và giảm
xuống thấp hơn đáng kể so với tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) của khu vực là
5.3%. Kim ngạch xuất khẩu cảu các quốc gia đang phát triển Châu Á tăng 3.0% trong năm
2015, tương đương với các nền kinh tế phát triển. Nhưng nhập khẩu chỉ tăng trưởng một lượng
ít ỏi 1.7% so với mức 4.5% của các nước phát triển. Hội nhập tài chính tiếp tục gia tăng dần
trong khu vực nhưng còn kém xa so với hội nhập thương mại. Với việc mở cửa tài chính nhiều
hơn, danh mục đầu tư xuyên biên giới của Châu Á và các yêu cầu bồi thường của ngân hàng đã
tăng lên từ 3 tỷ đô la Mỹ trong năm 2001 lên 11 tỷ đô la Mỹ năm 2015. Tuy nhiên, tỷ trọng của
Châu Á trong danh mục đầu tư xuyên biên giới toàn cầu và các yêu cầu bồi thường của ngân
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 2
hàng trên toàn cầu vẫn chỉ được duy trì ở mức nhỏ 16.2% trong năm 2015, tăng nhẹ so với mức
14.1% trong năm 2001.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
3. Báo cáo bổ sung của Báo cáo Triển vọng Phát triển Kinh tế Châu Á: Các nền kinh tế
Châu Á phát triển ổn định trong bối cảnh bất ổn toàn cầu (Asian Development Outlook
Supplement: Asia's Economies Steady Despite Global Uncertainty)
Nguồn: ADB
Tác giả:
Ngày xuất bản: 13/12/2016
Triển vọng tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á tiếp tục ổn định
mặc dù dự báo trong năm 2016 về Triển vọng Phát triển Châu Á cập nhật gần đây đã giảm
nhẹ mức tăng trưởng. Khu vực này hiện đang được dự kiến sẽ tăng trưởng thêm 5.6% trong
năm nay, hay 0.1 điểm phần trăm lãi suất được dự báo trong Triển vọng Kinh tế Châu Á 2016
cập nhật, như tăng trưởng chậm lại tại Ấn Độ, một trong những nền kinh tế lớn nhất của khu
vực. Tăng trưởng kinh tế được dự báo lại là 5.7% trong năm 2017. Đối với các tiểu vùng, dự
báo tăng trưởng kinh tế được điều chỉnh giảm nhẹ đối với Nam Á trong năm 2016 và Thái
Bình Dương trong năm 2017. Dự báo tăng trưởng kết hợp đối với các nền kinh tế công nghiệp
chủ chốt – như Hoa Kỳ, khu vực đồng euro, và Nhật Bản – được điều chỉnh tăng từ những
dự báo cập nhật trước đó như kết quả quý thứ ba ở Mỹ và khu vực đồng euro đã được chứng
tỏ là mạnh hơn so với dự kiến. Tăng trưởng tiêu dùng mạnh mẽ đã hỗ trợ nền kinh tế Mỹ,
trong khi đó chính sách tiền tệ hỗ trợ và thị trường lao động được cải thiện đã thúc đẩy tăng
trưởng mạnh mẽ ở khu vực đồng euro. Mặc dù đồng yên mạnh hơn, khu vực bên ngoài vẫn
dẫn dắt việc mở rộng kinh tế tại Nhật Bản.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
4. Thương mại, cơ sở hạ tầng và phát triển (Trade, Infrastructure, and Development)
Nguồn: ADB
Tác giả: Olarreaga & Marcelo
Ngày xuất bản: 20/12/2016
Khi cơ sở hạ tầng của một quốc gia kém phát triển, chính phủ cần ưu tiên đầu tư vào cơ
sở hạ tầng trong nước hơn là cơ sở hạ tầng quốc tế. Nghiên cứu này khảo sát những nghiên
cứu về thương mại và phát triển, đặc biệt về những nhân tố bổ trợ liên quan đến cơ sở hạ tầng
thương mại. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng, trung bình, thương mại là động lực
của tăng trưởng, nhưng mối quan hệ này không đồng nhất giữa các quốc gia. Mặc dù nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng phần cứng và phần mềm có
một tác động rõ ràng và tích cực đến dòng chảy thương mại, lý thuyết cho thấy cần ưu tiên
vào đầu tư trong nước hơn là đầu tư vào các cơ sở hạ tầng quốc tế đối với các nước có cơ sở
hạ tầng quốc gia tương đối nghèo nàn. Nghiên cứu cũng đưa ra các dữ liệu bổ trợ để chứng
minh nhận định này.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
5. Thay đổi cấu trúc và quản trị tăng trưởng kinh tế tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 3
hoa: những gợi ý cho phát triển Châu Á và xa hơn (Structural Change and Moderating
Growth in the People’s Republic of China: Implications for Developing Asia and Beyond)
Nguồn: ADB
Tác giả:
Ngày xuất bản: 20/12/2016
Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (PRC) đang trải qua những thay đổi về cấu trúc và chu kỳ
đối với các hoạt động kinh tế tại Trung Quốc và các nước khác trên thế giới. Báo cáo này
đánh giá tác động của những thay đổi trên các vùng còn lại trong khu vực và trên thế giới,
xem xét cẩn thận các kênh truyền dẫn khác nhau bao gồm kênh giá cả hàng hóa, kênh thương
mại và kênh sản xuất. Tăng trưởng liên tục và cầm chừng của Trung Quốc có thể làm mất
một phần ba điểm phần trăm tăng trưởng một năm đối với các nước đang phát triển còn lại
tại Châu Á trong hai năm qua. Những thay đổi trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc tác
động đáng kể lên giá cả hàng hóa, nhưng tác động ước tính là khác nhau tùy theo loại hàng
hóa. Báo cáo này thảo luận cách thức các nhà hoạch định chính sách tại các nước Châu Á
đang phát triển phản ứng lại trước những thách thức và cơ hội do những thay đổi này mang
lại.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
6. Hai giai đoạn của phát triển kinh tế (Two Stages of Economic Development)
Nguồn: ADB
Tác giả: Gong & Gang
Ngày xuất bản: 29/12/2016
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa đang ở vị trí giao điểm của hai giai đoạn phát
triển kinh tế. Nhóm nghiên cứu nhận thấy tiến trình phát triển của một quốc gia kém phát
triển có thể được chia thành hai giai đoạn, trong đó thể hiện tính chất khác biệt đáng kể trong
một số lĩnh vực như các nguồn lực mang tính cơ cấu, phương thức sản xuất, phân phối thu
nhập và các nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hai giai đoạn của tăng trưởng kinh tế đã
được ghi nhận trong lý thuyết tăng trưởng của kinh tế vĩ mô và các học thuyết khác nhau về
“bước ngoặt” trong kinh tế phát triển, bao gồm cả lý thuyết nền kinh tế kép của Lewis, đường
cong Kuznets và bẫy thu nhập trung bình. Một mô hình kinh tế vĩ mô động được xây dựng
để mô phỏng các quá trình phát triển và đã cho thấy có hai giai đoạn phát triển. Sử dụng lý
thuyết hai giai đoạn của phát triển kinh tế, nhóm nghiên cứu thấy rằng nền kinh tế Trung
Quốc hiện nay đang ở vị trí giao điểm của giai đoạn đầu và giai đoạn thứ hai.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
7. Bộ đệm vốn ngược chu kỳ và cấu trúc tín dụng ngân hàng (The countercyclical capital
buffer and the composition of bank lending)
Nguồn: BIS
Tác giả: Raphael Auer & Steven Ongena
Ngày xuất bản: 12/06/2016
Liệu các quy định liên quan tới hoạt động cho vay nhà ở nhằm đảm bảo an toàn vĩ mô có
tác động tới hoạt động cho vay thương mại? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xác định những
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 4
thay đổi trong cấu trúc nguồn cung cấp tín dụng của các ngân hàng qua các biến động trong các
khoản vay mua nhà. Các khoản vay này cần thêm một lượng vốn dự phòng bổ sung (extra
capital requirements) theo các quy định về bộ đệm vốn ngược chu kỳ (countercyclical capital
buffer) được áp dụng tại Thụy Sỹ vào năm 2012. Chúng tôi cho rằng việc áp dụng các quy định
của bộ đệm vốn ngược chu kỳ đã giúp các khoản vay thương mại đạt mức tăng trưởng cao hơn,
đặc biệt là các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và hiện tượng này không liên quan
đến các điều kiện trong thị trường nhà ở trong khu vực. Các mức lãi suất và phí tính vào các
doanh nghiệp này cũng tăng lên. Chúng tôi đưa những hiện tượng này trong một mô hình bao
gồm cả tài sản thế chấp của tư nhân, doanh nghiệp. Khả năng thay thế hoàn hảo tương ứng giữa
tín dụng tư nhân và thương mại có thể là nguyên nhân dẫn tới những thay đổi cấu trúc chúng
tôi đã phát hiện.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
8. Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng: Trường hợp của Ấn Độ (Bank lending and
loan quality: the case of India)
Nguồn: BIS
Tác giả: Pallavi Chavan & Leonardo Gambacorta
Ngày xuất bản: 16/12/2016
Bài viết này phân tích diễn biến nợ xấu của Ấn Độ trong một chu kỳ kinh tế. Kết quả nghiên
cứu cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng 1 điểm phần trăm sẽ khiến tỷ lệ nợ xấu tăng 4,3%
trong dài hạn, tác động này sẽ mạnh hơn trong giai đoạn nền kinh tế được mở rộng. Bên cạnh
đó, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng cũng rất nhạy cảm với môi trường lãi suất và tăng trưởng
chung của nền kinh tế. Mặc dù có sự khác biệt trong cơ cấu quản lý và quản trị nhưng vẫn tồn
tại một phản ứng chấp nhận rủi ro thuận chu kỳ với tăng trưởng tín dụng tại cả các ngân hàng
tư nhân và các ngân hàng cổ phần Nhà nước. Trong đó các ngân hàng tư nhân có phản ứng
mạnh hơn với những thay đổi trong điều kiện lãi suất và chu kỳ kinh doanh.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
9. Khả năng phục hồi của nền kinh tế: góc nhìn tài chính (Economic resilience: a financial
perspective)
Nguồn: BIS
Tác giả:
Ngày xuất bản: 16/12/2016
Một nền kinh tế vững mạnh có khả năng hấp thụ những cú sốc từ bên ngoài và phục hồi
nhanh chóng. Tuy vậy, khả năng phục hồi này cũng chịu tác động bởi các chính sách có thể dẫn
đến sự mất cân bằng tài chính cũng như các chính sách giúp giảm thiểu tác động của các hiệu
chỉnh (các chính sách đối phó với chu kỳ tài chính). Nghiên cứu này thảo luận về bản chất của
chu kỳ tài chính, giám sát chu kỳ tài chính và các tác động kinh tế của giai đoạn bùng nổ và suy
thoái. Chúng tôi cho rằng việc thiết lập một khuôn khổ ổn định về cả vĩ mô và tài chính là điều
cần thiết, trong đó chiếm cả các khía cạnh của khả năng phục hồi. Trong khuôn khổ này, các
chính sách bảo đảm an toàn vĩ mô, chính sách tiền tệ và chính sách tài chính bổ sung cho nhau,
tương trợ lẫn nhau một cách có hệ thống nhằm đối phó với chu kỳ tài chính.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 5
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
10. Kinh tế vĩ mô của vốn ngân hàng và các quy định thanh khoản (Macroeconomics of bank
capital and liquidity regulations)
Nguồn: BIS
Tác giả: Frederic Boissay & Fabrice Collard
Ngày xuất bản: 19/12/2016
Chúng tôi nghiên cứu cơ chế truyền tải các quy định về thanh khoản và vốn cũng như tác
động của chúng lên nền kinh tế và phúc lợi xã hội. Chúng tôi đề xuất một mô hình kinh tế vĩ
mô, trong đó nhà điều hành phải đối mặt với một số đánh đổi (trade-off). Một mặt, các quy định
ngân hàng có thể làm giảm tổng cung tín dụng. Mặt khác, các quy định này lại thúc đẩy quá
trình phân bổ tín dụng một cách hiệu quả hơn. Theo đó, trong một nền kinh tế có nhưng quy
định điều hành chặt chẽ, lượng tín dụng được cung cấp sẽ ít hơn nhưng hiệu quả hơn. Dựa trên
một phiên bản của mô hình đã hiệu chuẩn cho dữ liệu của Mỹ, chúng tôi cho rằng các quy định
về thanh khoản và vốn là điều cần thiết, và phải được thiết lập ở mức tương đối cao. Các quy
định này cũng có vai trò bổ sung và hỗ trợ nhau, ngoại trừ trường hợp tài sản thanh khoản trở
nên khan hiếm. Phân tích của chúng tôi do đó cung cấp thêm luận cứ cho cách tiếp cận "nhiều
chỉ số" trong khuôn khổ Basel III.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
11. Liệu Cục dự trữ Liên bang có tác động tới tính dễ bị tổn thương của hệ thống liên ngân
hàng trước các rủi ro lan truyền? (Did the founding of the Federal Reserve affect the
vulnerability of the interbank system to contagion risk?)
Nguồn: BIS
Tác giả: Mark A Carlson & David C Wheelock
Ngày xuất bản: 21/12/2016
Do những quy định pháp lý nhằm hạn chế mở rộng chi nhánh ngân hàng, một hệ thống liên
ngân hàng đã được xây dựng và phát triển tại Hoa Kỳ trong thế kỷ 19 để tạo điều kiện thanh
toán liên vùng và đáp ứng các nhu cầu về thanh khoản và tín dụng. Những khoản tiền lớn đã
được chuyển qua hệ thống liên ngân hàng để đáp ứng các nhu cầu theo mùa vụ và nhu cầu khác,
tuy nhiên hệ thống cũng lan truyền những cú sốc trong cơn hoảng loạn ngân hàng (banking
panic). Do vậy, Cục Dự trữ Liên bang được thành lập vào năm 1914 nhằm giảm sự phụ thuộc
vào thị trường liên ngân hàng và sửa chữa các khuyết tật gây ra sự mất ổn định hệ thống ngân
hàng. Dựa trên nghiên cứu lý thuyết gần đây về thị trường liên ngân hàng, chúng tôi đánh giá
ảnh hưởng của FED lên khả năng phục hồi của hệ thống với các cú sốc tới khả năng thanh toán
(solvency) và cú sốc thanh khoản cũng như khả năng lan truyền của các cú sốc này. Kết quả
nghiên cứu cho thấy hệ thống liên ngân hàng đã trở nên vững hơn trước các cú sốc về khả năng
thanh toán, nhưng lại kém vững đối với các cú sốc thanh khoản do các ngân hàng giảm mạnh
thanh khoản của họ sau khi thành lập của FED. Phản ứng của ngành ngân hàng đã minh họa
cho hiện tượng thành lập cơ quan đóng vai trò "người cho vay cuối cùng" lại có thể làm thay
đổi hành vi của cá nhân theo cách không mong muốn
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 6
12. Tính động trong hệ thống ngân hàng và các quy định về vốn phụ thuộc quy mô (Banking
industry dynamics and size-dependent capital regulation)
Nguồn: BIS
Tác giả: Tirupam Goel
Ngày xuất bản: 21/12/2016
Nghiên cứu này trình bày mô hình cân bằng tổng thể với một hệ thống ngân hàng động
(dynamic banking sector) nhằm xác định lượng vốn pháp định tối ưu phụ thuộc vào quy mô của
ngân hàng (size-dependent bank capital regulation). Lựa chọn về tỷ lệ đòn bẩy của ngân hàng
phụ thuộc vào mức độ đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro: tỷ lệ đòn bẩy cao giúp tăng lợi nhuận
kỳ vọng trên vốn nhưng cũng làm tăng phương sai và nguy cơ đổ vỡ ngân hàng. Một thị trường
tài chính không hoàn hảo ngụ ý rằng các lựa chọn về tỷ lệ đòn bẩy của ngân hàng là không hiệu
quả về mặt xã hội, do vậy việc áp dụng quy định về tỷ lệ vốn pháp định tối ưu, nhằm tạo một
mức trần lên tỷ lệ đòn bẩy điều là cần thiết. Quy định này sẽ khắt khe hơn so với các tiêu chuẩn
trước khủng hoảng. Đồng thời, mức vốn pháp định tối ưu cũng được tính riêng cho từng ngân
hàng, và sẽ chặt chẽ hơn đối với các ngân hàng lớn so với ngân hàng nhỏ bởi ba lý do sau. Thứ
nhất, việc cho phép các ngân hàng nhỏ có mức đòn bẩy cao hơn sẽ giúp các ngân hàng này phát
triển nhanh hơn, qua đó tạo ra hiệu ứng tăng trưởng. Thứ hai, mặc dù đòn bẩy tại các ngân hàng
nhỏ cao hơn sẽ dẫn tới tỷ lệ thoát (exit rate) cao, nhưng tỷ lệ này đều rơi vào các ngân hàng
kém hiệu quả, qua đó tạo ra hiệu ứng làm sạch (cleansing effect). Thứ ba, việc đổ vỡ tại các
ngân hàng lớn sẽ tốn nhiều chi phí hơn, do các ngân hàng này luôn hoạt động hiệu quả hơn tại
trạng thái cân bằng và đóng vai trò trung chuyển nhiều vốn hơn trong nền kinh tế. Do đó, quy
định chặt chẽ hơn đối với các ngân hàng lớn giúp giảm rủi ro đổ vỡ, qua đó tạo ra hiệu ứng ổn
định. Mô hình được hiệu chỉnh trong nghiên cứu này đã xác định một số trạng thái dừng (steady
state) khác nhau cho hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ, qua đó cung cấp thêm căn cứ hỗ trợ chung
cho các khuôn khổ Basel III.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
13. Truyền dẫn chính sách tiền tệ quốc tế qua kênh cho vay ngân hàng đối với các loại tiền
khác nhau (The currency dimension of the bank lending channel in international monetary
transmission)
Nguồn: BIS
Tác giả: Előd Takáts & Judit Temesvary
Ngày xuất bản: 29/12/2016
Nghiên cứu này đánh giá cách việc cách sử dụng một đồng tiền sẽ truyền dẫn cú sốc chính
sách tiền tệ trong hệ thống ngân hàng toàn cầu như thế nào. Chúng tôi sử dụng dữ liệu mới về
cho vay xuyên biên giới song phương của 27 hệ thống báo cáo tín dụng ngân hàng trực thuộc
ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) tại hơn 50 quốc gia, được chia theo loại tiền tệ (USD, EUR
và JPY). Chúng tôi phát hiện ra 3 vấn đề chính. Thứ nhất, cú sốc chính sách tiền tệ của một loại
tiền tệ bất kỳ sẽ có tác động đáng kể tới hoạt động cho vay xuyên biên giới bằng đồng tiền đó,
ngay cả khi quốc gia đi vay và cho vay đều không sử dụng đồng tiền đó làm đồng tiền chính
thức của họ. Thứ hai, kênh truyền dẫn này hoạt động chủ yếu thông qua cho vay phi ngân hàng.
Thứ ba, kênh truyền dẫn này hoạt động tương tự nhau đối với cả ba loại tiền tệ trên, qua đó cho
thấy việc truyền dẫn cú sốc thanh khoản qua kênh cho vay ngân hàng xuyên biên giới không
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 7
phải là hiện tượng đặc biệt đối với riêng USD
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
14. Tác động đến nền kinh tế thực của luồng vốn vào các thị trường mới nổi (Real Effects
of Capital Inflows in Emerging Markets)
Nguồn: IMF
Tác giả: Ms. Deniz O Igan; Ali M. Kutan & Ali Mirzae
Ngày xuất bản: 06/12/2016
Nghiên cứu đánh giá mối quan hệ giữa luồng vốn vào và tăng trưởng công nghiệp ở 22
quốc gia mới nổi từ năm 1998 đến 2010. Tác giả dự đoán quốc gia càng tiếp nhận vốn vào
nhiều để tăng trưởng nhanh thì các ngành công nghiệp của quốc gia đó càng phụ thuộc vào
nguồn tài chính nước ngoài. Điều này thực sự đúng trong giai đoạn trước khủng hoảng từ
1998 đến 2007 khi luồng vốn vào chủ yếu là vốn vay chứ không phải vốn chủ sở hữu. Tác
giả cũng quan sát thấy mức biến động tăng trưởng kinh tế cũng được thu hẹp cùng với luồng
vốn chủ sở hữu vào chứ không phải vốn vay. Tuy nhiên, mối quan hệ này bị phá vỡ khi cuộc
khủng hoảng xảy ra, cho thấy tầm quan trọng của một hệ thống tài chính toàn cầu không gián
đoạn đối với các thị trường mới nổi nhằm khai thác các lợi ích tăng trưởng của luồng vốn
vào. Đồng thời với quan sát này, tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ giữa dòng vốn vào và tăng
trưởng sẽ mạnh hơn ở các quốc gia có hệ thống ngân hàng lành mạnh.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
15. Tổng nợ hay nợ ròng quyết định tới chênh lệch lãi suất trên các thị trường mới nổi?
(Does Gross or Net Debt Matter More for Emerging Market Spreads?)
Nguồn: IMF
Tác giả: Metodij Hadzi-Vaskov & Mr. Luca A Ricci
Ngày xuất bản: 22/12/2016
Liệu nợ ròng hay tổng nợ có ảnh hưởng tới chênh lệch lãi suất dài hạn của các quốc gia ở
các thị trường mới nổi? Đây là một nội dung quan trọng để có thể hiểu được tác động của các
quyết định quản trị tài sản nợ - có (chẳng hạn như sử dụng tài sản để làm giảm nợ) lên chi phí
đi vay. Các tác giả tìm hiểu vấn đề này thông qua phân tích các dữ liệu của các nền kinh tế mới
nổi trong khoảng thời gian từ 1998 – 2014. Nghiên cứu phát hiện thấy cả tổng tài sản và tổng
nợ đều có tác động lớn tới lãi suất trái phiếu quốc gia tại các thị trường mới nổi, với các mức
tác động gần như bù trừ lẫn nhau. Do dó, việc sử dụng nợ ròng để đánh giá tác động của tình
trạng nợ nần lên chênh lệch lãi suất phù hợp hơn là sử dụng tổng nợ. Các kết quả thực nghiệm
cho thấy khi nợ ròng tăng lên thêm 10 điểm phần trăm GDP, thì chênh lệch lãi suất tăng lên
khoảng 100 – 120 điểm cơ bản và hiệu ứng này sẽ lớn hơn trong các thời kỳ mà quốc gia đang
gặp khó khăn. Các kết quả quan trọng từ nghiên cứu thực nghiệm này là hoàn toàn vững khi sử
dụng các định dạng thay thế và áp dụng với các phân nhóm nhỏ các nước khác nhau trong số
các nền kinh tế mới nổi.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
16. Biến động nợ công và khả năng tiếp cận thị trường (Lost and Found: Market Access and
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 8
Public Debt Dynamics)
Nguồn: IMF
Tác giả: Mr. Carlo Cottarelli; Andrea Presbitero & Antonio Bassanetti
Ngày xuất bản: 12/23/2016
Các nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng nợ công chỉ ra rằng mức nợ công (được đo
bằng tỷ lệ so với GDP) là một biến quan trọng để dự đoán khả năng vỡ nợ và xác định khả
năng tiếp cận thị trường của quốc gia. Kết quả này đã dẫn tới việc sử dụng rộng rãi ngưỡng
nợ (theo từng quốc gia) để đánh giá tính bền vững của nợ. Nhóm tác giả cho rằng tỷ lệ nợ
trên GDP, được sử dụng để chứng minh trong các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm,
không phải là chỉ số tài chính duy nhất để đánh giá mối quan hệ phức tạp giữa nợ công và
khả năng vỡ nợ/tiếp cận thị trường. Đặc biệt, tác giả chỉ ra rằng, đối với các thị trường mới
nổi, sự biến động của tỷ lệ nợ đóng vai trò quan trọng quyết định khả năng tiếp cận thị trường.
Cụ thể, với mức độ nợ nhất định, tỷ lệ nợ giảm dần liên tục gắn liền với khả năng vỡ nợ/tổn
thất thị trường thấp và khả năng tái tiếp cận thị trường cao hơn một khi khả năng này đã bị
mất.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
17. Độ mở tài khoản vốn tại các quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp: Bằng chứng từ
một cơ sở dữ liệu mới (Capital Account Openness in Low-income Developing Countries:
Evidence from a New Database)
Nguồn: IMF
Tác giả: Mrs. Sarwat Jahan & Daili Wang
Ngày xuất bản: 23/12/2016
Việc theo dõi và đánh giá thích đáng các biện pháp quản lý dòng vốn tại các quốc gia đã
được quan tâm đúng mức tuy nhiên vẫn còn rất ít nghiên cứu tập trung vào đối tượng các nước
đang phát triển thu nhập thấp (LIDCs). Trở ngại chủ yếu là do thiếu chỉ số thích hợp để đo
lường mức độ độ mở của tài khoản vốn và những thay đổi của nó theo thời gian. Khắc phục
tình trạng đó, nghiên cứu này đã xây dựng một chỉ số “theo hình thức” (de jure index) dựa trên
những thông tin tại báo cáo thường niên của IMF về Các thỏa thuận trao đổi và Hạn chế giao
dịch. Nó cung cấp cả chỉ số tổng hợp phản ánh độ mở của tài khoản vốn nói chung và phân tách
theo từng cấu phần của dòng vốn nói riêng. Hệ thống dữ liệu mới bao gồm 164 quốc gia với
thông tin về 12 loại tài sản trong giai đoạn 1996-2013. Chỉ số có độ bao quát rộng nhất đối với
các quốc gia LIDCs trong số tất cả các chỉ số hiện có và cung cấp chi tiết về độ mở của các loại
tài sản, hướng và hiện trạng của dòng vốn. Nghiên cứu cũng xem xét mối liên hệ giữa độ mở
tài khoản vốn về mặt hình thức với dòng vốn thực tế và chỉ ra các ứng dụng tiềm năng của cơ
sở dữ liệu này.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
18. Tác động của nhân khẩu học lên năng suất và lạm phát tại Nhật Bản (The Impact of
Demographics on Productivity and Inflation in Japan)
Nguồn: IMF
Tác giả: Mr. Niklas J Westelius & Yihan Liu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 9
Ngày xuất bản: 08/12/2016
Liệu việc già hóa dân số và gần đây hơn là tình trạng suy giảm dân số có đang kìm hãm các
nỗ lực tăng trưởng kinh tế và chống giảm phát của Nhật Bản? Khai thác sự biến đổi nhân khẩu
học và kinh tế trong dữ liệu cấp tỉnh từ năm 1990 đến 2007, các tác giả nhận thấy thấy rằng tình
trạng già hóa của dân số trong độ tuổi lao động đã có tác động tiêu cực đáng kể lên năng suất
nhân tố tổng hợp. Hơn nữa, các tỉnh có tốc độ già hóa lớn hơn có mức lạm phát tổng thể thấp
hơn, trong khi các tỉnh có tốc độ tăng trưởng dân số cao hơn trải qua mức lạm phát cao hơn.
Các kết quả này hỗ trợ mạnh mẽ quan điểm cho rằng những biến động trong nhân khẩu học có
thể có một tác động không hề nhỏ lên năng suất nhân tố tổng hợp và áp lực giảm phát.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
19. Tác động của già hóa lực lượng lao động lên năng suất lao động của Châu Âu (The
Impact of Workforce Aging on European Productivity)
Nguồn: IMF
Tác giả: Mr. Shekhar Aiyar & Mr. Christian H Ebeke
Ngày xuất bản: 08/12/2016
Trong vài thập kỷ qua, phân bố lực lượng lao động theo độ tuổi của châu Âu đã chuyển dịch
sang phía lao động lớn tuổi, và quá trình này dự kiến còn tiếp tục tăng trong các năm tới. Bài
nghiên cứu này đánh giá tác động của việc già hóa lực lượng lao động lên năng suất lao động,
xác định các kênh truyền dẫn chính, cũng như kiểm định những chính sách nào có thể giảm
thiểu các tác động của sự già hóa này. Tác giả chỉ ra sự già hóa khiến tăng trưởng năng suất
giảm, chủ yếu thông qua tác động tiêu cực lên tăng trưởng nhân tố tổng hợp TFP. Dự báo trong
hai thập kỷ tới, tăng trưởng TFP giảm trung bình 0,2 điểm phần trăm/năm do già hóa gây ra.
Để giảm thiểu tác động này thì một loạt các chính sách khác nhau có thể được áp dụng.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
20. Cơ chế điều chỉnh tự động trong hệ thống hưu trí châu Á? (Automatic Adjustment
Mechanisms in Asian Pension Systems?)
Nguồn: IMF
Tác giả: Elif C Arbatli; Csaba Feher; Jack J Ree; Ikuo Saito & Mauricio Soto
Ngày xuất bản: 13/12/2016
Cơ chế điều chỉnh tự động (AAM) – các quy tắc đảm bảo các đặc điểm nhất định của một
hệ thống hưu trí sẽ phản ứng với những biến động tài chính, kinh tế vĩ mô, nhân khẩu học, theo
một cách thức định trước và không cần có sự can thiệp bổ sung – đã được đưa ra tại nhiều nước
OECD để xử lý tình trạng suy giảm bền vững tài chính của các hệ thống hưu trí công. Áp dụng
AAMs – đặc biệt là kết nối tuổi nghỉ hưu với tuổi thọ - có thể là một cấu phần quan trọng trong
cải cách hưu trí tại châu Á. Nếu được áp dụng sớm, AAMs có thể giúp giảm thiểu yêu cầu phải
thực hiện những điều chỉnh lớn trong tương lại, gia tăng khả năng dự đoán, sự bình đẳng giữa
các các thế hệ trong hệ thống hưu trí, và cải thiện niềm tin.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 10
21. Tỷ giá linh hoạt và tác động của kiều hối lên tăng trưởng kinh tế (Exchange rate
flexibility and the effect of remittances on economic growth)
Nguồn: WB
Tác giả: Lartey & Emmanuel Kwasi Koranteng
Ngày xuất bản: 30/12/2016
Bài viết này nghiên cứu câu hỏi rằng liệu chính sách tỷ giá hối đoái ảnh hưởng như thế
nào đến tác động của kiều hối lên tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia nhận kiều hối. Nghiên
cứu sử dụng một tập hợp các dữ liệu toàn diện bao gồm các quan sát hàng năm cho 135 quốc
gia đang phát triển và chuyển đổi, trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 2007. Các
dữ liệu về các cơ chế tỷ giá được dựa trên việc phân loại các cơ chế tỷ giá của Reinhart và
Rogoff, trong khi dữ liệu về kiều hối và các biến khác được lấy từ cơ sở dữ liệu Các Chỉ số
về Phát triển Thế giới của Ngân hàng Thế giới. Kết quả cho thấy cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn
đi kèm với một sự tăng trưởng lớn hơn về kinh tế, theo sau một sự gia tăng về kiều hối, và
rằng tác động của kiều hối lên tăng trưởng là thuận chiều dưới một chế độ tỷ giá hối đoái cố
định. Các ước tính cho thấy kiều hối tăng thêm 1% thì tăng trưởng bình quân đầu người tăng
thêm khoảng 0.79% dưới một chế độ tỷ giá cố định, và rằng tác động này tăng thêm khoảng
0.13% cho mỗi điểm phần trăm tăng thêm trong chỉ số linh hoạt của tỷ giá hối đoái. Các kết
quả hơn nữa còn cho thấy tác động của kiều hối dưới một chế độ tỷ giá cố định là thuận chiều
tại các quốc gia có hệ thống tài chính kém phát triển hơn, nhưng không đưa ra bằng chứng
thuyết phục cho thấy hiệu ứng này thay đổi nguược với sự linh hoạt của tỷ giá trong các nền
kinh tế như giả thuyết.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 11
NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU
PHÂN CẤP TÀI CHÍNH VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM Peter J. Morgan và Long Q. Trinh
Ngân hàng Phát triển Châu Á
Tóm tắt: Từ năm 1975, Việt Nam từng bước phân cấp trách nhiệm tài chính về cho các
chính quyền địa phương. Nghiên cứu này nhằm hai mục đích: (i) chỉ ra khuôn khổ thể chế hiện
hành về các mối quan hệ tài khóa giữa các chính quyền địa phương tại Việt Nam, và (ii) đánh
giá thực nghiệm về tính bền vững của các khoản nợ của các chính quyền địa phương tại Việt
Nam. Các phân tích thực nghiệm sử dụng hai phương pháp ước lượng: (i) phương pháp bình
phương nhỏ nhất đã hiệu chỉnh (OSL) để ước lượng các mối tương quan dài hạn giữa các
phương trình đồng tích hợp, bao gồm các véc tơ của các biến đồng tích hợp và các biến động
ngẫu nhiên của các biến giải thích; và (ii) các phương trình phản ứng tài khóa ở cấp tỉnh, dựa
trên mô hình của Bohn (2008). Kết quả thực nghiệm cho thấy mức thâm hụt ngân sách được
duy trì bền vững ở cấp địa phương.
GIỚI THIỆU
Kể từ năm 1975, Việt Nam đã dần dần phân cấp trách nhiệm tài chính về cho các chính
quyền địa phương. Năm 1996, Luật Ngân sách Nhà nước đầu tiên đã được ban hành, và việc
phân cấp tài khóa đã chính thức được thực hiện. Luật Ngân sách sau đó được sửa đổi vào năm
2002 và có hiệu lực thi hành vào năm 2004, đã trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các chính quyền
địa phương, đặc biệt là ở cấp tỉnh để thúc đẩy phát triển bền vững thông qua các ưu tiên và ổn
định kinh tế địa phương, bình đẳng giữa các tỉnh, cung ứng dịch vụ hiệu quả, và tăng cường
tính minh bạch và trách nhiệm trong tài chính công.
Hiện nay, chi tiêu địa phương chiếm chỉ hơn một nửa chi tiêu chính phủ nói chung,
trong khi nguồn thu địa phương chiếm hơn 1/3 doanh thu chính phủ, và chỉ hơn một nửa khi
tính thêm cả nguồn bổ sung ngân sách. Đây là những tỷ lệ lớn khi so sánh với các quốc gia
khác, đặc biệt là những quốc gia có trình độ phát triển tương đồng với Việt Nam (World Bank
2014).
Nghiên cứu này có 2 mục tiêu: (i) chỉ ra khuôn khổ thể chế hiện hành về các mối quan
hệ tài khóa giữa các chính quyền địa phương tại Việt Nam, và (ii) đánh giá thực nghiệm về tính
bền vững của các khoản nợ của các chính quyền địa phương tại Việt Nam.
1. HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VÀ PHÂN CẤP TÀI KHÓA Ở
VIỆT NAM KỂ TỪ NĂM 1975.
1.1.Hệ thống chính quyền địa phương:
Hệ thống chính quyền địa phương của Việt nam được thiết lập từ năm 1945, cùng lúc
với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên
tắc này tạo ra một hệ thống hành chính phân cấp từ trên xuống, có nghĩa là cấp dưới tuân thủ
cấp trên, và các chính quyền địa phương tuân thủ chính quyền trung ương. Hiện nay, Việt Nam
có 4 cấp chính quyền: (i) trung ương; (ii) 63 tỉnh bao gồm 5 thành phố lớn; (iii) 710 thành phố,
thị trấn cấp quận (ở khu vực đô thị), huyện (ở khu vực nông thôn); và (iv) 11.145 phường và
thị xã (ở khu vực đô thị) và xã (ở khu vực nông thôn). Mỗi cấp chính quyền có cả quyền lập
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 12
pháp và hành pháp. Ở cấp trung ương, quyền lập pháp thuộc trách nhiệm của Quốc hội, và
quyền hành pháp thuộc trách nhiệm của các Bộ, ngành và cơ quan. Ở cấp địa phương, mỗi cấp
chính quyền có hội đồng nhân dân để thực hiện quyền lập pháp và ủy ban nhân dân và các sở
ban ngành dể thực hiện quyền hành pháp.
1.2.Phân cấp tài khóa kể từ năm 1975:
Từ năm 1975 đến năm 1989, Việt Nam đã duy trì hệ thống kinh tế và tài chính tập trung.
Các chính quyền địa phương đóng vai trò như đại lý cho chính phủ trung ương, và họ cũng
được chuyển nhượng một phần doanh thu giới hạn từ nguồn tự có (own-source revenue) bao
gồm phí, lệ phí, khấu hao tài sản, và một phần doanh thu được chia bao gồm doanh thu từ lợi
nhuận của các doanh nghiệp nhà nước (SOEs), và thuế đánh trên các hoạt động công và nông
nghiệp. Vào năm 1983, chính phủ ban hành một nghị quyết để phân biệt hơn nữa doanh thu từ
nguồn tự có của chính quyền địa phương với doanh thu được chia sẻ bởi chính quyền địa phương
với chính phủ trung ương. Tỷ lệ phân chia vẫn được quyết định bởi chính phủ trung ương.
Chính phủ trung ương cũng thiết kế hệ thống trợ cấp cho các tỉnh không thể bù đắp chi tiêu địa
phương bằng các nguồn doanh thu được chia và nguồn tự có.
Trong suốt thời kỳ này, vai trò của các chính quyền địa phương trong quá trình xây dựng
ngân sách phát triển và chính phủ trung ương bắt đầu cân nhắc việc để chính quyền địa phương
trở thành một bộ phận không tách rời của ngân sách nhà nước. Năm 1989, chính phủ triển khai
một nghị quyết điều chỉnh trách nhiệm chi tiêu và nguồn thu của các chính quyền địa phương.
Theo nghị quyết này, nguồn thu của chính quyền địa phương hình thành từ 3 nguồn: (i) 100%
doanh thu thu được ở địa phương (như các khoản thu để bù đắp khấu hao, các khoản thuế đánh
trên hoạt động giết mổ gia súc, và các khoản thuế, phí khác); (ii) doanh thu thuế được chia với
chính phủ trung ương (như các khoản thu từ lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước trung
ương và địa phương và các hoạt động công nghiệp); và (iii) các khoản chuyển giao có điều kiện
để cân đối ngân sách của các chính quyền địa phương. Theo quy định mới này, các chính quyền
địa phương không thể giữ lại nguồn doanh thu được chia; do đó, trong số 44 tỉnh, 14 tỉnh đã trả
lại doanh thu bổ sung cho chính phủ trung ương từ nguồn doanh thu được chia do ngân sách
của họ đã cân đối.
Năm 1996, để tiếp tục cải cách mối quan hệ chính quyền trung ương – địa phương, luật
ngân sách đầu tiên đã được ban hành, và có hiệu lực vào năm 1997. Luật ngân sách này đã vạch
rõ trách nhiệm chi tiêu và phân bổ doanh thu cho chính quyền trung ương và địa phương, và
điều chỉnh việc đi vay của các chính quyền địa phương cũng như các khoản chuyển giao tài
chính giữa các chính quyền. Luật ngân sách sau đó đã được sửa đổi vào năm 1998, và có hiệu
lực vào năm 1999. Theo luật sửa đổi, bổ sung, các cấp chính quyền địa phương thấp hơn (như,
cấp quận và xã) được đảm bảo trách nhiệm thu và chi lớn hơn. Chẳng hạn, họ được đảm bảo ít
nhất là 70% doanh thu của mình từ các khoản thuế lên quyền chuyển nhượng đất đai, các khoản
thuế đất và nhà ở, các khoản thuế cấp phép từ các doanh nghiệp nhỏ, và thuế nông nghiệp. Luật
ngân sách sửa đổi này cũng xác định vai trò của các tổ chức khác nhau tham gia vào việc hình
thành ngân sách trung ương cũng như vai trò của các Bộ, ban ngành và chính quyền địa phương
trong quá trình thực thi.
Để trao nhiều trách nhiệm tài chính hơn cho các chính quyền địa phương, đặc biệt là ở cấp
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 13
tỉnh, luật ngân sách mới đã được ban hành và năm 2002, và có hiệu lực vào năm 20041. Luật
này có một số điểm khác biệt:
(i) Chính phủ trung ương đã trao quyền tự chủ nhiều hơn cho chính quyền địa phương.
Trong khi luật năm 1997 thiết lập mối quan hệ tài khóa giữa các chính quyền trong
tất cả các cấp chính quyền, luật mới chỉ điều chỉnh quan hệ tài khóa giữa các cấp
trung ương và cấp tỉnh. Các chính quyền địa phường theo đó có quyền tự chủ trong
việc quyết định các quan hệ tài khóa giữa các cấp chính quyền thuộc phạm vi quyền
hạn của mình.
(ii) Năng lực tài khóa của các chính quyền địa phương được củng cố. Chính phủ trung
ương chia sẻ một số loại doanh thu trước đó chỉ được coi là nguồn thu của chính
phủ trung ương (như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xăng dầu) với chính quyền địa
phương.
(iii) Chính phủ trung ương cũng tạo động lực thúc đẩy nỗ lực tạo nguồn thu cho các
chính quyền địa phương.
(iv) Chính phủ trung ương cũng thiết lập nền tảng pháp lý để áp dụng việc chuyển giao
ngân sách giữa các chính quyền theo công thức.
(v) Đặt ra thời kỳ ổn định ngân sách là từ 3-5 năm do Quốc hội quyết định. Kể từ năm
2004, có 3 thời kỳ ổn định ngân sách là: 2004 – 2006, 2007 – 2010, và 2011 – 2016.
Luật ngân sách mới này xác định chỉ có một ngân sách khu vực công thống nhất và phải
được Quốc hội phê chuẩn cuối cùng, điều này cho thấy Quốc hội được trao nhiều quyền lực
hơn trong tiến trình phân cấp tài chính. Các quyết định về chỉ tiêu chuyển giao cũng được
chuyển từ Bộ Tài chính về cho Quốc hội, và được công bố công khai cho các bộ ngành và các
tỉnh, nhờ đó nâng cao sự minh bạch và quá trình hình thành ngân sách. Thêm vào đó, Quốc hội
thông qua không chỉ dự toán tổng doanh thu và chi tiêu mà cả thành phần.
Khác với các nước khác, bản chất thứ bậc trong hệ thống tài khóa của Việt Nam đã làm
phức tạp quy trình ngân sách. Mặc dù mỗi chính quyền địa phương có quyền tự chủ nhất định
trong việc dự toán ngân sách, nhưng ngân sách của các chính quyền cấp thấp hơn được chính
quyền cấp cao hơn kiểm tra và phê duyệt. Kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình này phải
được họp nhất vào một bản kế hoạch ngân sách nhà nước duy nhất. Bản chất thứ bậc này cũng
làm suy giảm quyền tự chủ của các chính quyền địa phương cấp thấp, vì ngân sách của họ phải
tuân theo những thay đổi và sửa chữa của chính quyền cấp cao hơn.
1 Khác với nhiều nền kinh tế khác, luật ngân sách tại Việt nam không chỉ bao gồm ngân sách chính phủ trung ương mà còn cả
mối quan hệ tài khóa giữa các chính quyền và việc sắp xếp quản lý ngân sách của các cấp. Điều này phản ánh hệ thống ngân
sách mạng lưới của quốc gia (World Bank 2014).
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 14
Hình 1. Quy trình tài khóa tại Việt Nam
1.3.Phân cấp tài khóa hiện đại tại Việt Nam:
1.3.1. Phân cấp chi tiêu:
Kể từ khi áp dụng luật ngân sách 2002, chính quyền địa phương được trao nhiều quyền
lực hơn trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến phân bổ nguồn lực trong tỉnh của mình,
do luật này đã xác định chức năng chi tiêu cho chính phủ trung ương và chính quyền địa phương.
Chính phủ trung ương vẫn có trách nhiệm độc quyền đối với các quan hệ đối ngoại, ngoại
thương và hỗ trợ quốc tế, an ninh lương thực, và quản lý thuốc. Trách nhiệm đối với các dịch
vụ công khác được chia sẻ giữa các cấp chính quyền khác nhau.
Phân bổ chi tiêu cũng tính đến đặc tính của các khu vực và không đều giữa các tỉnh. Các
tỉnh có lợi thế về tài khóa được hưởng quyền tự chủ tài chính và hành chính lớn hơn, trong khi
các cơ quan chính phủ trung ương thể hiện vai trò lớn hơn ở các tỉnh kém lợi thế về tài khóa.
Bảng 1. Tỷ lệ doanh thu phân cấp trên tổng chi tiêu
Chi tiêu 2007 2010 2013
Tổng chi tiêu 46,6 53,1 52,6
Chi đầu tư phát triển (bao gồm cả chi phí vốn) 62,7 73,4 68,9
Trả nợ và tài trợ quốc tế 15,2 9,7 6,3
Chi thường xuyên 50,3 53,5 53,7
Giáo dục 86,2 89,6 90,9
Y tế 79,0 80,8 84,4
Phúc lợi xã hội 14,0 17,9 24,5
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu của Bộ Tài chính
Chi tiêu chính phủ địa phương chiếm một phần quan trọng trong tổn chi tiêu chính phủ
ở Việt Nam (Bảng 1). Tỷ trọng chi tiêu của chính quyền địa phương tăng từ 47% năm 2007 lên
Quốc hội
Hội đồng nhân dân
các tỉnh
Chính quyền quận
Hội đồng nhân dân
các quận
Chính quyền xã
Chính quyền tỉnh
Chính quyền quận
Chính quyền trung ương
Xã
Quận (gồm quận, xã)
Địa phương (bao gồm
tỉnh, quận, xã)
Nhà nước
(bao gồm trung
ương và địa
phương)
Phê duyệt
Phê duyệt
Phê duyệt
Phê duyệt
Soạn thảo
Soạn thảo
Soạn thảo
Soạn thảo
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 15
gần 53% năm 2016. Năm 2013, các chính quyền địa phương chiếm khoảng 70% tổng chi phí
vốn, do trách nhiệm của chính phủ trung ương chỉ giới hạn ở các dự án lớn của quốc gia. Tỷ
trọng của chính quyền địa phương trong chi thường xuyên cũng tăng lên mức 54% năm 2013.
Ngoại trừ các chức năng an sinh xã hội vốn vẫn luôn chiếm một phần lớn trong tổng chi tiêu
của chính phủ trung ương (khoảng 75%), các chính quyền địa phương chiếm một tỷ lệ cao trong
tổng chi thường xuyên cho các chức năng còn lại của chính phủ. Chẳng hạn, trong năm 2013,
chính quyền các địa phương chịu trách nhiệm cho 91% tổng chi thường xuyên trong khu vực
giáo dục và 84% trong khu vực y tế.
Ở các cấp chính quyền thấp hơn, mức độ phân cấp cũng khá cao. Tại nhiều tỉnh, chi tiêu
cấp quận chiếm tới hơn 45% tổng chi tiêu địa phương (World Bank 2014). Chính quyền các
cấp thấp hơn chịu trách nhiệm phần lớn chi thường xuyên trong khu vực giáo dục (75% năm
2012), và y tế (60% năm 2012). Uchimura và Kono (2012) và World Bank (2014) đã chỉ ra tỷ
lệ dân số nông thôn và mức độ năng lực địa phương là những nhân tố quan trọng quyết định
mức độ chi tiêu của cấp quận trong tổng chi tiêu địa phương. Tuy nhiên, mức độ phân cấp chi
phí vốn (chi phí xây dựng cơ bản) giữa cấp tỉnh và cấp thấp hơn là khá hạn chế. Chỉ 30% tổng
chi tiêu vốn cấp tỉnh được thực hiện bởi các cấp chính quyền thấp hơn. Điều này là do những
quan ngại về tính hiệu quả của việc chi tiêu xây dựng cơ bản ở các chính quyền cấp thấp.
Mặc dù Việt Nam đã đẩy nhanh quá trình phân cấp tài khóa của mình, nhưng vẫn còn
những yếu tố thể chế có thể gây tác động tiêu cực lên hiệu quả của các quyết định này. Thứ
nhất, trách nhiệm chi tiêu cho mỗi cấp chính quyền vẫn còn chưa được xác định rõ ràng, do vậy
gây ra những chồng chéo không cần thiết. Ngoại trừ một số trách nhiệm độc quyền như đã đề
cập ở trên, trách nhiệm đối với các dịch vụ công còn lại được chia sẻ giữa chính quyền trung
ương và địa phương, bao gồm cả quốc phòng, bảo vệ và bảo hiểm xã hội. Trong khi đóng góp
địa phương cho các lĩnh vực này thường là nhỏ, nhưng chúng lại có tác động không đồng đều
lên các tỉnh nghèo, và đôi khi các khoản chi tiêu này lại không thể dự tính trước và do đó đòi
hỏi phải điều chuyển nguồn lực địa phương từ các dịch vụ khác sang (World Bank 2014).
Hơn nữa, nếu sự phối hợp giữa các cấp chính quyền không nhịp nhàng, việc phân bổ
chi tiêu mập mờ có thể gây ra tình trạng chồng chéo và thiếu hiệu quả. Tình trạng chồng chéo
dễ thấy nhất là trong khu vực y tế và giáo dục. Chẳng hạn, trong ngành giáo dục, chính phủ
trung ương và các chính quyền địa phương cùng chia sẻ việc điều hành, hỗ trợ tài chính, quản
lý và cung ứng hầu hết tất cả các cấp giáo dục, từ mẫu giáo đến đại học. Tình trạng chồng chéo
trong trách nhiệm chi tiêu như vậy tạo ra nhiều gánh nặng cho chính quyền địa phương, bao
gồm cả thời gian và công sức để làm rõ chức năng tương tứng của từng cấp (World Bank 2014).
Thứ hai, mặc dù luật ngân sách 2002 liệt kê các chức năng chi tiêu cho cả chính quyền
trung ương và địa phương, nhưng các danh sách này vừa quá chi tiết và vừa mơ hồ, ảnh hưởng
tới quyền tự chủ và linh hoạt của các chính quyền địa phương. Chẳng hạn, luật này liệt kê một
số chức năng không rõ ràng như đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế nhà
nước và các tổ chức tài chính nhà nước nhưng chức năng chi tiêu ở một số lĩnh vực nhất định
có thể khác nhau giữa các tỉnh do điều kiện phát triển kinh tế xã hội khác nhau.
Thứ ba, luật ngân sách 2002 trao cho các tỉnh quyền phân bổ trách nhiệm chi tiêu cho
các cấp chính quyền thấp hơn, việc này dẫn tới sự khác biệt lớn trong phân bổ chi tiêu của các
tỉnh. Trong thời kỳ ổn định đầu tiên, cả 3 cấp chính quyền dưới cấp quốc gia đều chịu trách
nhiệm cho chi tiêu trong khu vực y tế tại 25 tỉnh, chính quyền cấp tỉnh và cấp xã chia sẻ trách
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 16
nhiệm này ở 8 tỉnh, chính quyền cấp tỉnh và cấp quận chia sẻ trách nhiệm này ở 14 tỉnh và trách
nhiệm này chỉ thuộc độc quyền của chính quyền cấp tỉnh tại 17 tỉnh (Le 2006).
1.3.2. Phân cấp nguồn thu:
Nguồn thu ngân sách tại Việt Nam có thể được chia thành ba loại: (i) nguồn thu chính quyền
trung ương, (ii) nguồn thu hoàn toàn do chính quyền địa phương giữ và (iii) nguồn thu chia sẻ giữa trung
ương và địa phương. Theo đó, thuế chia sẻ bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT) (trừ thuế giá trị gia tăng
đối với hàng hóa nhập khẩu), thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ một số trường hợp đặc biệt), thuế thu
nhập cá nhân, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (trừ ngành dầu khí), thuế tiêu thụ đặc biệt và phí
xăng dầu. Lưu ý rằng việc chia sẻ các khoản thuế này dựa trên nơi cư trú của người nộp thuế, mức thuế
suất và căn cứ được chính phủ quy định và thống nhất trong cả nước.
Tỷ lệ chia sẻ có một số đặc điểm, đó là: tỷ lệ mới được giới thiệu tại thời điểm bắt đầu của mỗi
thời kỳ ổn định, tỷ lệ thống nhất cho tất cả thuế chia sẻ, tỷ lệ cố định trong thời kỳ cố định, và các tỷ lệ
được áp dụng khác nhau với các tỉnh thành. Tỷ lệ chia sẻ được thiết lập tại thời điểm đầu của mỗi thời
kỳ ổn định và dựa vào khả năng tài chính của tỉnh. Bảng 2 thể hiện tỷ lệ chia sẻ tại các tỉnh thành có tỷ
lệ ít hơn 100%.
Thuế và phí hoàn toàn dành riêng cho các tỉnh thành bao gồm thuế đất đai và nhà ở, tài nguyên
thiên nhiên (trừ dầu khí), thuế môn bài, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp,
lệ phí sử dụng đất, tiền thuê đất, doanh thu từ cho thuê và bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, phí đăng
ký và doanh thu từ xổ số nhà nước cũng như các loại phí và lệ phí khác. Trong tất cả các nguồn thu,
dạng thu từ những nguồn tự có này là thích hợp nhất trong định nghĩa tiêu chuẩn của phân cấp tài chính.
Nguồn thu này, cùng với các nguồn thu chia sẻ (shared revenue) có thể được xem như chuyển giao tài
chính (fiscal transfer), tạo nên doanh thu phân cấp. Chúng là cốt lõi của doanh thu địa phương.
Luật ngân sách mới cho phép chính quyền địa phương quy định thu nhập với các huyện và xã
trong phạm vi thẩm quyền của mình, mặc dù vẫn còn một số nguyên tắc chung và các tiêu chuẩn tối
thiếu mà các tỉnh thành phải tuân theo. Tuy nhiên, quyền tự chủ hơn trong việc phân công trách nhiệm
chi tiêu cho phép các tỉnh thành vạch ra trách nhiệm chi tiêu dựa trên năng lực tài chính và đặc điểm
nông thôn, đô thị tại địa bàn.
Bảng 2: Tỷ lệ chia sẻ của tỉnh thành và Trung ương
Doanh thu tỉnh thành giữ lại (%)
Tỉnh thành 2004-2006 2007-2010 2011-2015
Hà Nội 32 31 42
Quảng Ninh 98 76 70
Hải Phòng 95 90 88
Vĩnh Phúc 86 67 60
Bắc Ninh 100 100 93
Khánh Hòa 52 53 77
Thành phố Hồ Chí Minh 29 26 23
Đồng Nai 49 45 51
Bình Dương 44 40 44
Bà Rịa- Vũng Tàu 42 46 44
Long An 99 100 100
Tiền Giang 99 100 100
Vĩnh Long 90 100 100
Cần Thơ 95 95 91
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 17
Khác 100 100 100
Nguồn: Tác giả biên soàn từ dữ liệu của Bộ Tài chính
Luật cũng cũng khuyến khích cho việc thu ngân sách ở cấp chính quyền địa phương. Chính
quyền địa phương có thể giữ lên tới 30% của tất cả doanh thu chia sẻ thực tế khi doanh thu vượt quá số
tiền ước tính. Hơn nữa, để tránh việc ước tính doanh thu thuế chia sẻ thấp, luật quy định rằng số dư thừa
tối đa được giữ lại không vượt quá chênh lệch giữa doanh thu thuế chia sẻ thực tế của năm nay và năm
trước.
Trong thời gian 2006-2012, phân cấp nguồn thu tại Việt Nam chiếm khoảng 9,6% tổng sản
phẩm trong nước (GDP). Tuy nhiên, doanh thu phân cấp không chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế địa
phương tại Việt nam. Tại hầu hết cá tỉnh thành, doanh thu phân cấp tương đương khoảng 7% GDP của
địa phương; những tỉnh thành này cũng giữ lại 100% doanh thu chia sẻ mà họ thu được. Điều này là do
một số các nguồn thu tiềm năng như thu từ thương mại, thu từ dầu mỏ, và thuế thu nhập doanh nghiêp
từ doanh nghiệp nhà nước lớn là của chính phủ trung ương chứ không phải chính quyền địa phương2.
Hình 2 thể hiện đóng góp của doanh thu phân cấp cho tổng doanh thu tại các cấp chính quyền
địa phương. Phần doanh thu hoàn toàn dành cho các địa phương (ví dụ thu từ những nguồn tự có) giảm
từ 24,3% năm 2004 xuống 12,6% năm 2007 và tiếp tục giảm tới 9,0% năm 20133. Tỷ trọng của doanh
thu từ nguồn tự có và doanh thu thuế chia sẻ cũng giảm từ 44,8% năm 2004 xuống 30,8% năm 2007,
sau đó tỷ trọng của hai nguồn thu ổn định ở mức 30% tổng doanh thu trong giai đoạn 2007-2012. Điều
này chỉ ra vai trò đi xuống của doanh thu phân cấp trong tổng thu ngân sách địa phương. Hình 2 cũng
cho thấy một khoảng cách rất lớn về tầm quan trọng của hai nguồn thu này giữa các tỉnh thành với tỷ lệ
chia sẻ 100% và tỉnh thành với tỷ lệ chia sẻ ít hơn 100%. Trong năm 2013, khoảng 60% tổng thu ngân
sách của các địa phương phát triển đến từ hai nguồn trên, trong khi con số này là khoảng 25% tài các
địa phương nghèo hơn.
Hình 2: Tỷ trọng phân cấp nguồn thu trong tổng thu ngân sách địa phương (%)
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của bộ Tài chính
Bất chấp những nỗ lực trong việc cấp nhiều quyền hạn hơn cho chính quyền địa phương để nâng
cao thu ngân sách địa phương, còn nhiều trở ngại tiếp tục hạn chế quy mô của thu từ các nguồn tự có.
Thứ nhất, có hai mối lo ngại về doanh thu chia sẻ. Một mặt, tỷ lệ chia sẻ được thiết lập để tính tới sự
khác biệt về khả năng tài chính. Tuy nhiên, trong thực tế, tỷ lệ chia sẻ được xác định thông qua các cuộc
đàm phán giữa chính quyền trung ương và địa phương, và do đó có thể dẫn tới kết quả gần tối ưu do dự
2 Trong năm 2011, mặc dù xu thế đi xuống, nguồn thu liên quan tới thương mại và dầu khí vẫn tương đương với
8% GDP quốc gia. Tương tự như vậy, thuế thu nhập doanh nghiệp từ các công ty kế toán thống nhất là bằng 7%
GDP (Ngân hàng Thế giới 2014). 3 So với các nền kinh tế châu Á khác, tỷ trọng doanh thu của nguồn này là tương tự (Ngân hàng thế giới 2014).
Tất cả
các tỉnh
Các tỉnh
nghèo
Các tỉnh phát
triển hơn Tất cả
các tỉnh
Các tỉnh
nghèo
Các tỉnh phát
triển hơn
Tỷ trọng thu từ các nguồn tự có trên
tổng thu
Tỷ trọng thu từ các nguồn tự có và thu
chia sẻ trên tổng thu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 18
báo doanh thu kém và khả năng đàm phán khác nhau (Ngân hàng thế giới 2014). Mối lo ngại khác liên
quan tới sự công bằng hệ thống. Nguồn thu chia sẻ tại Việt nam được chia dựa trên địa phương phát
sinh nguồn thu thực tế chứ không phải địa phương phát sinh thuế. Điều này đặt ra câu hỏi về tính công
bằng của hệ thống, đặc biệt đối với thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (ví dụ, nếu một công ty
hoạt động tại một tỉnh và trụ sở chính của nó tại tỉnh khác).
Thứ hai, một số quy định cản trở quyền tự chủ mà chính quyền trung ương dành cho chính
quyền địa phương. Ví dụ, đối với phí, lệ phí sử dụng, chính quyền địa phương chỉ có thể quy định phí
và lệ phí của 19 trên 63 hạng mục, trong khi Bộ Tài chính có thể quyền quy định lệ phí và phí của các
hạng mục còn lại. Điều này một phần giải thích tại sao chỉ có khoảng 11% thu từ nguồn tự có phát sinh
từ phí và lệ phí (Ngân hàng thế giới 2014). Quy định khác có liên quan tới tỷ lệ chia sẻ của các nguồn
lực phân bổ cho cấp xã: (i) các xã, thị trấn nhận được ít nhất 70% nguồn thu từ thuế chuyển quyền sử
dụng đất, thuế nhà đất, thuế môn bài đối với cá nhân và hộ gia đình và lệ phí trước bạ đối với đất đai và
nhà ở; và (ii) thị trấn và thành phố nhận được ít nhất 50% nguồn thu từ phí trước bạ, không kể phí trước
bạ đối với đất đai và nhà ở. Những nguồn thu này không được phân bổ lại giữa các xã, điều này gây ra
sự mất cân bằng dọc giữa các xã. Trong khi nhiều xã, thị trấn không thể hấp thụ nguồn thu chia sẻ tối
thiểu, những xã khác không có đủ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Điều này có thể dẫn
tới chi tiêu không hiệu quả tại những địa phương thặng dự và cung cấp dịch vụ công kém hơn tại những
địa phương thâm hụt (Ngân hàng thế giới 2014).
Thứ ba, việc thiếu hướng dẫn tiêu chuẩn tối thiểu cho việc cung cấp dịch vụ công dẫn tới sự
không thống nhất trong việc chia sẻ trách nhiệm giữa các tỉnh thành. Ví dụ, một số chính quyền địa
phương giữ lại tất cả doanh thu từ thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên, trong khi các chính quyền cấp
dưới (tức là các huyện, xã) tại các tỉnh khác được hoàn toàn hoặc một phần quyền thuế này tùy thuộc
vào quyền sở hữu trong doanh nghiệp. Tỷ lệ chia sẻ một nguồn doanh thu thậm chí có thể khác nhau
giữa các huyện trong tỉnh. Ví dụ, trong năm 2008, tỷ lệ chia sẻ phí đất đai và đăng ký nhà dao động từ
13% đến 38% trong số 24 quận huyện tại thành phố Hồ Chí Minh.
1.4. Chuyển giao tài chính giữa các cấp chính quyền
Trong khi thỏa thuận chia sẻ ngân sách giúp giảm mất cân đối tài chính theo chiều dọc (vertical
fiscal imbalance), việc chuyển giao tài chính giữa các cấp chính quyền nhằm mục tiêu giảm mất cân đối
tài chính theo chiều ngang (horizontal fiscal imbalances) và để đạt được các mục tiêu và định hướng
quốc gia. Đối với chính quyền cấp thấp, việc chia sẻ và chuyển giao ngân sách cũng được sử dụng để
giải quyết sự mất cân đối theo chiều dọc và chiều ngang giữa các quận. Có hai loại chương trình chuyển
giao ngân sách ở Việt Nam gồm chuyển giao cân đối (balancing transfer) vô điều kiện và chuyển giao
có mục tiêu (targeted transfer).
Việt Nam hiện đang áp dụng 2 công thức để tính toán chuyển giao cân đối, một công thức để
tính nhu cầu chi thường xuyên và một công thức để tính nhu cầu chi đầu tư. Các công thức đó được dựa
trên qui ước chuyển giao và các quy ước chuyển giao này được tính dựa vào các tiêu chí cụ thể bao gồm
dân số, sự phát triển, khu vực địa lý và số lượng các đơn vị hành chính cấp huyện. Sau khi trừ đi các
khoản thu được phân cấp (bao gồm nguồn thu chia sẻ), phần còn lại được trang trải từ khoản chuyển
giao cân đối. Các công thức tính toán này được xác định trước mỗi thời kỳ ổn định4 nên chuyển giao
cân đối hoàn toàn dự báo được bởi chúng được cố định theo giá danh nghĩa theo từng thời kỳ ổn định.
Ở cấp tỉnh, có định mức phân bổ chi tiêu cho các huyện trên 19 hạng mục chi, hầu hết theo các
chức năng chi khác nhau như dịch vụ giáo dục, y tế và kinh tế. Đối với từng khu vực chức năng, mức
4 Trong thời kỳ ổn định thứ hai, định mức bình quân đầu người đã được xác định trong 14 lĩnh vực. Các định mức
này đã tính đến vị trí địa lý của dân số trong phạm vi một tỉnh. Định mức cao hơn được áp dụng cho người dân
sống ở vùng sâu vùng xa và miền núi, và cao hơn nữa đối với những người sống ở vùng cao, hải đảo để đưa vào
chênh lệch giá cả, quy mô kinh tế và số dân số dễ bị tổn thương.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 19
phân bổ chi bình quân đầu người dựa trên vị trí địa lý (ví dụ như đô thị, khu vực đồng bằng, miền núi,
vùng cao và hải đảo).5
Bảng 3 thể hiện sự phân bổ từng nguồn thu ngân sách trong tổng chi tiêu. Tính trung bình, không
có sự thay đổi đáng kể nào trong vai trò của từng nguồn thu trong tổng chi tiêu, ngoại trừ nguồn khác
(bao gồm vay chính quyền địa phương). Nguồn thu được cấp (bao gồm nguồn thu từ nguồn tự có và
nguồn thu được phân bổ) vẫn chiếm 65% tổng chi tiêu ngân sách, trong khi tổng số chuyển giao (bao
gồm chuyển giao cân đối và chuyển giao có mục tiêu) chiếm khoảng 40% tổng tổng chi tiêu ngân sách,
thể hiện vai trò ngày càng tăng của doanh thu được phân chia trong doanh thu của chính quyền địa
phương, đồng thời cho thấy sự suy giảm của tỷ lệ nguồn thu từ nguồn tự có trong tổng nguồn thu ngân
sách địa phương.
Bảng 3: Nguồn thu cho chi tiêu ngân sách (%)
Nguồn thu được
cấp/Tổng chi tiêu
Chuyển giao cân
bằng/Tổng chi tiêu
Chuyển giao có mục
tiêu/Tổng chi tiêu
Nguồn
khác
Tất cả tỉnh thành
2007 65 22 21 27
2010 64 15 24 44
2013 66 23 18 37
Các tỉnh nghèo hơn
2010 31 19 28 7
2013 29 29 20 2 Lưu ý: Nguồn thu được cấp bao gồm nguồn thu từ nguồn tự có và nguồn thu phân bổ.
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng số liệu của Bộ Tài chính.
Có khoảng cách lớn giữa vai trò của mỗi nguồn thu trong tổng chi tiêu giữa các tỉnh giàu và tỉnh
nghèo. Ở các tỉnh nghèo hơn, tổng nguồn chuyển giao vẫn chiếm khoảng 50% tổng chi tiêu, trong khi
nguồn thu được cấp chỉ chiếm khoảng 30%. Bảng 3 thể hiện rằng trong khi các tỉnh giàu có thặng dư tài
chính lớn (ví dụ như nguồn thu của các tỉnh này luôn cao hơn chi tiêu của tỉnh đó) thì các tỉnh nghèo
hơn không có đủ nguồn lực để chi tiêu, thậm chí sau khi tiếp nhận trợ cấp giữa các cấp chính quyền.
Điều này càng làm tăng áp lực về thâm hụt ngân sách lên các tỉnh này .
Hình 3: Thâm hụt ngân sách theo thời gian và vai trò của chuyển giao tài chính
Thâm hụt ngân sách (không có chuyển giao tài chính)
của tất cả các tỉnh
Thâm hụt ngân sách (không có chuyển giao tài chính)
của các tỉnh nghèo
5 Ví dụ cho khu vực khám chữa bệnh, khu vực đô thị được phân bổ 105,600 VNĐ trên người một năm, trong khi
ở khu vực miền núi được phân bổ 1,986,880 trên người một năm. Điều này phân chia chi phí dịch vụ khác nhau
đối với các vùng địa lý khác nhau.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 20
Thâm hụt ngân sách (có chuyển giao tài chính) của tất cả
các tỉnh
Thâm hụt ngân sách (có chuyển giao tài chính) của các
tỉnh nghèo
(nguồn thu/người) (Chi tiêu/người)
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng số liệu của Bộ Tài chính
Hình 3 thể hiện khoảng cách tài chính giữa các tỉnh. Trước khi chuyển giao tài chính, thâm hụt
ngân sách dường như mở rộng theo thời gian. Tuy nhiên thâm hụt chung dường như do thâm hụt ngân
sách từ các tỉnh nghèo gây nên, nơi mà nguồn thu bình quân đầu người thấp hơn rất nhiều so với chi tiêu
trên đầu người và tăng chi tiêu trên đầu người nhanh hơn tăng nguồn thu trên chi tiêu. Sau khi tính đến
chuyển giao tài chính, trung bình có thặng dư tài chính ở mức độ thấp. Tuy nhiên, ở các tỉnh nghèo,
thâm hụt ngân sách vẫn xảy ra, thể hiện thông qua sự mất cân bằng theo chiều dọc tăng lên ở các tỉnh.
Năm 2012, hơn 58% số tỉnh có 100% nguồn thu được giữ lại chỉ có thể cung ứng cho dưới 20% chi phí
phân cấp, trong khi con số tương ứng của năm 2007 là khoảng 46%. Điều này một phần là sự gia tăng
trách nhiệm chi tiêu được giao cho chính quyền địa phương và sự cứng nhắc của việc giữ lại 100%
nguồn thu đối với GDP danh nghĩa (NH thế giới 2014).
Đối với chính quyền cấp thấp, có sự mất cân bằng trầm trọng hơn ở trong nội bộ tỉnh hơn là
giữa các tỉnh với nhau. Cuối năm 2011 ở rất nhiều tỉnh có hơn 75% chi tiêu cấp huyện lấy từ các nguồn
tài chính khác chứ không phải từ nguồn thu được giữ lại 100% năm 2011, trong khi chỉ số này là khoảng
20% năm 2006. Điều này một phần là do sự gia tăng phân cấp trách nhiệm chi (NH thế giới 2014).
Hệ thống chuyển giao tài chính mục tiêu trung ương đến các chính quyền địa phương là các
khoản trợ cấp có điều kiện, thông qua đó chính quyền trung ương muốn đạt được mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội. Có hai loại chương trình mục tiêu: chương trình mục tiêu quốc gia (NTPs) và các chuyển
giao mục tiêu khác (ví dụ chuyển giao tài chính có điều kiện).
Chương trình mục tiêu quốc gia NTPs nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện mục tiêu kinh tế xã
hội quốc gia, bao gồm một loạt các mục tiêu về giảm nghèo, giáo dục, y tế, sinh kế, phát triển nông thôn,
văn hóa, sử dụng năng lượng và biến đổi khí hậu. Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách
nhiệm tổng thể cho quyết định tài chính và quản lý tất cả các NTPs. Bộ quản lý ngành được giao vai trò
chính trong phát triển các NTPs có trách nhiệm phân bổ ngân sách cho và giám sát các NTPs. Các bộ
ngành khác nhau cũng có thể tham gia nếu NTPs bao phủ nhiều hơn một khu vực. Hiện tại, có 16 NTPs.
Các chương trình chuyển giao tài chính có mục tiêu khác bao gồm một loạt các mục tiêu gồm
chương trình đầu tư vốn, đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế ở các vùng cụ thể. Mặc dù trong suốt
thập kỷ qua loại hình chuyển giao tài chính có mục tiêu trở nên ít quan trọng hơn nhưng nó vẫn chiếm
khoảng 25% chi tiêu địa phương trong giai đoạn 2006-2011, cho thấy chính quyền địa phương phụ thuộc
ít hơn vào các nguồn cố định.
Chính quyền địa phương có trách nhiệm đề xuất các hoạt động và thực hiện các chương trình
liên quan ở cấp địa phương. Họ chuẩn bị các đề xuất, sau đó thảo luận với các cơ quan trung ương – đơn
vị nộp đề xuất tài chính, bao gồm phân bổ cho các tỉnh, cho Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Việc thực hiện phải tuân theo các quy định do chính quyền trung ương. Việc phân bổ các nguồn lực cho
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 21
NTPs được dựa trên một bộ các tiêu chí trong các quyết định của Thủ tướng và thông tư đi kèm, trong
đó phần lớn là các chỉ số kinh tế xã hội.
Nhìn chung, hệ thống chuyển giao tài chính giữa các cấp chính quyền của Việt Nam hoạt động
một cách có hiệu quả để giảm thiểu sự chênh lệch về tài chính trên toàn lãnh thổ. Phân phối chi tiêu bình
quân đầu người đối với các tỉnh và trong phạm vi một tỉnh đang khá cân bằng (Ngân hàng Thế giới
2014). Tuy nhiên, có một số vấn đề về thể chế có thể cản trở hiệu quả của hệ thống trên. Thứ nhất, số
tiền chuyển giao được xác định trong những năm đầu của thời kỳ ổn định và không đổi giá trị danh
nghĩa trên toàn bộ giai đoạn. Đối với một số tỉnh giàu, tăng thu của địa phương có thể bù lấp sự thiếu
hụt trên thực tế, nhưng một số tỉnh nghèo thực tế thì bị tổn hại.
Thứ hai, có một số nhược điểm trong các qui tắc chuyển giao tài chính. Ví dụ, trong lĩnh vực
giáo dục, qui định sử dụng số trẻ trong độ tuổi đi học thay vì số lượng học sinh nhập học không khuyến
khích các tỉnh có tỷ lệ học sinh nhập học thấp tăng tỷ lệ này. Thứ ba, xảy ra các vấn đề do các tỉnh được
quyền chủ động hoàn toàn đối với phân bổ tài chính được giao ở cấp tỉnh. Trong khi hầu hết các tỉnh sử
dụng qui tắc chuyển giao tài chính quốc gia thì một vài tỉnh lại tự thiết kế qui tắc riêng, tạo ra các vấn
đề về động cơ. Ví dụ, trong khi qui tắc chính về sức khỏe dựa trên dân số thì một số tỉnh lại dựa trên số
lượng nhân viên chăm sóc sức khỏe hoặc các khoản hiến tặng cơ thể, do vậy khuyến khích các khu vực
chăm sóc sức khỏe cấp huyện tăng số lượng cán bộ hoặc cho những nơi đã được trang bị tốt hưởng lợi
một cách không tương xứng và/hoặc tạo ra động lực duy trì cơ sở chăm sóc sức khỏe không hiệu quả
(Lê 2006). Chi phí quản lý có thể cũng tăng do nguồn chi cho NTPs rất đa dạng. Khoảng 56% nguồn
chi cho tất cả NTPs trong giai đoạn 2012-2013 là từ chính phủ trung ương, 26% từ chính quyền địa
phương, 5% từ các nhà tài trợ bên ngoài, 4% từ nguồn vay và 9% từ đóng góp của cộng đồng (NH thế
giới, 2014). Mỗi NTP có thể tuân thủ theo một số qui tắc và thủ tục quản lý tài chính.
Thứ tư, có khoảng cách lớn giữa dự toán ngân sách và ngân sách thực tế. Ước tính rằng ngân
sách thực tế thường cao hơn 175% so với dự toán ngân sách, thể hiện sự thiếu khả năng dự đoán cho
NTPs (NH thế giới 2014), cuối cùng ảnh hưởng đến quản lý tài chính. Do vậy, gây áp ựng cho ngân
sách địa phương và tạo ra sự gia tăng các nhiệm vụ mà không được tài trợ vốn. Trên thực tế, nhiều chính
quyền địa phương cho rằng các chương trình và chính sách quốc gia không thường không đi kèm với
nguồn tài chính đầy đủ và kịp thời (NH thế giới 2014). Đối với những trường hợp này, chính quyền địa
phương một là phải dừng thực thi NTPs hoặc sử dụng nguồn tài chính giới hạn của họ để thực thi các
chương trình và yêu cầu hoàn tiền sau đó.
Thứ năm, các mục tiêu đặt trong NTPs thường không rõ ràng trong khi các mục tiêu và nguồn
lực thì rõ ràng. Các cơ quan địa phương đã lập luận rằng các mục tiêu được đặt ra trong NTPs là quá
mơ hồ và không tính đến các chi phí và tính bền vững tài chính ở cấp chính quyền địa phương (Ngân
hàng thế giới 2014). Hơn nữa, nguồn kinh phí cũng không có điều kiện đầu ra trong khuôn khổ chương
trình. Thêm vào đó, các dự án vốn phát triển dưới NTPs thiếu các hoạt động và nguồn bảo trì, ảnh hưởng
xấu đến sự bền vững của các mục tiêu NTP.
Thứ sáu, chính quyền địa phương gặp khó khăn trong việc phối hợp rất nhiều chương trình mục
tiêu, một phần bởi số lượng chương trình lớn và ban chỉ đạo quốc gia và thậm chí cả địa phương đều
không hiệu quả. Tổng số chương trình chuyển giao có mục tiêu là 44 và số lượng chương trình thậm chí
nhiều hơn nếu tính cả các chương trình mục tiêu ở cấp tỉnh. Các mục tiêu được đặt ra trong các chương
trình này khá chồng chéo (NH thế giới 2014). Trong khi đó, ban chỉ đạo quốc gia và trong một số trường
hợp ở ban chỉ đạo địa phương được lập ra để phối hợp cho việc lên kế hoạch và dự toán ngân sách cho
NTP nhưng hoạt động không hiệu quả, dẫn đến sự phân mảnh và việc giám sát và đánh giá yếu kém.
Tóm lại, khía cạnh nguồn thu của ngân sách chính quyền địa phương vẫn còn mang tính tập
trung. Các mức thuế và cơ sở tính thuế cho chính quyền địa phương, cả phần chia sẻ phần riêng đều
được xác định một cách tập trung. Tuy nhiên, các tỉnh có quyền định giá cho một số phí và lệ phí địa
phương và cũng phải xác định làm sao để phân bổ nguồn thu trong thẩm quyền của mình. Hơn nữa, mặc
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 22
dù trong luật ngân sách mới có một vài tỉnh sử dụng cơ chế trái pháp luật, cho thấy phân cấp thực tế
phần nào đó lớn hơn quy định theo luật.
1.5. Tình trạng vay mượn của chính quyền địa phương
Tình trạng vay mượn của chính quyền địa phương hiện đang là một vấn đề thu hút nhiều sự
quan tâm tại Việt Nam, đặc biệt tại các tỉnh không có khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình từ
doanh thu của chính địa phương và từ các nguồn chuyển giao cân đối. Hệ thống hiện hành được thiết
lập để phân phối lại các khoản thu của địa phương, phần lớn trong đó là đóng góp của một số ít các
thành phố như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bình Dương, và nhấn mạnh các khoản thâm hụt tài
chính tài trợ cho các cơ sở hạ tầng trọng điểm.
Luật Ngân sách mới và Luật Quản lý Nợ công năm 2009 đã quy định các quy tắc vàng (tức là,
chính quyền địa phương không thể vay mượn để tài trợ cho các khoản chi thường xuyên). Vay mượn
chỉ để có vốn đầu tư vào các dự án tạo ra doanh thu để trả nợ. Những luật này cũng đưa ra một mức trần
cho các khoản nợ địa phương là 30% vốn ngân sách hàng năm của tỉnh, ngoại trừ hai thành phố Hà Nội
và Hồ Chí Minh có mức trần nợ là 100% ngân sách hàng năm. Chiến lược quản trị nợ công của chính
quyền năm 2012 đã quy định mức trần là 3% GDP cho khoản nợ của tất cả các địa phương trên cả nước
và một mức trần 65% GDP đối với các khoản nợ được bảo lãnh bởi chính phủ bao gồm nợ địa phương.
Bảng 4. Tóm tắt các nguồn và các dạng vay mượn của địa phương
Loại nợ Quy định Hạn chế
Trái phiếu chính quyền địa
phương
Cả khối lượng và tỷ lệ vay
mượn đều được kiểm soát.
Khoản tiền này được giám sát
dưới một ngưỡng, tỷ lệ lợi tức
được giữ dưới một mức trần cố
định do Bộ Tài chính quy định,
việc phát hành trái phiếu chính
quyền địa phương phải trải qua
một số thủ tục, quy trình theo
quy định
Vẫn còn kém phát triển, ví dụ
như chỉ một số ít các tỉnh/thành
phố có thể tiếp cận thị trường
trái phiếu; mức trần về tỷ lệ lợi
tức trái phiếu được quyết định
bởi Bộ Tài chính, và điều này
dẫn đến tình trạng số tiền thu
được từ bán trái phiếu không đủ
đáp ứng nhu cầu do tỷ lệ lợi tức
không hấp dẫn nhà đầu tư; thiếu
minh bạch.
Các khoản vay từ ngân hàng
thương mại
Không bị kiểm soát Đây là kênh vay mượn tốn kém
và khó khăn, do các ngân hàng
thương mại không muốn cho
vay vì thiếu tài sản thế chấp
thích hợp
Vay mượn từ Kho Bạc Nhà
nước
Các địa phương được phép vay
mượn từ các Kho bạc tỉnh để tài
trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng
được phân bổ từ ngân sách, số
tiền này được giám sát dưới một
ngưỡng, và khấu trừ vào ngân
sách của tỉnh nếu trả trễ.
Thời hạn 12 tháng đối với các
dự án được phân bổ từ ngân
sách Nhà nước, các khoản vay
ngắn hạn cho mục đích quản lý
tiền mặt, các khoản phí vay
mượn chung, khoản vay phù
hợp nhất cho chính quyền địa
phương với chi phí thấp và quá
trình phê duyệt sắp xếp hợp lý,
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 23
sẽ giảm đi như Tài khoản Kho
bạc
Vay mượn từ các ngân hàng
phát triển (Ngân hàng Phát triển
Việt Nam và Ngân hàng Chính
sách Xã hội Việt Nam)
Bị giới hạn về phạm vi, như hoạt
động đầu tư phát triển của chính
quyền địa phương và các dự án
định hướng xuất khẩu của các
doanh nghiệp Nhà nước và các
tổ chức kinh tế khác cho vay hộ
nghèo và những đối tượng chính
sách khác
Cho vay lại Tất cả những hoạt động cho vay
lại từ bên ngoài đều được thông
qua trung ương
Định mức phụ thuộc vào các
khoản hỗ trợ phát triển chính
thức cho Việt Nam, cũng xuất
phát từ các khoản cho vay rất ưu
đãi trong trung hạn.
Chính quyền địa phương có nhiều lựa chọn đối với các khoản tài trợ sẵn có cho các khoản nợ của mình,
bao gồm thị trường vốn trong nước (tức là, các trái phiếu địa phương và các khoản vay từ các ngân hàng
thương mại), Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng phát triển, và cho vay lại từ chính quyền trung ương từ
khoản vay có được từ các quỹ nước ngoài (Hình 4).
Hình 4: Cấu phần của khoản nợ địa phương, 2006-2012 (%)
Nguồn: Bộ Tài chính (được trích dẫn trong Ngân hàng Thế giới 2014)
Việc vay mượn này được giám sát chặt chẽ bởi Bộ Tài chính. Do mức trần vay mượn được áp
dụng theo Luật Ngân sách mới, chính quyền địa phương cũng có thể chuyển sang các hình thức đi vay
khác, chẳng hạn như các quỹ phát triển cơ sở hạ tầng địa phương và các gói hỗ trợ phát triển từ nước
ngoài (như các khoản cho vay lại từ chính quyền trung ương), mà không phải chịu những giới hạn tương
Nguồn khác
Các khoản cho vay lại từ chính quyền trung
ưong từ các quỹ bên ngoài
Trái phiếu chính quyền địa phương
Trái phiếu Kho bạc
Các ngân hàng phát triển Việt Nam
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 24
tự. Chính quyền địa phương không có quyền tiếp cận trực tiếp với các nguồn tài trợ từ ngân hàng trung
ương. Về thủ tục hành chính, các khoản vay mượn của địa phương phải thông qua những thủ tục chấp
thuận tùy thuộc vào việc sử dụng các nguồn vốn và các công cụ, theo quy định của Luật Quản lý Nợ
công năm 2009 và các quy định bổ sung khác. Nhìn chung, tất cả các khoản vay đều phải được Bộ Tài
chính và các cơ quan trung ương khác kiểm tra và chấp thuận khi áp dụng.
Do đó, các khoản vay của chính quyền địa phương được duy trì ở mức thấp. Trong 10 năm qua,
nợ địa phương được giữ ở mức 3% GDP và được tài trợ chỉ 4% chi phí phát triển. Tuy nhiên, trong năm
2011, khoảng 13 tỉnh thành đã có có chứng khoán nợ vượt mức giới hạn 30% vốn ngân sách hàng năm.
Nợ ở một số tỉnh đã cao gấp 2 lần giới hạn cho phép (Ngân hàng Thế giới 2014).
Mặc dù gần như tất cả các tỉnh đều có một vài hình thức vay mượn nhất định, 10 tỉnh thành vay
mượn nhiều nhất chiếm hơn 2 phần 3 các khoản vay mượn của chính quyền địa phương trong năm 2012
(Hình 5). Tổng các khoản nợ địa phương cũng tập trung ở các thành phố này (42% của tổng các khoản
nợ địa phương năm 2012), nhưng thậm chí ngay trong nhóm này, thành phố Hồ Chí Minh lại dẫn đầu,
chiếm 38% tổng các khoản vay mượn của chính quyền địa phương (Ngân hàng Thế giới 2014) (Hộp).
Hình 5: Tỷ trọng của các khoản nợ chính quyền địa phương theo tỉnh thành (%)
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Bộ Tài chính
Nợ công bền vững của thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất tại Việt Nam, với nguồn doanh thu huy
động được cho địa phương là tương đối mạnh. Hơn một nửa nguồn vốn tài trợ cho địa phương (bao
gồm các dòng nợ mới) đến từ các khoản thu nhập được phân bổ. Tỷ lệ thu nhập được phân bổ cho chi
tiêu thường xuyên của địa phương trung bình vào khoảng 200% trong năm 2006-2011. Trong số các
Tốp 10 địa phương không bao gồm thành phố Hồ Chí Minh
Các tỉnh thành khác
Thành phố Hồ Chí Minh
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 25
khoản chi phí, nguồn vốn đầu tư chiếm 40%-50% trong năm 2006-2011. Thâm hụt ngân sách của
thành phố ở mức thấp, chỉ khoảng 0.1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của tỉnh, và mức đi vay cũng
thấp. Đến cuối năm 2013, tổng dư nợ từ phát hành trái phiếu ước đạt 11.6 nghìn tỷ đồng, bằng 1.5%
GDP của địa phương và bằng 49% vốn ngân sách của năm 2013. Lãi suất bình quân là 7% đối với kỳ
hạn 3 năm, 6% đối với kỳ hạn 5 năm và 5% đối với kỳ hạn 10 năm.
Hai chỉ số được sử dụng như thước đo của gánh nặng nợ là: (i) chứng khoán nợ của thành phố
Hồ Chí Minh so với GDP (ngưỡng 25% để đánh giá khả năng trả nợ); và (ii) dịch vụ nợ của thành
phố Hồ Chí Minh so với doanh thu của thành phố (ngưỡng 25% để đánh giá tính thanh khoản). Các
ngưỡng này là các tiêu chuẩn và không phải là những giới hạn trần nghiêm ngặt.
Đối với kịch bản cơ sở, người ta cho rằng, trong trung hạn, các chỉ số kinh tế được sử dụng
trong dự đoán (tức là, tăng trưởng GDP, lạm phát, tăng trưởng thu chi, và lãi suất) thấp hơn so với
thời kỳ năm 2006 – 2011 nhưng những chỉ số này sẽ trở lại mức thời kỳ 2006-2011 trong dài hạn.
Theo kịch bản này, các khoản nợ của thành phố có thể được coi là bền vững, với một tỷ lệ nợ chứng
khoán có thể quản lý được so với GDP. Tuy nhiên, chính quyền địa phương nên thừa nhận áp lực
thanh khoản và tỷ trọng ngày càng lớn của các khoản thanh toán lãi suất trong tổng chi thường xuyên.
Áp lực thanh khoản sẽ trở nên rõ ràng hơn nếu một kịch bản tệ hơn xảy ra. Trong kịch bản này,
tăng trưởng chậm hơn 5% một năm trong trung hạn và dần dần ổn định xuống dưới mức trung bình
trong lịch sử là 8% trong dài hạn, tăng trưởng doanh thu được phân bổ giảm xuống gần một phần ba,
và chi tiêu được duy trì như cũ. Các yêu cầu về dịch vụ nợ có khả năng lấn át các chi tiêu thường
xuyên. Tỷ lệ dịch vụ nợ trên doanh thu đã vượt ngưỡng cho phép trong hầu hết khoảng thời gian dự
báo, do đó, quy tắc vàng sẽ bị phá vỡ trong dài hạn.
Theo một kịch bản mà các điều kiện kinh tế trở nên thuận lợi hơn so với kịch bản cơ sở (ví dụ,
tỷ lệ tăng trưởng cao hơn, doanh thu lớn hơn và chi tiêu nhiều hơn), thành phố sẽ đáp ứng tốt hơn các
yêu cầu chi tiêu vốn của mình và duy trì mức độ bền vững của nợ với mức tăng trưởng bền vững hơn
và huy động doanh thu tốt hơn.
Nguồn: Worldbank (2014)
Tỷ lệ vay nợ của chính quyền địa phương so với tổng doanh thu của chính quyền địa phương là
4% trong năm 2007 và 2.4% trong năm 2012. Theo Ngân hàng Thế giới (2014), vay mượn của chính
quyền địa phương có xu hướng cao hơn tại các địa phương phát triển hơn, độc lập tài chính hơn và có
tài khóa bền vững hơn. Một mức vay mượn cao hơn cũng đi kèm với một tỷ lệ tiêu dùng cao hơn trong
chi tiêu của địa phương. Do đó, mặc dù mức vay mượn là thấp thì mức vay mượn đó có vẻ phù hợp với
trình độ phát triển của địa phương, nhu cầu chi tiêu vốn và xu hướng phát triển bền vững tài khóa.
1.6. Tính bền vững tài khóa của các chính quyền địa phương
Ngân hàng Thế giới (2014) đã xác định ba nguồn nợ công tiềm tàng tại Việt Nam: Các quỹ tài
chính công (PFFs), doanh nghiệp Nhà nước ở địa phương, căng thẳng trên khu vực ngân hàng.
Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 30 quỹ tài chính công địa phương và trung ương có tính chất,
phạm vi và quy mô hoạt động rất đa dạng. Trong các PFFs, chỉ có một vài quỹ đặc thù ở cấp trung ương
và một vài quỹ đầu tư phát triển địa phương có nguồn thu nhập riêng và có nhiệm vụ chi riêng, chiếm
khoảng 95% tổng chi tiêu của PFFs. Các quỹ PFFs cấp địa phương khác nhỏ và hoạt động chủ yếu trong
phạm vi tỉnh. Mặc dù hầu hết các PFFs đều phụ thuộc vào ngân sách của chính quyền trung ương hoặc
địa phương đều có nguồn vốn ban đầu, và thậm chí là vốn hoạt động (trừ một số quỹ có thể huy động
nguồn thu từ các đối tượng thụ hưởng như quỹ bảo hiểm y tế và quỹ bảo hiểm xã hội), các báo cáo tài
chính của những quỹ này chưa bao giờ được đưa vào các tài liệu ngân sách hàng năm hay tài khoản
ngân sách cuối cùng hàng năm (Ngân hàng Thế giới 2014).
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 26
Hiện nay, có 28 quỹ đầu tư và phát triển đang hoạt động tại địa phương (LDIFs), có thể được
xem như các công vụ vì mục tiêu đặc biệt. Những quỹ này là các quỹ PFFs lớn nhất đang hoạt động ở
cấp tỉnh. Về mặt pháp lý, các quỹ này là các tổ chức tài chính Nhà nước được định hướng thương mại,
được phép huy động vốn trung và dài hạn, và có thể đầu tư vào những dự án cơ sở hạ tầng có thu phí.
Trách nhiệm của họ bao gồm việc thực thi các khoản đầu tư tài chính và phát triển. Các công cụ có mục
tiêu đặc thù này đã được mở rộng đáng kể tại Việt Nam và đã huy động được một lượng vốn lớn để đầu
tư cơ sở hạ tầng. Theo Ngân hàng Thế giới (2014), tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm trong nguồn
vốn hoạt động của các quỹ này ở mức cao, 40% trong khoảng thời gian 2005-2011.
Các LDIFs cũng tham gia cho vay ngắn hạn trên cơ sở tái đầu tư từ các ngân hàng thương mại
Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước khác. Những khoản vay ngắn hạn này có thể dẫn đến những
khoản đầu tư ngắn hạn, có khả năng tái phân bổ vốn của LDIF ra khỏi những khoản đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng trong dài hạn. Những khoảng vay không phù hợp của LDIFs cũng có thể có một tác động tiêu
cực đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng.
Nguồn công nợ tiềm năng thứ hai tại Việt Nam là các doanh nghiệp Nhà nước ở địa phương.
Có 1506 SOEs địa phương và 982 doanh nghiệp dịch vụ công. Do tính chất riêng, các doanh nghiệp này
tiếp cận với các nguồn vốn vay thương mại dễ dàng hơn, đặc biệt là từ các ngân hàng Nhà nước. Điều
đó dẫn đến việc tích tụ nợ ngày càng tăng của các doanh nghiệp này. Ngân hàng Thế giới (2014) ước
tính rằng hơn một nửa của khoảng 3.5 tỷ đô la Mỹ tài trợ cho cơ sở hạ tầng được rót vốn từ các ngân
hàng thương mại Nhà nước xuống các doanh nghiệp Nhà nước. Những doanh nghiệp này cũng tiếp cận
dễ dàng hơn tới những khoản cho vay lại của chính phủ. Ví dụ, năm 2012, các doanh nghiệp dịch vụ
công trong lĩnh vực quản lý nước và vệ sinh môi trường đã có khoản nợ từ nguồn cho vay lại của chính
phủ là 360 triệu đô la Mỹ (tức 7.56 nghìn tỷ đồng) (Ngân hàng Thế giới 2014). Theo luật, những doanh
nghiệp này có tài chính độc lập với các cơ quan có quyền sở hữu đối với những doanh nghiệp trên. Tuy
nhiên, trên thực tế, khi những doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp dịch vụ công gặp rắc rối tài
chính, họ tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ những cơ quan chủ quản để phối hợp với họ giải quyết khoản nợ.
Những năm gần đây chính quyền địa phương đã tích lũy những khoản nợ thanh toán còn thiếu
đối với các doanh nghiệp xây dựng, trong đó, lần lượt, đã ngăn chặn các doanh nghiệp này từ bỏ nghĩa
vụ trả nợ của mình dẫn đến nợ xấu gia tăng cho hệ thống ngân hàng địa phương. Theo Cơ quan Kiểm
toán Quốc gia, tính đến hết năm 2011, tổng các khoản cho vay các doanh nghiệp xây dựng từ chính
quyền địa phương là 91,273 tỷ đồng6. Trong đó, 15 tỉnh chậm thanh toán hơn 100% chi phí vốn dự kiến.
Bộ Tài chính cho rằng điều này một phần là do việc kiểm soát các cam kết còn lỏng lẻo, dẫn tới việc
các chính quyền địa phương tham gia thỏa thuận với các nhà thầu công trình dân dụng mà không có đủ
thẩm quyền về ngân sách.
Các khoản vay mượn của chính quyền địa phương không được đưa vào cân đối ngân sách, do
đó không tính vào bảng cân đối ngân sách địa phương. Điều này được xem như là kết quả của việc yêu
cầu duy trì một ngân sách cân đối ở cấp chính quyền địa phương, và loại trừ các thâm hụt ngân sách địa
phương trong tổng thâm hụt ngân sách Nhà nước.
Những quy định hiện hành liên quan đến các khoản vay nợ của địa phương có thể không phản
ánh khả năng của chính quyền địa phương trong việc trả các khoản nợ. Ngân hàng Thế giới (2014) cho
rằng rất khó để tìm ra mức độ tín nhiệm tín dụng trong dài hạn của một địa phương khi nhìn vào các số
liệu liên quan đến chứng khoán nợ và ngân sách vốn hàng năm. Nói cách khác, việc vay mượn của chính
quyền địa phương không nhất thiết phản ánh năng lực tài chính của chính quyền địa phương. Trong năm
2011, nhiều địa phương, bao gồm những địa phương có khả năng tài chính thấp hơn, đã vay mượn nhiều
hơn mức trần vay mượn cho phép (Ngân hàng Thế giới 2014). Một vấn đề khác là, theo các quy định
hiện hành, việc vay mượn của chính quyền địa phương không bao gồm các khoản bảo lãnh và các khoản
6 Tuoitre Online. 2013. Giật mình với 91.000 tỷ đồng nợ đọng. Ngày 9 tháng 9. Chi tiết tại http://tuoitre.vn/tin/kinh-
te/20130909/giat-minh-voi-91000-ti-dong-no-dong/567953.htm (truy cập vào 26 tháng 9 năm 2016).
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 27
nợ đột xuất khác. Điều này khiến số liệu về các khoản nợ của chính quyền địa phương không đáng tin
cậy và khó thực thi.
Mức trần của nợ chính quyền địa phương không tạo ra các ưu đãi thích hợp đủ để thu hút người
đi vay. Ngân hàng Thế giới (2014) đã chỉ ra rằng tổng các khoản chứng khoán nợ (không phản ánh nghĩa
vụ nợ thực tế đối với việc chi trả gốc và lãi), không phải là một dấu hiệu tốt vì nó không phản ánh gánh
nặng nợ thực tế mà chính quyền địa phương phải đối mặt. Điều này, đến lượt nó, sẽ gây khó khăn trong
việc ước tính các nghĩa vụ nợ trong tương lai. Thực tế là, việc thỏa mãn các giới hạn nợ trong một năm
cụ thể không đảm bảo rằng chính quyền địa phương sẽ có khả năng trả nợ trong dài hạn.
Hiện nay, không có quy định chính thức về việc báo cáo và công bố thông tin về các khoản nợ
địa phương. Thông thường, những thông tin này được yêu cầu phải được báo cáo cho Vụ Ngân hàng
Tài chính của Bộ Tài chính7. Điều này giới hạn sự phát triển của thị trường trái phiếu chính quyền địa
phương do các nhà đầu tư có rất ít thông tin về chính quyền địa phương và không thể đánh giá mức độ
tín nhiệm của chính quyền địa phương. Báo cáo nhận được từ chính quyền địa phương thường muộn và
không chi tiết, trong khi đó việc xử lý thông tin mất rất nhiều thời gian do mỗi tỉnh lại có một mẫu báo
cáo riêng.
2. Phân tích thực nghiệm về tính bền vững tài khóa của chính quyền địa phương
Trong phần này, tính bền vững của các khoản thâm hụt ngân sách của chính quyền địa phương
tại Việt Nam được phân tích bằng hai phương pháp ước lượng. Đầu tiên, mô hình bình phương nhỏ nhất
đã hiệu chỉnh (OLS) được sử dụng để ước lượng mối tương quan trong dài hạn giữa các phương trình
đồng tích hợp, trong đó chứa vector của các biến đồng tích hợp và biến động ngẫu nhiên của các biến
giải thích. Bản chất của dữ liệu mảng sẽ tính tới hiện tượng phương sai thay đổi giữa các tỉnh. Khung
phân tích được dựa trên nghiên cứu của Buettner và Wildasin (2006), Buettner (2009), Solé-Olle và
Sorribas-Navarro (2012), và Bessho (2016). Ký hiệu doanh thu là Rit, tổng chi tiêu của chính quyền địa
phương là Eit, mục chuyển giao cân đối là Tit, mối quan hệ giữa các biến thể hiện qua phương trình sau:
hoặc (1)
Nếu Uit là chuỗi dừng, và nếu Rit, Eit, và Tit là các chuỗi tích hợp bậc 1 thì các biến trên sẽ
đồng tích hợp với véc tơ đồng tích hợp [1, -, +]. Trong trường hợp này, chúng ta có thể ước lượng
phương trình trên bằng cách sử dụng OLS đã hiệu chỉnh cho các biến đồng tích hợp. Một số gợi ý có
thể được suy ra từ thử nghiệm này: (i) nếu Uit là chuỗi dừng thì thâm hụt ngân sách địa phương sẽ không
bùng nổ trong dài hạn và (ii) nếu >1, (nghĩa là chi tiêu tăng 1% thì doanh thu sẽ tăng hơn 1%), điều
này sẽ hỗ trợ cho tính bền vững của ngân sách chính quyền địa phương. Để tách ảnh hưởng từ sự khác
biệt dân cư giữa các tỉnh, phương pháp trên cũng được sử dụng với một vector bốn biến: doanh thu ngân
sách trên đầu người, mức chi tiêu bình quân đầu người, GDP bình quân đầu người, và chuyển giao cân
đối (balancing transfer) bình quân đầu người.
Thứ hai, để đánh giá sâu hơn tính bền vững tài chính ở cấp tỉnh, dựa trên mô hình của Bohn
(2008) , phương trình phản ứng tài chính sau được sử dụng:
trong đó Surplusit là thặng dư chính của tỉnh i tại thời điểm t, GDPgapit là chênh lệch sản lượng,
EXPgapit được khoảng cách chi tiêu, BTit là tỷ lệ các khoản chuyển giao cân đối trên tổng chi, Xit là
vector các đặc điểm của tỉnh (bao hàm hiệu ứng cố định), là hiệu ứng cố định của các tỉnh, t là hiệu
ứng thời gian cố định, và it là sai số.
7 Bản tin Nợ công là bản tin nợ hợp nhất do Bộ Tài chính soạn
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 28
Thặng dư được tính dưới dạng tỷ lệ thặng dư tài chính trên GDP. Thặng dư tài chính là chênh
lệch giữa doanh thu và chi tiêu của chính quyền địa phương. Các khoản chuyển giao cân đối và chuyển
giao mục tiêu (targeted transfer) trong doanh thu chính quyền địa phương sẽ không được tính. Chênh
lệch sản lượng được tính bằng chênh lệch giữa GDP thực tế và giá trị GDP theo xu hướng.
Tương tự như nghiên cứu của Bohn (2008), chênh lệch sản lượng mang dấu dương hàm ý rằng
GDP thực tế cao hơn giá trị xu hướng của nó. Tương tự như vậy, khoảng cách chi tiêu là sự khác biệt
giữa chi tiêu thực tế và giá trị xu hướng của từng tỉnh. Khoảng cách chi tiêu có giá trị dương hàm ý rằng
chi tiêu thực tế cao hơn giá trị xu hướng. Các giá trị xu hướng được ước lượng bằng cách sử dụng bộ
lọc Hodrick-Prescott với tham số làm trơn là 10.000. Do đó, khoảng cách chi tiêu dự kiến sẽ có tác động
tiêu cực đến thặng dư tài chính, và chênh lệch sản lượng được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực tới thặng
dư tài chính. Nếu sản lượng đang ở mức thấp hơn xu hướng, thặng dư sẽ giảm. Tương tự, nếu chi tiêu
chính phủ nằm trên mức xu hướng, thặng dư sẽ giảm. Để đánh giá xem liệu thâm hụt ngân sách ở chính
quyền trung ương có thể có tác động tới thặng dư tài chính ở chính quyền địa phương hay không, tỷ lệ
khoản chuyển giao cân đối trên tổng chi tiêu được sử dụng. Nếu một tỉnh càng phụ thuộc vào các khoản
chuyển giao cân đối, tỉnh đó được kỳ vọng sẽ có mức thặng dư tài chính thấp hơn
Do tính không đầy đủ của dữ liệu (do một số tỉnh không công bố dữ liệu tài chính của họ trong
một số năm), thay vì sử dụng dữ liệu của tỉnh, dữ liệu hợp nhất của Bộ Tài chính được sử dụng. Tuy
nhiên, những dữ liệu này, không phân loại các khoản mục thu và chi ở cấp tỉnh. Để tách ảnh hưởng do
khả năng tài chính của các tỉnh khác nhau, trong một số ước tính, mẫu dữ liệu được chia thành hai nhóm:
(i) các tỉnh có tỷ lệ chia sẻ là 100% (tức là, các tỉnh nghèo hơn); và (ii) các tỉnh có tỷ lệ chia sẻ thấp hơn
100% (tỉnh tức là các tỉnh giàu hơn).
Để tránh hồi quy giả mạo, chúng tôi thực hiện kiểm định tính dừng của dữ liệu mảng qua kiểm
định nghiệm đơn vị (Levin, Lin, James-Chu 2002; Breitung 2002; Im, Pesaran, Shin 2003) và các kiểm
định dạng Fisher như Dickey-Fuller (ADF) và Phillips-Perron (PP) (Maddala và Wu 1999). Mô hình
của Levin, Lin, James-Chu (2002) và Breitung (2002) dựa trên các kiểm định ADF và giả định tính đồng
nhất giữa các hệ số tự hồi quy đối với tất cả các đơn vị trong dữ liệu mảng, trong khi Im và các cộng sự
(2003); Fisher-ADF; và kiểm định Fisher-PP cho phép tồn tại hiện tượng không đồng nhất giữa các hệ
số tự hồi quy của tất cả các đơn vị trong dữ liệu mảng. Các giả thuyết thay thế (H1) đơn thuần cho rằng
một số hoặc tất cả các chuỗi số đều có tính dừng. Các kết quả kết quả kiểm định nghiệm đơn vị được
trình bày trong Bảng 5.
Có một sự khác biệt lớn trong kết quả kiểm định. Trong khi theo giả định về tính đồng nhất giữa
các hệ số tự hồi quy, Levin, Lin, James-Chu (2002) và Breitung (2002) đã chỉ ra rằng rằng không tồn
tại nghiệm đơn vị với từng biến đơn lẻ, trong khi Im, Pesaran, Shin (2003); Fisher-ADF; và kiểm định
Fisher-PP cho rằng tất cả các biến gốc đều có nghiệm đơn vị và các biến ở dạng sai phân bậc 1 thì không
có nghiệm đơn vị. Do mẫu nghiên cứu bao gồm tất cả các tỉnh trong cả nước, hiện tượng không đồng
nhất chắc chắn sẽ tồn tại. Vì vậy, có thể kết luận rằng dữ liệu gốc có nghiệm đơn vị và dữ liệu sai phân
bậc 1 không có nghiệm đơn vị.
Bảng 5: Kiểm định nghiệm đơn vị dạng bảng
Giả thuyết không
Nghiệm đơn vị (giả
định chuỗi nghiệm đơn
vị phổ biến)
Nghiệm đơn vị (giả định
chuỗi nghiệm đơn vị
riêng biệt)
Các thống kê Levin, Lin,
James–Chu
Breitung Im, Pesaran,
Shin
ADF–
Fisher
PP–
Fisher
Cấp
Chi tiêu chính quyền địa phương –5.81*** –4.30*** 1.15 126.93 128.24
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 29
Thu ngân sách chính quyền địa
phương
–7.55*** –3.15*** –1.05 130.90 225.90***
Chuyển giao cân đối –17.24*** –0.35 –1.59 133.65 118.35
Chi tiêu chính quyền địa
phương bình quân đầu người
–4.72*** –4.74*** 1.84 120.46 115.58
Thu ngân sách chính quyền
địa phương bình quân đầu
người
–8.29*** –2.40*** –1.27 136.70 222.90***
GDP địa phương bình quân đầu
người
–4.85*** 1.52 1.16 106.30 95.50
Chuyển giao cân đối bình quân
đầu người
–19.58*** –0.55 –2.14** 138.27 134.62
Sai phân bậc 1
Chi tiêu chính quyền địa phương –9.28*** –2.16*** –5.66*** 222.36*** 666.58***
Thu ngân sách chính quyền địa
phương
–1.05 –10.01*** –3.75*** 174.92*** 833.69***
Chuyển giao cân đối –21.66*** –14.80*** –10.96*** 337.30*** 638.29***
Chi tiêu chính quyền địa
phương bình quân đầu người
–7.14*** –2.48*** –5.67*** 222.48*** 688.28***
Thu ngân sách chính quyền
địa phương bình quân đầu
người
–0.52 –10.18*** –3.52*** 169.16*** 821.24***
GDP địa phương bình quân đầu
người
–13.65*** –3.55*** –4.84*** 202.40*** 378.90***
Chuyển giao cân đối bình quân
đầu người
–21.94*** –14.68*** –11.33*** 345.62*** 641.05***
ADF = Augment Dickey–Fuller; PP = Phillips–Perron; * p<0.1, **
p<0.05, *** p<0.01.
Sau khi kiểm định nghiệm đơn vị, chúng tôi tiến hành đánh giá mối quan hệ đồng tích hợp giữa
các biến. Pedroni (2000) đã đề xuất một phương pháp để kiểm tra tính đồng tích hợp trong dữ liệu bảng,
trong đó cho phép kiểm định cho mối quan hệ đồng tích hợp trong bốn mô hình khác nhau: mô hình
không có xu hướng không đồng nhất và bỏ qua hiệu ứng thời gian (M1), mô hình không có hiệu ứng
thời gian và cho phép xu hướng không đồng nhất (M2), mô hình có xu hướng không đồng nhất và hiệu
ứng thời gian (M3), và mô hình với hiệu ứng thời gian và bỏ qua xu hướng không đồng nhất (M4).
Pedroni (1999) đã chỉ ra bảy thống kê khác nhau cho các kiểm định đồng tích hợp: thống kê V, thống
kê PP, thống kê Pedroni, thống kê ADF, thống kê nhóm rho, thống kê Pedroni dạng nhóm, và thống kê
ADF dạng nhóm. Bốn thống kê đầu tiên được gọi là thống kê đồng tích hợp dạng bạng và được dựa trên
cách tiếp cận nội chiều (within-dimension). Ba thống kê cuối cùng là thống kê đồng tích hợp dạng nhóm
và được dựa trên cách tiếp cận giữa các chiều khác nhau. Nếu tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp, dữ liệu
về phần dư được kỳ vọng sẽ có tính dừng.
Bảng 6: Kiểm định đồng tích hợp dạng bảng
Mục A: Mô hình 1
(local government expenditure, local government revenue, balancing transfer) Kiểm định phần dư đồng tích hợp Pedroni (Giả thuyết không: không có đồng tích hợp)
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 30
Có hệ số chặn và không có
xu hướng
Có hệ số chặn và
có xu hướng
Giả định xu hướng Thống kê Hệ số P Thống kê Hệ số P
H1: Hệ số tự hồi quy phổ biến (nội chiều)
Thống kê V 2.739 0.003 –1.940 0.974
Thống kê Rho –2.155 0.016 2.176 0.985
Thống kê Pedroni –14.653 0.000 –14.758 0.000
Thống kê ADF –4.272 0.000 –1.489 0.068
H1: Hệ số tự hồi quy riêng biệt (giữa các chiều)
Thống kê Rho theo nhóm 2.029 0.979 5.584 1.000
Thống kê Pedroni theo nhóm –21.255 0.000 –22.822 0.000
Thống kê ADF theo nhóm –4.316 0.000 –1.636 0.051
Kiểm định phần dư đồng tích hợp Kao
ADF –5.711 0.000
Mục B: Mô hình 2
Kiểm định phần dư đồng tích hợp Pedroni (Giả thuyết không: không có đồng tích hợp)
Có hệ số chặn và không có
xu hướng
Có hệ số chặn và có xu
hướng
Giả định xu hướng Thống kê Hệ số P Thống kê Hệ số P
H1: Hệ số tự hồi quy phổ biến (nội chiều)
Thống kê V –2.562 0.995 –6.334 1.000
Thống kê Rho 1.611 0.946 5.057 1.000
Thống kê Pedroni –11.122 0.000 –14.350 0.000
Thống kê ADF –8.975 0.000 –9.160 0.000
H1: Hệ số tự hồi quy riêng biệt (giữa các chiều)
Thống kê Rho theo nhóm 5.655 1.000 8.309 1.000
Thống kê Pedroni theo nhóm –31.219 0.000 –36.478 0.000
Thống kê ADF theo nhóm –10.967 0.000 –9.523 0.000
Kiểm định phần dư đồng tích hợp Kao
ADF –7.908 0.000
Mục A của Bảng 6 trình bày các kết quả của mô hình M2 (với hiệu ứng thời gian và không có
xu hướng không đồng nhất) và M3 (với hiệu ứng thời gian và xu hướng không đồng nhất). Đối với
vector đầu tiên của biến, sáu thống kê từ kiểm định đồng tích hợp M2 đều bác bỏ giả thuyết không (null
hypothesis) về việc không tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp. Trong khi đó, chỉ có hai số liệu thống kê
từ các kiểm định đồng tích hợp M3 bác bỏ giả thuyết không, và hai thống kê cho thấy mức độ bác bỏ
thấp (với độ tin cậy ở mức 90%). Mặc dù có những kết quả khác nhau về kiểm định đồng tích hợp giữa
các biến những vẫn rất khó chấp nhận giả thuyết không về việc không có nghiệm đơn vị trong dữ liệu.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 31
Mục B của bảng 6 báo cáo kết quả kiểm tra đồng tích hợp cho các vector của bốn biến: chi tiêu
bình quân đầu người, thu nhập bình quân đầu người, chuyển giao cân đối bình quân đầu người và GDP
bình quân đầu người. Kết quả chỉ ra rằng trong cả hai trường hợp (có và không có xu hướng không đồng
nhất), bốn trong số bảy thống kê đã bác bỏ mạnh mẽ giả thuyết về việc không có hiện tượng đồng tích
hợp dạng bảng trong mẫu dữ liệu, bởi vậy giả thuyết không có đồng tích hợp giữa bốn biến có thể được
chấp nhận.
Theo nghiên cứu của Pedroni (2004), các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến đồng tích hợp
được ước lượng bằng cách sử dụng phương pháp OLS đã hiệu chỉnh để tránh hiện tượng "ước lượng
chệch" (bias) của OLS (Bảng 7). Kết quả mô hình cho thấy hệ số của chi tiêu chính quyền địa phương
ở tất cả các dạng phương trình đều có ý nghĩa thống kê. Cụ thể, các kết quả ước lượng từ mô hình OLS
dạng bảng đã hiệu chỉnh cho thấy chi tiêu tăng 1% giúp thu ngân sách chính quyền địa phương tăng
1,45% (đối với tất cả các tỉnh) và 1,60% (đối với các tỉnh nghèo hơn). Các kết quả đã chỉ ra tính bền
vững tài khóa trong toàn bộ mẫu và cho cả mẫu của các tỉnh nghèo hơn. Các kết quả ước lượng cũng
chỉ ra rằng việc chuyển giao cân đối có tác động tiêu cực tới thu ngân sách ở các tỉnh nghèo hơn, cho
thấy hoạt động chuyển giao cân đối có thể làm giảm động lực của các tính trong việc cải thiện vấn đề
thu ngân sách của họ.
Mối quan hệ giữa ba biến sau đó được đánh giá bằng cách sử dụng chi tiêu chính quyền địa
phương làm biến phụ thuộc như sau:
(3)
Nếu e <1, (tức là, thu ngân sách tăng 1% làm chi tiêu tăng ít hơn 1%, có nghĩa là giả thuyết về
tính bền vững tài khóa được hỗ trợ. Kết quả ở mục B của Bảng 7 cho thấy hệ số thu ngân sách trong tất
cả các dạng phương trình đều thấp hơn 1, qua đó hỗ trợ các kết quả trình bày ở mục A với thu ngân sách
là biến phụ thuộc.
Để tách ảnh hưởng do sự không đồng nhất giữa các tỉnh, các mối quan hệ dài hạn được phân tích
giữa bốn biến, thu ngân sách bình quân đầu người, mức chi tiêu bình quân đầu người, GDP của tỉnh
bình quân đầu người, và chuyển giao cân đối bình quân đầu người, bằng cách sử dụng mô hình OLS
dạng bảng đã hiệu chỉnh. Các kết quả được trình bày trong bảng C (với thu ngân sách bình quân đầu
người là biến phụ thuộc) và bảng D (với mức chi tiêu bình quân đầu người là biến phụ thuộc). Một điều
thú vị là GDP của địa phương bình quân đầu người không có tác động có ý nghĩa thống kê tới thu ngân
sách bình quân đầu người nhưng lại có tác động thuận chiều và có ý nghĩa thống kê tới chi tiêu bình
quân đầu người.
Bảng 7: Mô hình OLS đã hiệu chỉnh cho quan hệ đồng tích hợp
Tất cả các tỉnh Các tỉnh nghèo
Hệ số Sai số
chuẩn
Hệ số Sai số
chuẩn
Biến phụ thuộc: Thu ngân sách chính quyền địa phương
Chi tiêu chính quyền địa phương 1.453*** 0.01 1.600*** 0.011
Chuyển giao cân đối 0.01 0.021 –0.214*** 0.023
N*T 720 588
R2 hiệu chỉnh 0.881 0.423
Biến phụ thuộc: Chi tiêu chính quyền địa phương
Thu ngân sách chính quyền địa phương 0.671*** 0.023 0.649*** 0.025
Chuyển giao cân đối 0.113*** 0.023 0.158*** 0.026
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 32
N*T 720 588
R2 hiệu chỉnh 0.281 0.337
Biến phụ thuộc: Thu ngân sách chính quyền địa phương bình quân đầu người
Chi tiêu chính quyền địa phương bình quân 1.228*** 0.047 1.598*** 0.053
Chuyển giao cân đối bình quân –0.083* 0.048 –0.354*** 0.054
GDP bình quân đầu người 0.275*** 0.041 –0.124*** 0.045
N*T 718 586
R2 hiệu chỉnh 0.724 0.496
Biến phụ thuộc: Chi tiêu chính quyền địa phương bình quân đầu người
Thu ngân sách chính quyền địa phương bình
quân
0.277*** 0.054 0.373*** 0.06
Chuyển giao cân đối bình quân –0.117** 0.047 –0.095* 0.056
GDP bình quân đầu người 0.418*** 0.039 0.287*** 0.043
N*T 718 586
R2 hiệu chỉnh 0.579 0.767
Biến phụ thuộc: GDP bình quân đầu
người
Chi tiêu chính quyền địa phương bình quân 0.172*** 0.047 0.181*** 0.053
Thu ngân sách bình quân 0.052 0.056 0.037 0.061
Chuyển giao cân đối bình quân –0.057 0.048 –0.067 0.055
N*T 719.00 586.00
R2 hiệu chỉnh 0.908 0.845
Bảng 8 trình bày những đánh giá về tính bền vững của nợ. Cột 1 và cột 2 là kết quả ước lượng
bằng cách sử dụng phương pháp hiệu ứng cố định (fixed effect), các cột 3 và 4 sử dụng phương pháp
moment tổng quát dạng bảng động (GMM). Các mẫu trong bảng A gồm tất cả các tỉnh, và bảng B chỉ
bao gồm các tỉnh có tỷ lệ chia sẻ ở mức 100%.
Các kết quả ước lượng sử dụng hiệu ứng cố định chỉ ra rằng đối với cả hai mẫu (tức là, tất cả
các tỉnh và các tỉnh nghèo hơn), khoảng cách chi tiêu của địa phương có tác động tiêu cực đến thặng dư
tài khóa, hàm ý rằng chênh lệch giữa chi tiêu thực tế và giá trị xu hướng tăng 1% sẽ làm giảm thặng dư
tài khóa khoảng 0,06% -0,12%. Dân số tỉnh cũng có tác động tiêu cực đến thặng dư tài khóa, do các tỉnh
đông dân hơn có thể phải chi tiêu nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu. Ngược lại, GDP bình quân đầu người
có ảnh hưởng tích cực đối với thặng dư tài chính.
Tuy nhiên, không như kỳ vọng, chênh lệch sản lượng (GDP) của địa phương có ảnh hưởng tiêu
cực đến thặng dư tài chính, nghĩa là, khi GDP thực tế của địa phương cao hơn giá trị xu hướng sẽ làm
giảm thặng dư tài chính. Hiện chưa có một lời giải thích rõ ràng cho hiện tượng này; tuy nhiên có khả
năng điều này là do vấn đề nội sinh.
Bảng 8: Phân tích tính bền vững của ngân sách
Hệ số
Sai số chuẩn
Hệ số
Sai số chuẩn
Mục A: Tất cả các tỉnh
Trễ của biến phụ thuộc –0.096*** 0.002
Hiệu ứng cố định GMM dạng bảng
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 33
Chênh lệch GDP địa phương –0.073 0.069 0.135*** 0.028
Chênh lệch chi tiêu địa phương –0.152*** 0.037 –0.086*** 0.006
Dân số (dạng log) 0.018 0.048 –0.233*** 0.047
GDP địa phương bình quân đầu người 0.201*** 0.03 0.178*** 0.019
Chuyển giao cân đối 0.037 0.025 –0.106*** 0.012
Hệ số chặn –0.672 0.092
Số quan sát 767 531
Số biến công cụ 59
Hansen 0.214
Tự hồi quy bậc 1 0.003
Tự hồi quy bậc 2 0.680
Mục B: Các tỉnh nghèo
Trễ của biến phụ thuộc –0.025*** 0.003
Chênh lệch GDP địa phương –0.058 0.091 0.000 0.046
Chênh lệch chi tiêu địa phương –0.123** 0.048 0.088*** 0.018
Dân số (dạng log) –0.265* 0.143 –0.200*** 0.066
GDP địa phương bình quân đầu
người
0.242*** 0.018 0.220*** 0.034
Chuyển giao cân đối –0.017 0.015 –0.074*** 0.015
Hệ số chặn –0.722*** 0.041
Số quan sát 624 432
Số biến công cụ 48
Hansen 0.496
Tự hồi quy bậc 1 0.0243
Tự hồi quy bậc 2 0.3165
Để giải thích cho hiện tượng nội sinh này, độ trễ thứ ba của các biến phụ thuộc và biến độc lập
sẽ được sử dụng làm biến công cụ. Thống kê từ kiểm định Hansen và kiểm định từ mô hình tự hồi quy
bậc nhất và bậc hai đều thỏa mãn các điều kiện nhận dạng (identification conditions) cho mô hình GMM
động. Các kết quả ước lượng cho thấy thặng dư tài khóa trong giai đoạn cuối cùng có tác động tiêu cực
trên thặng dư tài khóa hiện tại, nhằm đảm bảo rằng thặng dư tài khóa là không bùng nổ và hỗ trợ tính
bền vững tài khóa ở cấp địa phương. Các kết quả ước lượng thu được từ mô hình GMM động chỉ ra rằng
chênh lệch sản lượng (GDP) của địa phương có ảnh hưởng tích cực tới thặng dư tài khóa, mặc dù tác
động này không tồn tại với các tỉnh nghèo hơn. Trong khi khoảng cách chi tiêu có dấu phù hợp với kỳ
vọng với toàn bộ mẫu, biến này lại có tác động tích cực tới thặng dư tài khóa tại các tỉnh nghèo hơn.
Điều này cho thấy rằng các tỉnh phải đối mặt với vấn đề khoảng cách chi tiêu (expenditure gap) mà có
thể sẽ nỗ lực hơn trong việc tăng thu ngân sách, qua đó giúp họ trang trải những thiếu hụt trong chi tiêu
và tích lũy thêm các khoản thu. Điều này, đến lượt nó, hỗ trợ các phỏng đoán trước đó rằng các hệ thống
chuyển giao cân đối có thể làm giảm động lực tăng thu ngân sách của các tỉnh. Các hệ số của tỷ lệ
chuyển giao cân đối trên tổng chi tiêu mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê, cho thấy nếu một tỉnh càng
phụ thuộc vào các khoản chuyển giao cân đối của chính phủ, tỉnh đó càng có nhiều khả năng đối mặt
với vấn đề thâm hụt ngân sách.
3. Kết luận và một số khuyến nghị chính sách
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 34
Kể từ khi Luật Ngân sách mới được ban hành vào năm 2002, trách nhiệm tài chính của chính
quyền địa phương đã tăng lên đáng kể, do đó, chính sách tài chính địa phương đóng vai trò lớn trong
quá trình phát triển của Việt Nam. Để thực hiện vai trò ngày càng cao của mình, chính quyền trung ương
đã cấp cho chính quyền địa phương nhiều nguồn lực tài chính hơn, bao gồm các phần chia sẻ thu ngân
sách với địa phương. Hoạt động chuyển giao tài chính giữa các cấp đã được cải cách để đóng vai trò
quan trọng hơn trong việc giảm thiểu mất cân bằng tài chính theo chiều dọc và ngang.
Tuy nhiên, một số vấn đề cản trở tính hiệu quả của phân cấp tài chính Việt Nam bao gồm các
nhiệm vụ chi không rõ ràng giữa các cấp chính quyền, nhiều quy định hạn chế quyền tự chủ của chính
quyền địa phương trong việc thực hiện quản lý thu chi, và thiếu các tiêu chuẩn tối thiểu cho kết quả chi
tiêu. Về chuyển giao tài chính giữa các cấp, mặc dù hệ thống chuyển giao đang thực hiện khá tốt, điểm
yếu trong quy tắc chuyển giao, các vấn đề khuyến khích (incentive problem) trong việc huy động và
phân bổ nguồn lực, và sự tồn tại của nhiều chương trình mục tiêu cấp quốc gia và cấp tỉnh với các mục
tiêu và chỉ tiêu chồng chéo cũng hạn chế hiệu quả của hệ thống này. Chính quyền địa phương được phép
vay trên thị trường vốn, nhưng có vẻ như nền tảng cơ bản của chính quyền địa phương trong việc quản
lý khoản vay còn yếu. Hiện tượng thiếu minh bạch vẫn tồn tại trong tất cả các khía cạnh của phân cấp
tài chính.
Để thực hiện phân cấp quản lý tài chính tốt hơn, Việt Nam cần hoàn thiện một số điểm sau:
(i) Chính quyền trung ương cần phân định nhiệm vụ chi rõ ràng hơn. Chính quyền trung ương
có thể đưa một số quyền hạn xuống cấp thấp hơn. Chính quyền trung ương cũng cần đưa ra các tiêu
chuẩn tối thiểu của dịch vụ công, không chỉ để đảm bảo sự bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ giữa
các địa phương mà còn giúp chính quyền tự chủ hơn trong việc phân bổ nguồn lực.
(ii) Chính quyền trung ương nên cân nhắc lại các quy định chia sẻ hiện tại như sử dụng công
thức riêng biệt cho từng nguồn thu nhập thay vì sử dụng một công thức chung. Chính quyền trung ương
có thể tăng cường hơn nữa nguồn thu địa phương bằng cách cho phép các tỉnh thành áp đặt thuế phụ thu
trên một số loại thuế như thuế thu nhập cá nhân và thuế doanh nghiệp địa phương, hoặc bằng cách cho
địa phương tự chủ hơn trong việc quy định phí và lệ phí. Thuế bất động sản cũng có thể được xem xét
trong dài hạn.
(iii) Về việc chuyển giao tài chính giữa các cấp, một số biện pháp có thể thực hiện ngay lập tức,
ví dụ như xét các định mức chuyển giao, áp dụng hệ thống chuyển dựa trên công thức và tránh việc đàm
phán để giảm thiểu động cơ phân bổ nguồn lực không hiệu quả.
(iv) Chính quyền trung ương và địa phương cần rà soát lại các chương trình mục tiêu hiện tại,
bao gồm các mục tiêu và chỉ tiêu, và xác định các chương trình chồng chéo. Tái phân bổ cho mỗi chương
trình cần phù hợp với mục tiêu. Ngoài ra, nguồn lực tài chính cho mỗi chương trình phải được liên kết
với kết quả.
(v) Để tăng cường cơ sở pháp luật hiện hành đối với việc vay nợ của chính quyền địa phương,
một số vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết bao gồm hệ thống báo cáo minh bạch cho báo cáo nợ của
chính quyền địa phương, phát triển cơ chế đánh giá mức độ tín nhiệm đối với chính quyền địa phương,
và xác định ngưỡng trên của nợ địa phương và trả nợ để bảo tính bền vững của nợ.
(vi) Cần có các biện pháp đảm bảo trách nhiệm giải trình tài chính của các cấp chính quyền địa
phương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bessho, S. 2016. Case Study of Central and Local Government Finance in Japan. Forthcoming.
Bohn, H. 2008. The Sustainability of Fiscal Policy in the United States. In Sustainability of
Public Debt, edited by R. Neck and J. Sturm. Cambridge, MA: MIT Press.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 35
Breitung, J. 2002. Nonparametric Tests for Unit Roots and Cointegration. Journal of
Econometrics 108(2): 343–363.
Buettner, T. 2009. The Contribution of Equalization Transfers to Fiscal Adjustment:
Empirical Results for German Municipalities and a US–German Comparison.
Journal of Comparative Economics 37(3): 417-431.
Buettner, T., and D. E. Wildasin. 2006. The Dynamics of Municipal Fiscal Adjustment. Journal of Public Economics 90(6–7): 1115–1132.
Im, K. S., M. H. Pesaran, and Y. Shin. 2003. Testing for Unit Roots in Heterogeneous
Panels. Journal of Econometrics 115(1): 53–74.
Le, C. 2006. Fiscal Decentralization: Status and Solutions. Hanoi: National Political Publishing
House (in Vietnamese).
Levin, A., C. Lin, and C. James–Chu. 2002. Unit Root Tests in Panel Data: Asymptotic and
Finite-Sample Properties. Journal of Econometrics 108(1): 1–24.
Maddala, G. S., and S. Wu. 1999. A Comparative Study of Unit Root Tests with Panel Data and a
New Simple Test. Oxford Bulletin of Economics and Statistics
61: 631–652.
National Assembly, Government of Viet Nam. 2002. The State Budget Law 2002.
Hanoi.
Nguyen–Hoang, P. 2008. What Is in It for the Poor? Evidence from Fiscal Decentralization in Viet
Nam. Journal of Public and International Affairs 19: 69– 90.
Nguyen–Hoang, P., and L. Schroeder. 2010. An Analysis of Quasi-Decentralized Budgeting in Viet
Nam. International Journal of Public Administration 33: 698– 709.
Pedroni, P. 1999. Critical Values for Cointegration Tests in Heterogeneous Panels with Multiple
Regressors. Oxford Bulletin of Economics and Statistics 61(4): 653–670.
———. 2000. Fully-Modified OLS for Heterogeneous Cointegrated Panels. Department of
Economics Working Paper 2000-03. Williamstown, MA: Williams College.
———. 2004. Panel Cointegration; Asymptotic and Finite Sample Properties of Pooled
Time Series Tests with an Application to the Purchasing Power Parity Hypothesis.
Econometric Theory 20: 597–625.
Solé–Ollé, A., and P. Sorribas–Navarro. 2012. The Dynamic Adjustment of Local
Government Budgets: Does Spain Behave Differently? Applied Economics
44(25): 3203–3213.
Tuoitre Online. 2013. Giật Mình Với 91.000 Tỉ Dồng Nợ Dọng. 9 September. Available at
http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20130909/giat-minh-voi-91000-ti-dong-no-dong/
567953.html (accessed 26 September 2016).
Uchimura, H., and H. Kono. 2012. Intergovernmental Fiscal Relationship in Viet Nam after the
2002 State Budget Law: The Center–Province and the Province– District/Commune
Dimensions. In Fiscal Decentralization and Development: Experiences of Three
Developing Countries in Southeast Asia, edited by
H. Uchimura. London: Palgrave–Macmillan.
Vo, D. H. 2009. Fiscal Decentralization in Viet Nam: Lessons from Selected Asian Nations.
Journal of the Asia Pacific Economy 14(4): 399–419.
World Bank. 2000. Viet Nam—Managing Public Resources Better: Public Expenditure Review
2000. Washington, DC: The World Bank.
———. 2004. Viet Nam Development Report 2005: Governance. Washington, DC: The World Bank.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 36
———. 2014. Making the Whole Greater than the Sum of the Parts: A Review of Fiscal
Decentralization in Viet Nam. Washington, DC: The World Bank.
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 37
NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
THÔNG TIN ĐỀ TÀI TRONG NƯỚC THÁNG 12-2016
Đề tài 1: Cơ sở sử dụng hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam
Chủ nhiệm: GS.TS. Nguyễn Văn Tiến, Trưởng Khoa Kinh doanh Quốc tế, Học viện Ngân hàng
Mã số: DTNH.02/2015
Năm hoàn thành: 2016
Xếp loại: Giỏi
Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về sử dụng hạn mức tín dụng trong điều hành chính
sách tiền tệ.
- Thực trạng sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
- Khuyến nghị về sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Mô tả tóm tắt:
Nhằm nghiên cứu cơ sở khoa học và hiệu quả thực tế của công cụ hạn mức tín dụng trong
điều hành chính sách tiền tệ để đưa ra những khuyến nghị cần thiết cho việc nên hay không nên
ứng dụng công cụ chính sách này, đề tài DTNH.02/2015 cấu trúc thành 03 chương với các nội
dung nghiên cứu cụ thể như sau:
Chương 1 nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về sử dụng hạn mức tín dụng
trong điều hành chính sách tiền tệ. Về cơ sở lý luận, thông qua thuyết số luợng tiền tệ, tác giả
phân tích các kênh truyền tải CSTT, qua đó phân tích các cách thức NHTW có thể kiểm soát
tín dụng và các lý do chính một NHTW sử dụng công cụ hạn mức tín dụng bên cạnh các công
cụ CSTT truyền thống. Đề tài cũng phân tích kinh nghiệm sử dụng hạn mức tín dụng trong điều
hành chính sách tiền tệ của Ấn Độ và Mỹ, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong sử
dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ cho Việt Nam như:
(i) Nên có một hệ thống giám sát quá trình thực hiện một cách nghiêm túc và công bằng để
đảm bảo NHTW có được các thông tin phục vụ điều hành thị trường hiệu quả cũng như đảm
bảo công bằng cho các ngân hàng.
(ii) Việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng nên được kết hợp với các yếu tố khác có tính
linh hoạt hơn.
(iii) Về mặt dài hạn, việc áp đặt một hạn mức cụ thể sẽ làm giảm tính tự do cũng như tính
cạnh tranh giữa các ngân hàng, do đó cần xây dựng một lộ trình làm giảm dần tác động của các
công cụ CSTT.
Chương 2, trung phân tích thực trạng sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bao gồm bối cảnh vĩ mô tiền tệ và thực
trạng sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam giai đoạn 2011-2015. Đông thơi đánh giá việc sử dụng công cụ hạn mức tín
dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2011-
2015 đã có tác động kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý; sử dụng
công cụ hạn mức tín dụng là phù hợp với thực trạng phát triển của hệ thống tài chính và điều
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 38
hành CSTT hiện nay; sử dụng công cụ hạn mức tín dụng có tác động hạn chế rủi ro hệ thống,
bong bóng tài sản, có tác dụng như một công cụ giám sát an toàn vĩ mô; hạn mức tín dụng là
một công cụ cần thiết trong giai đoạn tái cơ cấu hệ thống các TCTD,… Qua đo, rút ra một số
vấn đề đối với việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bao gồm: (i) tính minh bạch và tính linh hoạt trong việc áp
dụng hạn mức tín dụng; (ii) vấn đề hiệu quả phân bổ nguồn lực và chi phí quản lý; (iii) Hiệu
quả của chính sách này lên tổng cầu đôi khi còn gây tranh cãi, trong khi nó có thể tọa sức ép
tăng lãi suất cho vay; (iv) Công cụ HMTD gây hiện tượng tăng tín dụng không thực chất do
TCTD có động cơ điều chỉnh kỹ thuật để dự phòng mức tăng trưởng tín dụng cho năm sau; (v)
Thời gian áp dụng công cụ HMTD tại Việt Nam đã tương đối dài (hơn 5 năm liên tục) so với
thông lệ chung của quốc tế (không quá 2 năm liên tục). Đề tài cũng sử dụng phân tích định
lượng để kiểm tra mức độ truyền tải CSTTqua các kênh lãi suất, giá cổ phiếu, tỷ giá, tín dụng,
qua đó đánh giá tính cần thiết của công cụ HMTD, … Nhăm đi đến kết luận là việc chỉ sử dụng
các công cụ CSTT truyền thống để tác động vào cung tiền rồi đến tín dụng là chưa đủ trong
trường hợp CSTT cần tạo ra ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế. Khi đó, việc áp dụng kết hợp
công cụ HMTD với các công cụ CSTT truyền thống là cần thiết.
Chương 3 phân tích mục tiêu phát triển KT-XH giai đoạn 2016-2020, định hướng điều hành
chính sách KTVM và CSTT, qua đó đưa ra một số khuyến nghị về sử dụng công cụ hạn mức
tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo nhóm
nghiên cứu, hiện nay, NHNN nên dừng việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng do tình hình
lạm phát đã được kiểm soát, nền kinh tế bắt đầu đi vào ổn định, các NHTM yếu kém đã được
khoanh vùng, xử lý bằng các công tác tái cơ cấu. Tuy nhiên trong tương lai NHNN vẫn có thể
cân nhắc lợi ích - chi phí để sử dụng lại công cụ hạn mức tín dụng song song với các công cụ
CSTT truyền thống trong những trường hợp nhất định như kiểm soát lạm phát, xử lý các TCTD
yếu kém hay hạn chế tín dụng đổ vào các ngành tăng trưởng nóng. Bên cạnh đó, NHNN cần
tiếp tục nâng cao hiệu quả điều hành CSTT bằng các công cụ mang tính thị trường, thực hiện
giám sát an toàn vĩ mô, tái cơ cấu thị trường tài chính, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và nâng
cao hiệu quả quản lý thanh khoản của các ngân hàng./.
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 39
HỘI THẢO KHOA HỌC THÁNG 12-2016
1. Tọa đàm về tài trợ cơ sở hạ tầng chất lượng cho đầu tư dài hạn và huy động vốn từ khu
vực tư nhân
Thời gian tổ chức: 19 và 20/12/2016
Đơn vị thực hiện: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Viện Ngân hàng Phát triển Châu Á
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nội dung hội thảo:
Trong hai ngày 19 và 20/12/2016, tại Hà Nội, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Viện
Ngân hàng Phát triển Châu Á phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tổ chức
tọa đàm về tài trợ cơ sở hạ tầng chất lượng cho đầu tư dài hạn và huy động vốn từ khu vực tư
nhân. Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã đến dự và có bài phát biểu khai mạc tọa
đàm.
Tham dự tọa đàm có các đại diện đến từ NHNN Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt
Nam, Bộ Tài Chính Nhật Bản, Viện Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADBI), Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD),
Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), Trung tâm cơ sở hạ tầng toàn cầu (Global
Infrastructure Hub), Hiệp hội doanh nghiệp điện tử (ERIA), Ủy ban Điều phối kết nối ASEAN,
Công ty chứng khoán Nomura và các diễn giả đến từ các trường Đại học: RMIT, Tokyo,
Xiamen...
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, đã có
nhiều nghiên cứu, báo cáo đánh giá của quốc tế chỉ ra rằng, phát triển đầu tư cơ sở hạ tầng là
điều kiện tiền đề giúp thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, giúp xóa đói giảm nghèo không chỉ
nội bộ một quốc gia mà cả trong liên kết phát triển kinh tế vùng hay trên bình diện hợp tác quốc
tế.
Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng tin rằng, Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển
khác trên thế giới đang phải đối mặt với một số nguy cơ hiện hữu trong đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng. Một là, thiếu hụt đáng kể nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng; Hai là, thiếu cơ
chế chính sách thích hợp để huy động được các nguồn lực ngoài Nhà nước để đầu tư cơ sở hạ
tầng; Ba là, hiện trạng đầu tư cơ sở hạ tầng còn thiếu đồng bộ và thiếu quy hoạch có chất lượng
để từ đó có được các công trình đầu tư sinh lời bền vững, đem lại sức lan tỏa cho cộng đồng;
Bốn là, năng lực quản trị, điều hành, vận hành các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng còn có nhiều hạn
chế; Năm là, việc đầu tư cơ sở hạ tầng còn chưa chú trọng đúng mức tới các tác động về môi
trường và xã hội. Từ những nhận định này, Phó Thống đốc cho rằng cả 6 nội dung mà Hội thảo
đề cập sẽ là cơ hội tốt để các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam học hỏi, chia sẻ kinh
nghiệm quốc tế để từ đó đúc kết những bài học riêng cho mình.
Đối với Việt Nam, một trong những trọng tâm ưu tiên trong Kế hoạch Phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam trong thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng,
coi đây là nền tảng vững chắc phục vụ cho sự phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước.
Hàng năm, Việt Nam cần đầu tư nhiều tỷ USD vào các công trình, dự án mới, đồng thời vẫn
phải chi thường xuyên cho việc duy tu, bảo trì các công trình, dự án hiện tại. Với tốc độ tăng
trưởng GDP hàng năm trong khoảng từ 5% - 7%/năm cho một nền kinh tế với quy mô GDP
chưa đến 200 tỷ USD thì hàng năm, Chính phủ Việt Nam chỉ có thể tự tài trợ một phần rất
khiêm tốn so với nhu cầu đầu tư khổng lồ này từ nguồn tiết kiệm và tích lũy nội tại. Trong bối
cảnh đó, Chính phủ Việt Nam buộc phải vay các tổ chức quốc tế và phát hành nợ trong nước
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 40
để đầu tư mới và duy tu bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tần. Điều này dẫn đến nợ công đã
tăng nhanh, tạo nguy cơ mất cân đối vĩ mô tổng thể.
Đầu năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định về Hợp tác công tư và đã triển
khai nhiều dự án có sự tham gia của khu vực tư nhân, nhất là trong lĩnh vực giao thông. Tuy
nhiên, so với nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng hàng năm khoảng 30 tỷ USD thì những kết quả ban
đầu như trên còn rất khiêm tốn. Ngoài ra, nguồn lực huy động chính cho đầu tư cơ sở hạ tầng
tại Việt Nam hiện nay lại đến từ khu vực ngân hàng nên nếu không kiểm soát tốt, có thể tiềm
ẩn nhiều rủi ro và gây nên những hệ lụy bất lợi cho công tác điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương.
Tại tọa đàm, các đại biểu đã tập trung thảo luận 6 nội dung cơ bản sau: Thúc đẩy cơ sở hạ
tầng chất lượng cho đầu tư dài hạn - Dẫn chứng và tác động; Phối hợp với khu vực tư nhân: Vai
trò của các thị trường vốn cho đầu tư dài hạn; Tài trợ cơ sở hạ tầng xanh và hợp tác khu vực
tăng trưởng xanh; Tăng cường tác động phát triển của đầu tư cơ sở hạ tầng ở khu vực Châu Á
mới nổi; Tài trợ kết nối cơ sở hạ tầng – Các sáng kiến chính ở khu vực; Hướng tới vai trò Chủ
tịch APEC của Việt Nam trong năm 2017 – Một chương trình nghị sự tiềm năng cho đầu tư cho
cơ sở hạ tầng chất lượng.
Tọa đàm là cơ hội tốt để các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam học hỏi, chia sẻ
kinh nghiệm quốc tế để từ đó đúc kết những bài học riêng cho mình.
NH
Theo sbv.gov.vn
Tổng thuật hội thảo
Trở lại trang đầu
2. Hội thảo “Quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng”
Thời gian tổ chức: Ngày 06/12/2016
Đơn vị thực hiện: Vụ Pháp chế và Thời báo Ngân hàng
Nội dung hội thảo:
Ngày 6/12/2016, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN),
hai đơn vị Vụ Pháp chế và Thời báo Ngân hàng đã phối hợp tổ chức Hội thảo “Quyền xử lý tài
sản bảo đảm của tổ chức tín dụng”
Tham dự và đồng chủ trì Hội thảo có TS. Nguyễn Đức Kiên - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh
tế của Quốc hội; PGS. TS Nguyễn Kim Anh - Phó Thống đốc NHNN và TS. Lê Xuân Nghĩa,
chuyên gia kinh tế; đến dự Hội thảo còn có đại diện Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Công an
(C46, A84), đại diện của các Vụ, Cục liên quan của NHNN, một số ngân hàng thương mại
(NHTM), các chuyên gia kinh tế, luật sư… và các cơ quan thông tấn báo chí đến dự và đưa tin
về nội dung của Hội thảo.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh cho rằng, việc xử
lý hiệu quả TSBĐ đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, minh
bạch, phù hợp, tôn trọng quyền chủ nợ hợp pháp của bên cho vay, tạo lập được khuôn khổ pháp
lý cho các bên liên quan, đặc biệt là chủ nợ thực thi được quyền hợp pháp của mình theo thỏa
thuận, thiết lập được cơ chế, cách thức cho phép các bên lựa chọn được cách xử lý nhanh chóng,
thuận tiện, tối đa hóa được giá trị thu nợ từ TSBĐ. Đồng thời, hệ thống pháp luật này phải được
các cơ quan, tổ chức liên quan, các bên tham gia giao dịch thực hiện nghiêm minh… Phó Thống
đốc nhấn mạnh: “Các ý kiến tham luận, trao đổi, kiến nghị tại Hội thảo sẽ là kênh thông tin
quan trọng giúp NHNN, các cơ quan nhà nước có liên quan rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 41
luật về xử lý tài sản bảo đảm, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đã nảy sinh, tạo lập
khuôn khổ pháp lý hữu hiệu để tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện quyền xử lý TSBĐ hợp pháp
của mình...”.
Phó Thống đốc cho biết, tỷ lệ nợ xấu có bảo đảm bằng TSBĐ chiếm trên 90% tổng nợ xấu;
tuy nhiên, khâu xử lý TSBĐ của các TCTD gặp nhiều vướng mắc đã tác động đến tốc độ xử lý
nợ xấu. Tham luận của các diễn giả tại Hội thảo cho thấy, hiện nay chúng ta vẫn còn thiếu các
quy định pháp luật; nhiều quy định về xử lý TSBĐ không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn;
thực tiễn áp dụng và thực thi các quy định pháp luật chưa đúng của cơ quan liên quan thi hành
pháp luật gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình xử lý TSBĐ.
Thuyết trình về quyền xử lý TSBĐ, dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, TS. Vũ Đình
Ánh cho rằng: "Bản chất kinh tế của quyền xử lý TSBĐ tại TCTD là quyền đối với TSBĐ nhằm
bù đắp thiệt hại do nợ xấu gây ra. Nhưng khi các TCTD xử lý TSBĐ thì quan hệ với người đi
vay không những thiếu đi sự hợp tác cần thiết, mà có khi còn chuyển sang đối đầu, thậm chí
mâu thuẫn xung đột gay gắt… Theo ông Vũ Đình Ánh, quyền xử lý TSBĐ chỉ được thực thi
một cách nhanh chóng, hiệu quả và hiệu lực khi và chỉ khi nhận thức về quyền, lợi ích và nghĩa
vụ của tất cả các bên liên quan trong quan hệ tín dụng ngân hàng được xác lập một cách đúng
đắn dựa trên những cơ sở pháp lý khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam, đồng thời
tiệm cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế…
Dưới góc độ pháp luật về quyền xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD, luật sư Nguyễn
Thị Phương - Phó Chủ nhiệm CLB Pháp chế Ngân hàng Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, quyền
xử lý TSBĐ của các TCTD là một loại quyền dân sự. Do đó, các TCTD được thực hiện quyền
xử lý TSBĐ theo ý chí của mình với điều kiện tiên quyết là không trái các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự và không được lạm dụng quyền gây thiệt hại cho người khác, không vượt
quá giới hạn việc thực hiện quyền đó…
Tham luận tại Hội thảo, đại diện một số ngân hàng cũng nêu ra những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình nhận TSBĐ là nhà ở như: Nhiều quy định của pháp luật hiện hành thiếu các
hướng dẫn cụ thể về nội dung xử lý TSBĐ dẫn đến việc khi các TCTD nhận thế chấp dự án đầu
tư xây dựng nhà ở thì việc xử lý TSBĐ có thể dẫn đến thời gian giải quyết kéo dài, gây khó
khăn, lúng túng cho các TCTD trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, việc kéo dài thời gian
thi hành án không chỉ tốn kém chi phí, mà còn kéo dài thời gian thu nợ, ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động kinh doanh của TCTD.
Tại Hội thảo, các đại diện đến từ NHTM phản ánh, thảo luận về nhiều bất cập trong các quy
định hiện hành và thực tế của các TCTD trong xử lý TSBĐ. Hội thảo ghi nhận nhiều kiến nghị
cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về quyền xử lý TSBĐ của các TCTD cũng như trách
nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền xử lý TSBĐ của cơ quan tư pháp các cấp.
Các diễn giả cho rằng, quan điểm xây dựng và thực thi pháp luật hiện nay cần phải được
thay đổi. Đó là phải ưu tiên trước hết bảo vệ quyền lợi của chủ nợ thay vì con nợ, tức bảo vệ
quyền sở hữu trọn vẹn là đồng tiền cho vay, thay vì bảo vệ quyền sở hữu hạn chế là đồng tiền
đi vay hay tài sản đã đưa vào bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ. Điều này cần phải được cụ thể hoá
trong các quy định liên quan đến giao dịch bảo đảm, xử lý TSBĐ. Đồng thời, các tham luận tại
Hội thảo cũng kiến nghị, Bộ Tư pháp khẩn trương phối hợp với NHNN, Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Toà án Nhân dân Tối cao trình Chính phủ ban hành Nghị
định về xử lý TSBĐ.
Hội thảo cũng đưa ra kiến nghị: Do Bộ Luật Dân sự năm 2015 sẽ có hiệu lực từ ngày
01/01/2017, nhưng đến nay chưa có quy định cụ thể về việc thu giữ TSBĐ. Vì vậy, kiến nghị
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 42
với Bộ Tư pháp cần phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để nghiên cứu, bổ sung hướng
dẫn chi tiết về quyền của bên nhận bảo đảm đối với việc xử lý TSBĐ trong trường hợp bên bảo
đảm chống đối, không hợp tác…
Theo sbv.gov.vn
Tổng thuật hội thảo
Trở lại trang đầu
3. Hội thảo “Tác động của chính sách tài khoá đến tăng trưởng kinh tế”
Thời gian tổ chức: Ngày 23/12/2016
Đơn vị thực hiện: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)
Nội dung hội thảo:
Thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu phục vụ cho công tác xây dựng và phản biện chính sách
trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ của mình, ngày 23/12/2016, Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương (CIEM) chủ trì, Tạp chí Quản lý kinh tế tổ chức Hội thảo “Tác động của
chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế” để lấy ý kiến các chuyên gia về lĩnh vực trên.
Kết quả của hội thảo sẽ phục vụ cho công tác tham mưu, góp ý các chính sách ổn định kinh
tế vĩ mô của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội hàng năm của Chính phủ. Hội thảo do PGS.TS. Trần Kim Chung – Phó Viện trưởng
CIEM chủ trì. Tham gia Hội thảo có cac nhà hoạch định chính sách, chuyên gia, nha nghiên
cưu đến từ các Bộ, ngành, hiệp hội doanh nghiệp, đại diện Hội nhà báo, đai diên một số cơ quan
Trung ương và Hà Nội.
Tại Hội thảo, TS. Vũ Sỹ Cường – Bộ môn Phân tích chính sách, Khoa Tài chính công (Học
viện Tài chính) cho rằng để tiếp tục thực hiện mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế và ổn định
kinh tế vĩ mô ở Việt Nam trong dài hạn, cần phải hiểu rõ bản chất của mối quan hệ giữa chính
sách tài khoá và tăng trưởng kinh tế. Từ đó, đưa ra một số gợi ý chính sách cho Việt Nam như:
tiếp tục ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng; cải cách chi tiêu công từ hỗ trợ gián tiếp sang hỗ trợ trực
tiếp trong các lĩnh vực y tế và giáo dục cần xem xét vấn đề công bằng và khả năng tiếp cận dịch
vụ; v.v…
Trong phần trình bày “Tác động của chính sách tài khoá đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
giai đoạn 1990 đến nay” của PGS. TS. Nguyễn Thị Nguyệt – Phó Tổng Biên tập Phụ trách Tạp
chí Quản lý kinh tế (CIEM), chính sách tài khoá là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô
được Chính phủ sử dụng để huy động, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Thông qua việc phân tích
một số vấn đề lý luận về chính sách tài khoá và đo lường xung lực tài khoá cho Việt Nam,
PGS.TS. Nguyệt đưa ra một số định hướng giải pháp cho việc điều hành chính sách tài khoá
nhằm ổn định chu kỳ kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới.
Về “Phân tích tác động của chính sách tài khoá đến tăng trưởng kinh tế và ngụ ý chính sách
cho Việt Nam”, PGS.TS. Bùi Đại Dũng – Chủ nhiệm bộ môn Chính sách công (Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia HN) cho biết chính sách tài khoá có ảnh hưởng phức tạp đến tăng trưởng
thông qua các hoạt động thu và chi ngân sách. Thông qua việc phân tích số liệu vĩ mô của hơn
124 nền kinh tế trên thế giới giai đoạn 2005-2015, PGS.TS. Dũng rút ra một số kết luận sau:
Quy mô chi tiêu công của hầu hết các quốc giá trong phân tích đều vượt quá quy mô tối ưu và
gây tổn hại đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, quy mô chi tiêu công và thuế suất của Việt Nam đều
cao hơn chỉ số trung vị của 124 nước trong nghiên cứu; v.v…
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 43
PGS. TS. Nguyễn Thị Nguyệt – Phó Tổng Biên tập Phụ trách Tạp chí Quản lý kinh tế, thay
mặt cho Tạp chí Quản lý kinh tế, ban tổ chức, cảm ơn sự tham gia và cộng tác của các diễn giả,
khách mời tham dự. Tạp chí mong tiếp tục nhận được trao đổi, chia sẻ về chủ đề hội thảo, đồng
thời Tạp chí luôn hợp tác, hỗ trợ của các nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu và đăng tải
các công trình nghiên cứu về quản lý kinh tế.
Kết thúc Hội thảo, PGS.TS. Trần Kim Chung cảm ơn bài trình bày nhiều thông tin của các
các diễn giả. Phó Viện trưởng Chung mong muốn nhận được nhiều ý kiến góp ý của các chuyên
gia và đại biểu đối với các nghiên cứu, báo cáo về chủ đề này của Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương trong thời gian tới./.
Tài liệu tham khảo tại Trung tâm Thông tin - Tư liệu (CIEM)
Email: [email protected]; ĐT: 043.7338930
Nguồn: Trung tâm Thông tin- Tư liệu (CIEM). Theo sbv.gov.vn
Tổng thuật hội thảo
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 44
ẤN PHẨM KHOA HỌC THÁNG 12-2016
Đón đầu xu hướng
Nguồn: NXB Lao động
Tác giả: Rohit Bhargava
Người dịch: Đặng Việt Ninh
Giới thiệu ấn phẩm:
Đón đầu xu hướng là một trong số ít những cuốn sách thực sự dạy bạn cách nghĩ khác. Nó
đưa ra giải pháp cho một vấn đề mà các chủ doanh nghiệp, doanh nhân khởi nghiệp, giám đốc
tiếp thị và CEO đã vật lộn trong nhiều năm – làm thế nào biết được thị trường sẽ đi tới đâu và
làm thế nào để tới đó trước mọi người và khai thác nó.
Mục đích đơn giản của cuốn sách này là dạy bạn cách nhìn ra những thứ người khác không
thấy. Tác giả gọi đó là khả năng tư duy “phi hiển nhiên”, và hiểu rằng làm như vậy có thể thay
đổi công việc kinh doanh và sự nghiệp của bạn. Đa số mọi người đều thích các xu hướng và
những người dự đoán xu hướng. Vấn đề duy nhất là hầu hết những dự đoán đó đều dựa trên sự
phỏng đoán hay tư duy lười biếng. Những dự đoán đó là hiển nhiên chứ không phải phi hiển
nhiên. Tác giả tin rằng quan sát và sàng lọc ý tưởng có thể dẫn mọi người tới một hiểu biết độc
đáo về lý do tại sao người ta quyết định mua, bán hay tin vào một thứ gì đó.
Mục đích của cuốn sách này là dạy bạn các kỹ năng tránh những điều hiển nhiên và dự đoán
xu hướng cho bản thân. Các quyết định dài hạn bắt nguồn từ ngắn hạn, do đó việc hiểu được
thế giới đang thay đổi như thế nào trong thời gian thực có giá trị hơn nhiều so với việc tìm cách
đoán xem điều gì sẽ xảy ra trên thế thới trong 20 năm tới.
Lý do tác giả sử dụng thuật ngữ mô tả mình là “người sàng lọc xu hướng” là vì nó thể hiện
niềm đam mê của tác giả với việc thu thập ý tưởng, dành thời gian để tìm ra quy luật trong các
ý tưởng đó và mô tả thế giới theo những cách thức mới mẻ và thú vị.
Kinh nghiêm bôn năm xuât ban sach vê 15 xu hương lơn nhât se đinh hình thế giới kinh
doanh trong năm tiếp theo, tham gia tư vấn về chiến lược kinh doanh trong một vài thương hiệu
lớn nhất thế giới, dạy marketing ở Đại học Georgetown và nói chuyện ở các sự kiện tại 27 nước
trên thế giới, viết bài điểm sách cho vài chục cuốn sách,… Tất cả những công việc này mang
lại cho tác giải cơ hội quý báu được làm việc trong hàng tác các ngành công nghiệp khác nhau
và nghiên cứu truyền thông, văn hóa, tiếp thị, công nghệ, thiết kế và kinh tế với con mắt thực
tế
Tac gia chia cuốn sách thành ba phần đơn giản.
Phần I nói về các phương pháp sàng lọc xu hướng của tác gia. Đo la những huyền thoại dự
báo xu hướng vĩa đại nhất, năm thói quen lớn của các nhà sàng lọc xu hướng và phương pháp
sàng lọc xu hướng từng bước một của tác giả mà tác giả gọi là phương pháp Đống cỏ khô.
Phần II là ấn bản năm 2015 của Báo cáo Xu hướng Phi hiển nhiên, nói về 15 ý tưởng mới
sẽ định hình kinh doanh trong năm tiếp theo.
Phần III là những lời khuyên để làm cho các xu hướng trở nên dễ áp dụng, bao gồm cả
hướng dẫn từng bước một danh cho các loại hội thảo khác nhau và tác giả thường sử dụng.
Trong phần này, tác giả cũng thảo luận về tầm quan trọng của phản xu hướng (Chương 15) và
làm thế nào để sử dụng “Tư duy giao lộ” để nhin ra quy luật giữa các ngành công nghiệp và các
câu chuyện.
Cuốn sách gồm các chương mục chính sau đây:
Phần I: Nghệ thuật sàng lọc xu hướng
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 45
Giới thiệu
Chương 1: Nhà tỷ phú Na Uy
Chương 2: Tâm thế người sàng tuyển
Chương 3: Phương pháp đống cỏ khô
Phần II: Báo cáo xu hướng phi hiển nhiên 2015
Chương 4: Ngôi sao hàng ngày
Chương 5: Tự tin khi chụp ảnh tự sướng
Chương 6: Tỉnh thức chính thống
Chương 7: Sự nhân từ mang tên thương hiệu
Chương 8: Bán lẻ ngược
Chương 9: Người marketing lưỡng lự
Chương 10: Nội dung có thể nhìn lướt qua
Chương 11: Phù hợp tâm trạng
Chương 12: Truyền thông thử nghiệm
Chương 13: Không hoàn hảo
Chương 14: Sự bảo vệ mang tính dự đoán
Chương 15: Nghiện được thiết kế
Chương 16: Dữ liệu nhỏ
Chương17: Phân phối phá rối
Chương 18: Tiêu thụ vi mô
Phần III: Hướng dẫn áp dụng xu hướng
Chương 19: Tư duy giao lộ: Làm thế nào để áp dụng các xu hướng cho việc kinh doanh
của bạn?
Chương 20: Làm thế nào để sử dụng hội thảo xu hướng lập bản đồ hành trình khách hàng?
Chương 21: Để sử dụng hội thảo xu hướng kể chuyện thương hiệu
Chương 22: Làm thế nào để sử dụng hội thảo xu hướng chiến lược kinh doanh?
Chương 23: Làm thế nào để sử dụng hội thảo xu hướng văn hóa doanh nghiệp?
Chương 24: 7 Tài liệu về xu hướng hay nhất bạn cần đánh dấu
Chương 25: Phản xu hướng: Mặt trái của xu hướng
Viện Chiến lược Ngân hàng trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách này./.
Giới thiệu sách
Trở lại trang đầu
Từng là bá chủ
Nguồn: Nxb Trẻ
Tác giả: Thomas L. Fried Man & Michael Mandelbaum
Người dịch: Nguyễn Hằng dịch
Giới thiệu ấn phẩm:
Nươc My đang phai đôi măt vơi nhưng thach thưc lơn, quyêt đinh tương lai cua đât nươc.
Va nêu nươc My không giai quyêt đươc chung, nêu ngươi my tri hoan hanh đông thi moi chuyên
se nhanh chong trơ nên qua muôn, ngươi My không thê truyên lai giâc mơ My cho thê hê sau.
Trong cuôn Tưng la ba chu nay, Thomas L. Friedman, môt trong nhưng nha bao co anh
hương lơn nhât hiên nay, va Michael Mandelbaum, môt trong nhưng chuyên gia chinh sach
ngoai giao hang đâu cung đưa ra lơi thưc tinh va kêu goi moi ngươi hanh đông. Hai tac gia phân
tich bôn thach thưc nươc My đang phai đôi măt: toan câu hoa, cach mang công nghê thông tin,
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 46
thâm hut ngân sach kinh niên va thoi quan tiêu dung năng lươc qua mưc. Ho cung nêu ro nhưng
viêc nươc My phai lam hiên nay đê duy tri giâc mơ My va phuc hôi sưc manh cua nươc My
trên thê giơi. Ho chưng minh răng sư kêt thuc cua Chiên tranh Lanh đa khiên ngươi My trơ nên
mu quang, không thây đươc sư cân thiêt phai giai quyêt nhưng thach thưc noi trên môt cach
nghiêm tuc. Ho giai thich nhưng thanh tưu trong giao duc, trinh đô san xuât công nghiêp va
năng lưc công nghê cua Trung Quôc đa nhăc ngươi dân My răng minh “tưng la ba chu như thê
nao. Ho cho biêt hê thông chinh tri bi tê liêt va nhưng gia tri My bi xoi mon đa khiên nươc My
không thê thưc hiên nhưng chinh sach ma đât nươc đang vô cung cân ra sao.
Nhưng Friedman va Mandelbaum đêu tin răng nhiêm vu phuc hôi sưc manh la năm trong
tâm tay cua nươc My. Ho chi ra răng nêu hiêu đung lich sư nươc My thi se nhân đươc công
thưc năm tru côt đê đat đươc sư thinh vương, qua đo cho phep My giai quyêt đươc nhưng thach
thưc ho đang phai đôi măt. Hai ông cung đê xuât cach thưc ro rang đê thoat khoi cai bây nươc
My đang sa vao trong đo co viêc phai phuc hôi môt vai truyên thông quan trong nhât va tao ra
môt đang phai chinh tri thư ba đê kich thich ca đât nươc. Tưng la ba chu la cuôn sach vưa nghiên
cưu ti mi hiên trang, vưa đưa ra tuyên ngôn manh me vê sư tai sinh cua nươc My.
Mơ đầu cuốn sách bằng bối cảnh Thiên Tân, Trung Quốc và bắt đầu so sánh với nước Mỹ.
Friedman và Mandelbaum vẽ ra một hình ảnh Trung Quốc phát triển vượt bậc, trở thành một
đối thủ đe dọa nghiêm trọng vị thế của nước Mỹ.
Quyển sách là một phiên bản đen tối hơn nhiều của Thế giới phẳng. Nước Mỹ đang thất thế
bởi nhiều lý do. Đông thơi hai tác giả cũng tự mô tả mình là "những người lạc quan nản chí".
Các tác giả cố gắng tự lạc quan và làm cho độc giả lạc quan về tương lai của nước Mỹ. Họ hy
vọng cuốn sách như một sự cảnh báo, một lời hiệu triệu người Mỹ đoàn kết, hy sinh cá nhân để
giúp nước Mỹ tìm lại vị thế cũ.
Cuôn sach gôm nhưng nôi dung chúng sau:
PHÂN I: CHUÂN ĐOAN
Hay cho chung tôi biêt nhưng gi ban thây
Lơ đi nhưng răc rôi
Lơ đi lich sư
PHÂN II: THACH THƯC VÊ GIAO DUC
Lơ lưng trên trơi
Cân giup đơ
Lam viêc x2 = giâc mơ My
Binh thương đa hêt thơi.
PHÂN III: CUÔC CHIÊN VƠI TOAN HOC VA VÂT LY
Cai chung ta đang đươc hương
Cuôc chiên vơi toan hoc (va tương lai)
Cuôc chiên vơi vât ly va nhưng điêu tôt đep khac
PHÂN IV: THÂT BAI CHINH TRI
Khung hoang tuôi lên hai
“Bât kê anh noi gi tôi cung không đông y
Suy giam gia tri
PHÂN V: TAI KHAM PHA NƯƠC MY
Nhưng ngươi không co thông tin
Liêu phap sôc
Tai kham pha nươc My
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 47
Viện Chiến lược Ngân hàng trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách này./.
Giới thiệu sách
Trở lại trang đầu
Quản trị rủi ro trong Ngân hàng
Nguồn: Nxb Lao động – Xã hội
Tác giả: Joel Bessis
Dich gia: Trần Hoàng Ngân, Đinh Thế Hiển, Nguyễn Thanh Huyền
Giới thiệu ấn phẩm
Tái bản lần thứ ba, cuốn sách quan trọng này của Joel Bessis đã được chỉnh sửa và cập nhật
toàn diện để nghiên cứu gương mặt thay đổi của quản lý rủi ro.
Hoàn toàn được tái cấu trúc với những tài liệu và thảo luận mới về những sản phẩm tài
chính mới, phái sinh, Basel II, mô hình tín dụng dựa trên mô hình cường độ thời gian, thực thi
những hệ thống rủi ro và mô hình cường độ của vỡ nợ, nó còn bao gồm một mục về dưới chuẩn
để nói về những cơ chế khủng hoảng và những điều kiện tài chính khó khăn gần đây. Cuốn sách
cho rằng những cách thức và kỹ thuật quản lý rủi ro vẫn rất quan trọng nếu được thực thi một
cách đúng đắn với sự điều hành phù hợp.
Quản lý rủi ro trong ngân hàng, phiên bản ba, khảo sát mọi khía cạnh của quản lý rủi ro và
nhấn mạnh sự cần thiết phải hiểu những vấn đề khái niệm và thực thi của quản lý rủi ro và xem
xét những kỹ thuật và vấn đề thực tế mới nhất, bao gồm:
Quản lý rủi ro tại ngân hàng
Quản lý nợ tài sản
Quy định rủi ro và tiêu chuẩn kế toán
Các mô hình rủi ro thị trường
Các mô hình rủi ro tín dụng
Mô phỏng những sự phụ thuộc
Các mô hình danh mục đầu tư tín dụng
Phân bổ vốn
Hoạt động điều chỉnh theo rủi ro
Quản lý danh mục đầu tư tín dụng
Xây dựng trên thành công của tác phẩm kinh điển này, phiên bản ba là một tài liệu không
thể thiếu cho những sinh viên MBA, những người hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng và dịch
vụ tài chính, những người điều hành ngân hàng và những nhân viên kiểm toán.
"Quản Lý Rủi Ro Trong Ngân Hàng" đã là một người bạn đáng tin cậy trong công việc của
tôi. Trong suốt sự nghiệp tôi đã phát triển ba chương trình quản lý rủi ro doanh nghiệp khác
nhau và cảm thấy tác phẩm của Tiến Sĩ Bessis rất có giá trị và thực tế. Phiên bản mới cập nhật
này mở rộng đáng kể từ những cuốn trước và tích lũy từ những sự kiện quốc tế gần đây, điều
đã thách thức một số phương pháp tiếp cận rủi ro. Đây là một cuốn sách cần thiết cho những
người quản lý rủi ro trong môi trường ngân hàng phức tạp ngày nay." (- David R. Koenig, Giám
Đốc Điều Hành của Quỹ The Governance và Cựu Thành Viên Hội Đồng Giám Đốc của Hiệp
Hội Những Nhà Quản Lý Rủi Ro Quốc Tế). Cuôn sach gôm 53 chương cu thê như sau:
Chương 1: Cuộc khủng hoảng tài chính 2007 -2008
Chương 2: Nghiệp vụ ngân hàng
Chương 3: Rủi ro và quản lý rủi ro
Chương 4: Quản lý rủi ro
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 48
Chương 5: Các sản phẩm ngân hàng và tài chính
Chương 6: Những điều căn bản về những sản phẩm phái sinh
Chương 7: Rủi ro lãi suất và phái sinh lãi suất
Chương 8: Rủi ro giao dịch ngoại hối và phái sinh giao dịch ngoại hối
Chương 9: Phái sinh tín dụng
Chương 10: Các hàm phân phối
Chương 11: Lợi nhuận rời rạc và liên tục
Chương 12: Quá trình ngẫu nhiên
Chương 13: Đánh giá và định giá rủi ro
Chương 14: Một số ứng dụng của các kỹ thuật đánh giá
Chương 15: Mô phỏng rủi ro
Chương 16: Độ biến động
Chương 17: Đo lường giá trị gặp rủi ro
Chương 18: VaR và vốn
Chương 19: Các quy định ngân hàng: Basel 1 và rủi ro thị trường
Chương 20: Các quy định ngân hàng: Hiệp ước Basel 2
Chương 21: Các tiêu chuẩn kế toán
Chương 22: Quản lý tính thanh khoản và khe hở tính thanh khoản
Chương 23: Khe hở lãi suất
Chương 24: ALM và các chính sách phòng hộ
Chương 25: Rủi ro lựa chọn ẩn
Chương 26: Giá trị kinh tế của bảng cân đối kế toán
Chương 27: Giá trị kinh tế và rủi ro độ lồi
Chương 28: Hệ thống định giá chuyển khoản
Chương 28: Giá chuyển khoản kinh tế
Chương 29: Giá chuyển khoản kinh tế
Chương 30: Tương quan và hiệp phương sai
Chương 31: Xác suất điều kiện
Chương 32: Mô hình nhân tố
Chương 33: Tính phụ thuộc và các hàm Copula
Chương 34: Mô phỏng với mô hình nhân tố hoặc phương pháp Copula
Chương 35: VaR Delta chuẩn
Chương 36: Mô phỏng lịch sử và mô phỏng giả thiết
Chương 37: Mô phỏng lãi suất
Chương 38: Back Test, đạt tiêu chuẩn và stress test
Chương 39: Dữ liệu rủi ro tín dụng
Chương 40: Hệ thống xếp hạng
Chương 41: Các mô hình thống kê và tính điểm
Chương 42: Cách tiếp vận với quyền chọn với vỡ nợ và chuyển hạng
Chương 43: Xác suất vỡ nợ và cường độ vỡ nợ
Chương 44: Nguy cơ tiềm năng rủi ro tín dụng
Chương 45: Mô phỏng sự hồi phục
Chương 46: Đánh giá rủi ro tín dụng và chênh lệch tín dụng
Chương 47: Các tính phụ thuộc của sự kiện tín dụng
Chương 48: Ví dụ về phân phối thua lỗ danh mục đầu tư
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 12 - 12.2016
Trang 49
Chương 49: Phân phối thua lỗ phân tích
Chương 50: Mô phỏng phân phối thua lỗ danh mục đầu tư tín dụng
Chương 51: Mô hình danh mục đầu tư tín dụng
Chương 52: Vốn kinh tế và VaR rủi ro tín dụng
Chương 53: Phân bổ vốn và các đóng góp rủi ro
Viện Chiến lược Ngân hàng trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách này./.
Giới thiệu sách
Trở lại trang đầu