50
0 ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ---------- TÀI LIỆU BỒI DƢỠNG THƢỜNG XUYÊN CẤP TIỂU HỌC NĂM HỌC 2016-2017 Thng 10 năm 2016

PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

0

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

----------

TÀI LIỆU

BỒI DƢỠNG THƢỜNG XUYÊN CẤP TIỂU HỌC

NĂM HỌC 2016-2017

Thang 10 năm 2016

Page 2: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

1

SINH HOẠT CHUYÊN MÔN DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC

A. LỜI MỞ ĐẦU

1. Ly do biên soan tai liêu:

Nghị quyết Trung ương hai khoá VIII xác định: Giáo dục - đào tạo

là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát

triển xã hội. Phát triển giáo dục là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và

của toàn xã hội, trong đó đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là

lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng

giáo dục. Trong những năm qua, Nhà nước đã rất quan tâm xây dựng, phát

triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hoá,

bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, nâng cao chất lượng, đặc biệt

chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương

tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo, đáp ứng

đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước.

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về năng lực

sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông liên quan đến cấp học, môn học, chương

trình dạy học còn hạn chế, một số ít nhà giáo tinh thần trách nhiệm chưa cao,

ngại khó, ngại đổi mới. Đây là những nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhà giáo

gặp khó khăn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy tiên tiến, lúng túng

trong vận dụng, kết hợp các hình thức và phương pháp dạy học, các cách thức tổ

chức hoạt động học theo hướng nâng cao năng lực cho học sinh.

Vì vậy công tác bồi dưỡng đội ngũ là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay mà các nhà quản lí giáo dục

cần quan tâm thực hiện với nhiều giải pháp phù hợp.

Sinh hoạt chuyên môn là một cụm từ rất quen thuộc đối với mỗi nhà

giáo bởi lẽ đây là một việc làm thường xuyên có tính định kì được xây dựng

Page 3: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

2

thành kế hoạch. Sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường là một hình thức bồi

dưỡng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn mỗi thầy cô giáo từ đó nâng cao

chất lượng học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.

Tuy nhiên trong thời gian qua, việc sinh hoạt chuyên môn ở một số trường

hiệu quả còn thấp, nội dung sinh hoạt chuyên môn chưa phong phú, chưa thực

sự thiết thực đối với giáo viên, nhiều trường thực hiện sinh hoạt chuyên môn

còn qua loa, hình thức, chưa mang lại hiệu quả trong phát triển chuyên môn

cho giáo viên.

Nhằm nâng cao năng lực quản lí cho cán bộ quản lí trường học, năng

lực giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục cho giáo viên phổ thông,

giáo dục thường xuyên, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục đào tạo, bắt đầu từ năm học 2014-2015, Bộ GD&ĐT chủ trương đổi

mới các hoạt động sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường trong đó “Sinh

hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu bai học” là một nội dung cốt lõi.

“Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học” (hay còn gọi ngắn

gọn là sinh hoạt chuyên môn mới) là một hình thức sinh hoạt chuyên môn

nhằm nâng cao năng lực cho giáo viên thông qua dự giờ, phân tích bài học

giúp giáo viên nhận ra những vấn đề của tiết học từ đó có những điều chỉnh

phù hợp trong những tiết học sau. Cũng bao gồm 4 bước như sinh hoạt

chuyên môn truyền thống nhưng trong “Sinh hoạt chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bài học” cách thức thực hiện các bước có sự thay đổi, cải tiến

để việc sinh hoạt chuyên môn có chất lượng hơn, có tác dụng lớn hơn trong

phát triển chuyên môn cho giáo viên.

Đối với tỉnh Quảng Bình, sau nhiều năm thực hiện tại các trường

hưởng thụ Dự án Plan tại huyện Quảng Ninh, huyện Minh Hóa và hơn hai

năm triển khai thực hiện rộng rãi ở tất cả các trường tiểu học, việc sinh hoạt

chuyên môn của một số trường đã đi vào nền nếp, giáo viên đã có những

thay đổi tích cực trong cách dạy, quan tâm nhiều hơn đến việc học của học

sinh, tổ chức được nhiều hoạt động học tập giúp học sinh phát huy tính tích

Page 4: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

3

cực, chủ động và khả năng tự học của học sinh. Thông qua sinh hoạt

chuyên môn mới, những tình huống học tập cụ thể được phân tích, suy

ngẫm, nhiều phương án cải tiến được đề xuất, giáo viên rút ra được nhiều

bài học để cho bản thân để điều chỉnh dạy học phù hợp hơn. Bên cạnh

những kết quả đạt được, việc sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu

bài học vẫn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Một số cán bộ quản lí nhà trường

chưa nhận thức đầy đủ về mục đích ý nghĩa cũng như quy trình và cách

thức thực hiện sinh hoạt chuyên môn mới này. Trong quá trình thực hiện,

nhiều trường chưa thực hiện đúng các khâu bước nên chưa mang lại hiệu

quả, thậm chí còn đưa sinh hoạt chuyên môn quay về cách thức sinh hoạt

truyền thống.

Vì vậy, Sở GD&ĐT biên soạn tài liệu này làm tài liệu bồi dưỡng thường

xuyên năm học 2016-2017 nhằm giúp cán bộ quản lí, giáo viên có thêm

kiến thức, kĩ năng điều hành, tham gia sinh hoạt chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bài học, vận dụng những bài học rút ra được sau những buổi

sinh hoạt chuyên môn vào quá trình dạy học, nâng cao chất lượng dạy học

đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.

Tài liệu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Sở

Giáo dục và Đào tạo rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cơ sở,

đặc biệt là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục tiểu học.

2. Mục tiêu của tai liêu: Giúp cán bộ quản lí và giáo viên:

- Hiểu sâu về sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học,

phân biệt sinh hoạt chuyên môn truyền thống với sinh hoạt chuyên môn

dựa trên nghiên cứu bài học.

- Có kĩ năng điều hành, tham gia sinh hoạt chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bài học,

- Tích cực vận dụng những bài học rút ra được sau những buổi sinh

hoạt chuyên môn vào quá trình dạy học, nâng cao chất lượng dạy học.

Page 5: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

4

3. Câu truc nôi dung tai liêu:

Ngoài Lời mở đầu, nôi dung chinh cua tai liêu gôm 3 phân:

Phân I . Những vấn đề cơ bản về sinh hoạt chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bài học.

Phân II. Một số vấn đề về dạy học và sinh hoạt chuyên môn hiện nay

cần được khắc phục thông qua sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu

bài học.

Phần III. Vai trò của cán bộ quản lý, giáo viên trong triển khai thực

hiện sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học.

4. Hƣơng dân sƣ dụng tai liêu:

4.1. Mỗi cán bộ quản lí, giáo viên cần đọc kĩ toàn bộ nội dung tài

liệu, đánh dấu vào những nội dung quan trọng cần ghi nhớ như:

- Mục đích sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học;

- Điểm khác biệt giữa sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài

học với sinh hoạt chuyên môn truyền thống;

- Cách thức tiến hành và những lưu ý đối với từng bước thực hiện;

- Những điều cần khắc phục khi sinh hoạt chuyên môn;

- Một số kĩ năng cần thiết cho cán bộ quản lí và giáo viên;

- ...

4.2. Trao đổi với đồng nghiệp về những vấn đề còn băn khoăn,

những vấn đề chưa hiểu. Tập hợp những nội dung còn gặp khó khăn để

phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT giải đáp, hướng dẫn.

4.3. Kết hợp những kiến thức của tài liệu này với những tài liệu,

nguồn thông tin khác và kiến thức, kinh nghiệm, vốn sống của bản thân để

tự rèn luyên các kĩ năng cần thiết cho nghề nghiệp nói chung và sinh hoạt

Page 6: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

5

chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học nói riêng. Việc này không ai có

thể làm thay. Có thể tham khảo một số cách sau:

- Thường xuyên dự giờ đồng nghiệp: có thể cả tiết hoặc chỉ một số

hoạt động.

- Dùng các phương tiện để quay lại tiết học của mình để xem lại (tự

dùng máy quay phim có chân để quay hoặc nhờ đồng nghiệp quay). Qua

cách làm này, mỗi giáo viên sẽ tự nhận ra, tự khắc phục những hạn chế của

bản thân mà người khác không có điều kiện để góp ý.

- Xem các băng hình về các tiết học được Sở GD&ĐT cung cấp hoặc

các băng đĩa được chia sẻ trên Internet và thực hanh phân tích, ghi lại

những bài học rút ra được cho bản thân từ những điểm tích cực cũng như

những điểm còn hạn chế trong các tiết học đó.

4.4. Mạnh dạn ap dụng những gì bản thân học hỏi được vào bài học

trên lớp hàng ngày. Quan sát việc học của học sinh để tiếp tục có những cải

tiến giúp cho chất lượng dạy-học ngày được nâng lên.

4.5. Tham gia bồi dưỡng tập trung để được các giảng viên hướng dẫn

sâu hơn.

Page 7: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

6

PHẦN I:

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SINH HOẠT CHUYÊN MÔN

DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC

1. Sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu bai học la gì?

Thực chất Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học là

quan sát hoạt động, những biểu hiện của học sinh để biết về việc học của

các em từ đó có cách điều chỉnh, cải tiến cho phù hợp. Là nơi mọi giáo viên

đều có cơ hội học tập, phát triển chuyên môn.

Như vậy “Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học” đáp

ứng mục đích, yêu cầu cũng như phù với những điều kiện để phát triển

chuyên môn giáo viên trong giai đoạn hiện nay.

2. Mục đích sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu bai học:

Mục đích sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học hướng

tới là:

+ Đảm bảo cơ hội phát triển chuyên môn cho mọi giáo viên: Thông

qua sinh hoạt chuyên môn, từng tình huống học tập cụ thể của học sinh trên

lớp được chia sẻ, suy ngẫm, phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp tốt

nhất giúp cải tiến giờ học. Từ đó mỗi giáo viên đều học được nhiều bài học

từ đồng nghiệp, áp dụng hiểu biết mới vào thực tế dạy học của bản thân.

+ Đảm bảo cơ hội học tập cho từng em học sinh: Mỗi học sinh đến

trường đều phải đƣợc học và học đƣợc. Giáo viên phải chấp nhận mọi em

học sinh với đặc điểm riêng của từng em và có điều chỉnh dạy học phù hợp

với từng em một. Để thực hiện được điều này thực sự không dễ dàng, cần

phải có sự nỗ lực thường xuyên và lâu dài của mỗi một giáo viên. Thông

qua Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học, giáo viên học hỏi,

tích lũy các kinh nghiệm, rèn luyện các kĩ năng dạy học theo đối tượng học

sinh, đảm bảo cho mỗi học sinh đều có cơ hội học tập.

Page 8: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

7

+ Xây dựng cộng đồng học tập để đổi mới nhà trường: Từ chỗ phân

tích tiết học tập trung vào việc học của học sinh để mỗi giáo viên tự rút ra

bài học cho bản thân mình, giáo viên dạy minh họa không bị chỉ trích, các

giáo viên cởi mở, thoải mái trong chia sẻ, buổi sinh hoạt chuyên môn trở

nên nhẹ nhàng, hiệu quả hơn. Giáo viên trở nên thân thiện hơn góp phần

tạo nên động lực để giáo viên học hỏi, phát triển chuyên môn, nghiệp vụ

của mình.

3. Những khac biêt giữa sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu

bài học với sinh hoat chuyên môn truyền thống:

T

T

Những

đặc

điểm

Sinh hoat chuyên môn

truyền thống

Sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên

cứu bai học

1

Mục

đích

Mục đích sinh hoạt

chuyên môn truyền thống

là để đánh giá, xếp loại

giờ dạy, thống nhất cách

dạy cho một loại bài cụ

thể hay phương pháp đặc

trưng cho một môn học để

mọi giáo viên được áp

dụng theo cách đã được

thống nhất trong buổi sinh

hoạt chuyên môn.

Mục đích của sinh hoạt chuyên

môn dựa trên nghiên cứu bài học là

để từng bước xây dựng văn hóa nhà

trường trong đó mọi thành viên đều

tôn trọng, tin tưởng, mở rộng tâm

hồn học hỏi đồng nghiệp, giúp giáo

viên hiểu biết sâu sắc hơn về học

sinh nâng cao năng lực dạy học cho

giáo viên.

1

Chuẩn

bị bài

Thông thường tổ chuyên

môn cùng giáo viên dạy

minh họa xây dựng và

thống nhất phương án dạy

học

Giáo viên dạy minh họa chủ động

xây dựng Kế hoạch bài học, đưa ra

các ý tưởng dựa trên đặc điểm tình

hình của lớp mình, có thể tham

khảo ý kiến của đồng nghiệp và tổ

chuyên môn.

Vị trí dự giờ là ngồi Lựa chọn vị trí dễ quan sát biểu

Page 9: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

8

2

Dự

giờ,

quan

sát

tiết

học

cuối lớp

Việc quan sát tập trung

vào hoạt động dạy học của

giáo viên : dạy đúng quy

trình, các bước lên lớp

không, cung cấp đúng, đủ

kiến thức hay không, phân

bố thời gian có phù hợp hay

không, nền nếp lớp có tốt

hay không, cử chỉ, điệu bộ

của giáo viên như thế nào…

Ghi chép theo diễn biến

tiết học : giáo viên nói gì,

giáo viên làm gì...

hiện trên gương mặt để nhận ra

việc học của học sinh mà không

ảnh hưởng đến các em : phía trước

lớp hoặc xung quanh lớp học.

Việc quan sát tập trung vào việc

học của học sinh : học sinh học như

thế nào, khi nào các em học thực

sự, khi nào các em không tập trung

vào việc học, các em gặp phải khó

khăn gì, giáo viên giúp các em vượt

qua khó khăn như thế nào?

Ngoài diễn biến tiết học, người

dự ghi chép các tình huống học tập

cụ thể : thời điểm nào, em nào, học

như thế nào, vì sao...

3

Chia

sẻ,

suy

ngẫm

- Đánh giá rút kinh

nghiệm

+ Nhận xét giờ học

+ Tìm ra ưu khuyết

điểm của giờ học

+ So sánh đối chiếu bài

dạy với giáo án

+ Chỉ ra cách dạy mới

+ Thống nhất phơng

Chia sẻ, phân tích dựa trên các

tình huống học tập cụ thể :

+ Nêu tình huống, phân tích nguyên

nhân có tình huống học tập đó

+ Chia sẻ những khó khăn gặp

phải khi tiến hành bài học

+ Tìm hiểu nguyên nhân tại sao

+ Học được gì qua bài học của

đồng nghiệp

+ Từ bài dạy của đồng nghiệp

suy ngẫm về bản thân

Page 10: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

9

tiết

dạy

pháp

- Ý kiến của người dự

thường mang tính áp đặt

một chiều giáo nên không

tránh khỏi tâm lí người dạy

bị áp lực bị trì triết phê phán

dẫn đến không ai muốn dạy

minh hoạ

- Việc thống nhất cách dạy

khiến mọi giáo viên dạy

theo một qui trình mà dạy

theo một qui trình thì không

thể phù hợp với tất cả giáo

viên và các lớp học.

- Mọi giáo viên đều chia sẻ ý

kiến về những tình huống học tập

cụ thể giúp mọi giáo viên có sự

hiểu biết sâu sắc về học sinh hơn

- Tạo niềm tin và sự tôn trọng đồng

nghiệp, tăng sự hiểu biết và kinh

nghiệm dạy học để có thể cải tiến

giờ học.

4

Áp

dụng

trong

dạy

học

hằng

ngày

Giáo viên áp dụng

những ý kiến chỉ đạo của

chuyên môn nhà trường

hoặc quy trình dạy học đã

được thống nhất vào quá

trình dạy học hằng ngày

một cách cứng nhắc. Có

thể những quy trình hoặc

phương pháp đã được

thống nhất đó không phù

hợp với thực tế lớp mình

nhưng không dám thay

đổi.

Giáo viên áp dụng những bài

học mà bản thân học được qua sinh

hoạt chuyên môn một cách chủ

động nhất. Giáo viên mạnh dạn

điều chỉnh cả nội dung, hình thức,

phương pháp dạy học để phù hợp

với từng học sinh, giúp cho mọi

học sinh “được học” và “học

được”.

Page 11: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

10

4. Cac giai đoan triển khai Sinh hoat chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bai học:

Thông thường triển khai thực hiện Sinh hoạt chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bài học có 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1:

+ Mục tiêu của giai đoạn này là hình thành cách dự giờ, suy ngẫm

mới, xây dựng tình đồng nghiệp mới

+ Ở giai đoạn này, sinh hoạt chuyên môn tập trung giải quyết: Học

sinh học như thế nào? Tại sao ?. Giai đoạn này có khi kéo dài cả học kì,

thậm chí cả năm học, nhà trường tập trung giúp giáo viên biết quan sát tiết

học một cách tinh tế để nhận ra các vấn đề liên quan đến việc học của học

sinh. Ví dụ: Ở thời điểm nào, em nào (nhóm nào) đã học thực sự, em nào

(nhóm nào) chưa học thực sự. Dựa vào những biểu hiện cụ thể từ phía học

sinh mà các giáo viên quan sát được, suy ngẫm phân tích nguyên nhân vì

sao tình huống học tập đó xảy ra. Cũng trong giai đoạn này, các nhà trường

tập trung rèn luyện kĩ năng góp ý, chia sẻ cho giáo viên trên quan điểm

phân tích việc học của học sinh để từ đó giáo viên nhận ra vai trò của mình

trong tình huống học tập chứ không tập trung chỉ trích giáo viên như trước

đây. Điều này giúp xây dựng tình đồng nghiệp mới, cải tiến văn hóa giao

tiếp trong nhà trường.

Giai đoạn 2

Mục tiêu của giai đoạn này là phân tích nguyên nhân, các mối quan

hệ trong giờ học, tìm các biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các bài

học bằng cách áp dụng các phương pháp, các kĩ thuật dạy học tích cực phù

hợp với từng đối tượng học sinh.

Ở giai đoạn này sinh hoạt chuyên môn tập trung giải quyết: Học sinh

học như thế nào? Tại sao ? Làm thế nào để cải tiến thực tế đó? Có nghĩa là

nâng cao hơn nữa kĩ năng quan sát, suy ngẫm cho giáo viên đồng thời giúp

Page 12: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

11

giáo viên đưa ra các giải pháp thích hợp để cải tiến giờ học, giúp cho tất cả

giáo viên tham gia sinh hoạt chuyên môn có những hiểu biết mới hoặc có

thêm kinh nghiệm để áp dụng trong thực tế dạy học tại lớp mình.

5. Cac bƣớc triển khai Sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên

cứu bai học:

Sinh hoạt chuyên môn trải qua chu trình 4 bước như sau:

Bƣớc 1: Chuẩn bị bai minh họa

- Nguyên tắc: Khuyến khích và tôn trọng sự tự chủ, sáng tạo của giáo viên.

- Phân công người dạy: Cố gắng dựa trên tự nguyện. Nếu chọn cử

phải bảo đảm lần lượt ai cũng được dạy minh họa

- Bài dạy minh họa phải:

+ Đặt ra các mục tiêu mới so với SGV, có ý nghĩa hơn với học sinh:

Mục tiêu có ý nghĩa với học sinh là mục tiêu được đặt cho đối tượng học

sinh vừa mang tính mới, tính vừa sức, phù hợp đối tượng vừa mang tính

thách thức để tăng hứng thú của học sinh. Mục tiêu ở sách giáo viên (thiết

kế) mang tính đại trà có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với học sinh của lớp

học mà giáo viên đang giảng dạy. Mục tiêu phải cụ thể, đánh giá được và

Page 13: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

12

thông thường bắt đầu bằng các động từ (ví dụ: Nêu được...; Liệt kê được...;

Làm được...)

+ Điều chỉnh nội dung bài dạy cho phù hợp và có ý nghĩa với học

sinh: Nội dung dạy học trong sách giáo khoa là dùng chung cho toàn quốc,

không thể phù hợp cho tất cả các vùng miền và các đối tượng học sinh

trong lớp. Vì vậy giáo viên cần mạnh dạn điều chỉnh (thêm, bớt, thay thế

nội dung khác) để phù hợp với đối tượng lớp mình. Khi điều chỉnh cần

nghiên cứu nội dung bài học đảm bảo khoa học, đảm bảo tính hệ thống và

gần gũi với đời sống của học sinh.

+ Có ý định sáng tạo về tổ chức hoạt động học tập để nâng cao chất

lượng bài học: Nhiều giáo viên chọn giải pháp an toàn là thực hiện các hoạt

động dạy học theo sách giáo viên. Tuy nhiên nếu làm như vậy buổi sinh hoạt

chuyên môn sẽ có ít bài học được trao đổi hơn khi giáo viên mạnh dạn đưa ra

những cách làm mới.

- Có thể tổ bộ môn cùng chọn bài và cùng trao đổi phương án lên

lớp: Với sinh hoạt chuyên môn truyền thống, tổ chuyên môn có thể sẽ áp

đặt bài dạy cũng như bài dạy cho giáo viên minh họa. Điều đó sẽ làm mất

đi tính chủ động, sáng tạo của giáo viên. Do đó trong sinh hoạt chuyên môn

dựa trên nghiên cứu bài học, giáo viên dạy minh họa chủ động chọn bài và

chuẩn bị các phương án dạy học theo ý mình, có thể tham khảo ý kiến của

đồng nghiệp hoặc không.

- Soạn bài: Có thể tự soạn bài hoặc cùng GV khác.

- Tuyêt đối không day trƣớc bai học đó cho học sinh.

Bƣớc 2: Tiến hanh day va dự giờ:

* Vị trí khi dự giờ:

- Bố trí lớp dạy minh họa có chỗ ngồi hoặc đứng quan sát đủ rộng

Page 14: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

13

- Điều chỉnh số lượng người vừa mức không quá đông để GV quan

sát được và HS không bị ảnh hưởng

- Vị trí người dự giờ: bảo đảm có thông tin chính xác về việc học của

học sinh

* Quan sat khi dự giờ:

- Quan sát khi dự giờ cần tập trung vao viêc học của học sinh. Nói

như vậy không phải là chúng ta không quan sát giáo viên mà chúng ta vừa

quan sát hoạt động tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ, giảng giải của giáo viên vừa

tập trung quan sát việc học của học sinh. Điều này không dễ. Vì vậy giáo

viên cần có sự học hỏi, rèn luyện nhiều thông qua sinh hoạt chuyên môn và

thường xuyên dự giờ đồng nghiệp.

- Cach thức quan sat khi dự giờ:

• Kết hợp nhìn bao quát lớp và chọn tìm học sinh điển hình nhất để

tập trung chú ý, thu thập thông tin

• Lắng nghe câu trả lời, các ý kiến của HS

Bảng

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Vị trí q

uan

sát c

ủa g

iáo

viê

n

(Vị trí này viêc quan sát bị han chế)

Vị trí q

uan

sát c

ủa G

V

Vị trí quan sát của

GV

Vị trí quan sát của

GV

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Page 15: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

14

• Tìm hiểu, xem kết quả bài làm của học sinh

- Quan sát HS:

+ Thái độ, hành vi: yêu thích, hứng thú hay mệt mỏi, uể oải..

+ Lời nói, cử chỉ và điệu bộ: Đó là lời nói cử chỉ điệu bộ học sinh khi

giao tiếp, thảo luận với bạn, khi trả lời thầy cô giáo, khi trình bày bài trước

lớp...Qua quan sát lời nói, cử chỉ và điệu bộ, của học sinh, giáo viên sẽ

nhận ra học sinh nắm bài như thế nào, có tự tin không hoặc gặp khó khăn gì

trong học tập.

+ Sự quan tâm đối với bài học: Nếu quan tâm đến bài học, học sinh

sẽ học tập tốt hơn, hiệu quả hơn. Sự quan tâm đến bài biểu hiện ở chỗ học

sinh có sự chú ý, tập trung cao, tham gia hoạt động học tự giác, tích cực.

Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự quan tâm của học sinh đối với bài học: Nội

dung bài học (nội dung quá dễ, quá khó, đã học rồi hoặc xa rời cuộc sống

của các em làm cho các em ít quan tâm), đồ dùng học tập, cách thức tổ

chức của giáo viên...

+ Mối quan hệ giữa HS, hoạt động và sản phẩm của HS: Học sinh

tương tác với nhau, tương tác với đồ dùng, kết quả học tập như thế nào...

- Chú y đến thay đổi của HS:

+ Trước hành vi của GV: VD: Học sinh học tích cực hơn khi được

giáo viên hỗ trợ hay vẫn khó khăn. Khi nghe cô hỏi, học sinh nhanh chóng

phát biểu hay không có phản xạ gì...

+ Trước hành vi, kết quả của bạn: Tiếp nhận sự giúp đỡ của bạn, chủ

động nhờ bạn giúp, cách thức giúp đỡ, hỗ trợ nhau có phù hợp không (nhiều

Xảy ra ở số đông hay số ít học sinh ?

Nguyên nhân?

Page 16: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

15

giáo viên không quán xuyến hết sẽ dẫn đến một số em sửa cho bạn đúng thành

sai, gnhi ngờ kết quả của bạn mà không dám trao đổi với cô giáo...)

+ Khi thay đổi hoạt động học tập: Vui vẻ, hứng thú, đáp ứng được

hay bị gò ép, lúng túng, khó thực hiện...

Với những quan sát như vậy, người dự giờ sẽ có những suy ngẫm sâu

sắc về bài học, tìm ra nguyên nhân và cách làm để cải tiến giờ học, làm

cho các tình huống học tập của học sinh trở nên có ý nghĩa hơn đối với các

em. Từ đó trong chia sẻ về tiết dạy sẽ đưa ra những ý kiến góp ý có chất

lượng hơn cho đồng nghiệp.

* Ghi chép khi dự giờ:

Giáo viên lựa chọn cách ghi chép phù hợp và dễ hiểu nhất với bản thân.

Sau đây là mẫu ghi chép được cho là ưu điểm:

PHIẾU DỰ GIỜ

SƠ ĐỒ LỚP HỌC

Họ và tên người dạy:……………………………………………………

Ngày dạy:…………………………….Môn:…………………Lớp: … ……

Tên bài dạy:……………………………………………

Thời

gian

Diễn biến Em nào (nhóm

nào) như thế

nào?

Suy ngẫm Giải pháp

Ý kiến chia sẻ cho người dạy:

:……………………………………………………………………………….………...........................................................................

………………………………………………………………….…….…………………………………………………………………

Một số bài học cho bản thân:……………………………………………..…................................................

……………………………………………………………………………………………..……………………………………………

…………....................................................................................................................................................................................................

Page 17: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

16

GỢI Ý CÁCH GHI PHIẾU DỰ GIỜ

Phiếu dự giờ dùng cho giáo viên ghi chép khi dự giờ đồng nghiệp

nhằm lưu lại thực tế dạy học trện lớp. Từ đó giúp cho bản thân giáo viên có

những suy ngẫm, chia sẻ, rút kinh nghiệm trong những buổi sinh hoạt

chuyên môn và trong thực tiễn dạy học. Đây là công cụ góp phần đổi mới

sinh hoạt chuyên môn hiệu quả nhằm phát triển năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ cho giáo viên. Dựa trên gợi ý sau đây, mỗi giáo viên lựa chọn

cách ghi sao cho phù hợp, ngắn gọn và dễ hiểu nhất đối với bản thân mình.

1. Sơ đồ học sinh: Dùng kí hiệu, hình vẽ, chữ số…để ghi lại sơ đồ

lớp học, đánh số vị trí từng học sinh (từng nhóm). Điều này giúp giáo viên

dự giờ có thể nhớ và nêu được cụ thể em nào, nhóm nào, học như thế nào

khi chia sẻ cùng đồng nghiệp.

2. Thời gian: Ghi thời gian bắt đầu tiết học, ghi thời điểm xảy ra các

tình huống học tập mà giáo viên quan sát được (khoảng phút thứ mấy của

tiết học), cũng có thể ghi thời gian diễn ra mỗi hoạt động học trong tiết học

đó (khoảng mấy phút).

3. Diễn biến: Ghi lại diễn biến tiết học bao gồm: hoạt động học của

học sinh, hoạt động của giáo viên, các câu hỏi, câu trả lời hoặc nội dung bài

học theo trình tự thời gian.

4. Ghi chép tình huống quan sát được từ thực tế việc học của học

sinh (cả tình huống tích cực và tình huống chưa tích cực).

Quan sát thái độ, hành vi, lời nói, sự quan tâm đến bài học và kết quả

bài làm của các em. Suy nghĩ xem học sinh đang suy nghĩ gì, cảm thấy gì,

gặp khó khăn gì.

Chú ý sự thay đổi của học sinh khi nhận được sự hỗ trợ, tác động của

giáo viên của bạn bè và khi thay đổi hoạt động học tập.

Chú ý xem tình huống đó xảy ra với cả lớp hay nhóm học sinh hay

từng em học sinh.

5. Suy ngẫm: Ghi lại những suy nghĩ của bản thân về tình huống học

tập đó. Phán đoán lí do tại sao thực tế đó lại xảy ra.

Page 18: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

17

6. Giáp pháp: Ghi những giải pháp để phát triển những tình huống học

tập tốt và khắc phục những tình huống chưa thành công trong tiết học theo suy

nghĩ của bản thân. giải pháp càng cụ thể và sát với thực tế việc học của học sinh

càng tốt.

7. Ý kiến chia sẻ cho người dạy: Dựa trên thực tế việc học của học

sinh đã diễn ra trong tiết học, giáo viên đưa ra những ý kiến sẽ góp ý chia

sẻ cho đồng nghiệp về một số hoặc tất cả các vấn đề sau:

- Về kết cấu và tiến trình bài học

- Về việc học của học sinh (thành công, khó khăn)

- Các mối quan hệ và ứng xử của giáo viên

- Tính cô đọng và ý nghĩa thiết thực của nội dung bài học

- Hiệu quả đạt được so với mục tiêu bài học

- Việc phân bố, sử dụng thời gian cho các hoạt động học.

- Việc sử dụng đồ dùng dạy học…

8. Một số bài học cho bản thân: Ghi lại những bài học kinh nghiệm,

những hiểu biết mới có thể áp dụng vào quá trình dạy học của bản thân sau

khi dự giờ và trao đổi, chia sẻ với đồng nghiệp.

Bƣớc 3. Suy ngẫm, chia sẻ về tiết day.

Trình tự thực hiên buổi chia sẻ:

1) Người dạy minh hoạ mục tiêu và ý định thực hiện bài học:

Trước hết chủ trì cần cảm ơn người dạy minh họa đã thể hiện tiết học

để đồng nghiệp có cơ hội chia sẻ, học tập. Đây là việc làm cần thiết để

giảm áp lực cho người dạy minh họa và cũng tạo không khí thoải mái, cởi

mở trước khi vào buổi chia sẻ.

Tiếp theo, chủ trì mời người dạy giải thích các mục tiêu mà người

dạy muốn thực hiện thông qua bài học này, để người dạy giải thích lý do tại

sao lại dạy theo cách đó, những ý định chủ đề và nhận thức các vấn đề về

bài học, v.v.

Sau đó, để người dạy minh hoạ tự nói về cảm nghĩ của mình sau giờ

dạy minh hoạ: Về những điểm đã tiến hành thành công, những điểm còn

Page 19: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

18

cảm thấy khó khăn, băn khoăn, cảm nghĩ về điểm nổi bật của bài học: chỉ

ra một vài tình huống học tập của học sinh và nêu cảm nghĩ của mình.

Người dạy minh hoạ cũng có thể gợi nhớ lại các tình huống trong

giờ học và những phản ứng của học sinh khiến cho giáo viên đó phải ngạc

nhiên. Hoặc cảm thấy khó có thể đáp ứng được yêu cầu của học sinh.

2) Chủ trì điều hành phần đóng góp ý kiến của người dự:

Tùy vào mục tiêu của buổi sinh hoạt chuyên môn (là sinh hoạt theo

chuyên đề hay sinh hoạt định kì), chủ trì có thể gợi ý trước vấn đề trọng

tâm cần trao đổi hoặc để giáo viên tham dự trao đổi tất cả những nội dung

xung quanh tiết học.

Sau đó người chủ trì điều hành các giáo viên dựa trên thực tế việc

học của học sinh đã diễn ra trong tiết học để đưa ra những ý kiến sẽ góp ý

chia sẻ cho đồng nghiệp về một số hoặc tất cả các vấn đề sau:

+ Kết cấu và tiến trình bài học;

+ Việc học của học sinh (thành công, khó khăn);

+ Các mối quan hệ và ứng xử của giáo viên;

+ Ý nghĩa thiết thực của nội dung bài học;

+ Tính phù hợp, vừa sức của các nhiệm vụ học tập;

+ Hiệu quả đạt được so với mục tiêu bài học;

+ Việc phân bố, sử dụng thời gian cho các hoạt động học;

+ Sử dụng đồ dùng dạy học…

Một số lƣu y:

1)Các vấn đề người chủ trì cần quan tâm:

+ Trực tiếp giúp đỡ hoặc phân công GV giúp đỡ người dạy minh họa

+ Nhắc nhở GV cách ngồi dự và cách quan sát.

+ Sử dụng máy quay, ghi lại hình ảnh để giáo viên có thể quan sát lại

khi phân tích tình huống học tập.

+ Đảm bảo để giáo viên suy ngẫm về bài dạy

Page 20: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

19

+ Đảm bảo việc lắng nghe của mọi người trong thảo luận

+ Không để xảy ra tình trạng GV dạy minh họa trở thành mục tiêu bị

phê bình, chỉ trích

+ Gọi tất cả GV để ai cũng phải có ý kiến

+ Không nhất thiết phải tổng kết lại cuối mỗi buổi thảo luận

2) Yêu cầu đối với người tham gia:

+ Ý kiến cần thể hiện sự đánh giá cao về tiết dạy của đồng nghiệp.

Các bài dạy minh hoạ không chỉ tạo cơ hội cho người dạy nâng cao

năng lực mà còn tạo cơ hội cho những người dự học tập giáo viên dạy. Ta

có thể học tập được ở từ người dạy phản ứng thế nào đối với hành vi của

học sinh. Đồng thời chúng ta sẽ học tập được thái độ, ý định và nhận thức

của người dạy minh hoạ đối với các vấn đề của học sinh. Như một phép

lịch sự, tất cả mọi người cùng góp ý kiến về những điều mình học được từ

người dạy minh hoạ. Nếu ta không phát biểu ý kiến gì thì điều đó có nghĩa

là ta chẳng học được gì từ người dạy và như thế thì quá khiếm nhã.

+ Suy ngẫm về những gì diễn ra trong giờ lên lớp.

Ta cần phải tái tạo lại các tình huống các em học sinh được học và

các tình huống học sinh không được học trong tiết dạy. Ta không nên thảo

luận giáo viên lên lớp như thế nào, mà nên nhặt ra những chi tiết xảy ra đến

với học sinh. Ta cần xuất phát từ mối quan tâm của ta đối với học sinh, ví

dụ: “Chúng ta muốn biết nhiều hơn về học sinh!” Những gì diễn ra đối với

các học sinh ở gần ta chính là những thay đổi về sự hiểu biết và cảm xúc

của học sinh như ngạc nhiên, vui, buồn, chán ngán, vv chúng ta hãy trao

đổi xem tại sao những biến đổi này cảm xúc này lại diễn ra như vậy.

+ Trao đổi với người dạy về những ý định và mục tiêu của người đó

chứ không đưa ra những cách dạy khác.

Buổi sinh hoạt chuyên môn không phải để ta trao đổi các quan điểm

của những người dự như giáo viên dạy minh hoạ cần phải dạy như thế nào,

hoặc phải dạy những gì. Chúng ta cần trao đổi theo các ý định và mục tiêu

do người dạy đề ra. Cuộc trao đổi cần xuất phát từ sự quan tâm chú ý của ta

đối với giáo viên dạy minh hoạ, chẳng hạn như: “Tôi muốn biết rõ hơn ý

Page 21: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

20

định của giáo viên”. Trước hết, chúng ta hãy trao đổi về những gì ta học

được từ giáo viên dạy minh hoạ, sau đó thảo luận xem các ý định và mục

tiêu đó liên hệ như thế nào với những gì đã diễn ra đối với học sinh là kết

quả của sự đáp ứng của giáo viên dạy minh hoạ đối với học sinh. Chúng ta

cần trao đổi về những gì mà giáo viên dạy minh hoạ muốn biết.

3) Để không tạo áp lực cho giáo viên, trong sinh hoạt chuyên môn

không đánh giá, xếp loại giờ dạy.

Việc đánh giá, xếp loại giáo viên các nhà trường có thể tiến hành

theo dõi, dự giờ, kiểm tra kết quả dạy học thông qua chất lượng học sinh và

tiến hành trong cả năm học theo nhiều hình thức khác nhau. Còn sinh hoạt

chuyên môn là nơi để giáo viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Nếu đem tiết

dạy ra để xếp loại, chắc rằng giáo viên sẽ rất áp lực, không dám đổi mới,

không dám sáng tạo, chỉ dạy theo sách giáo khoa, sách giáo viên cho an

toàn. Vì vậy chúng ta sẽ không học được nhiều qua sinh hoạt chuyên môn.

Bƣớc 4. Áp dụng vao thực tế day học hang ngay

- Có thể thiết kế lại bài học đó tại lớp mình

- Áp dụng những gì giáo viên học được vào các giờ dạy hàng ngày của mình

- Chuẩn bị bài học tiếp theo, nhen nhóm những ý tưởng mới cho

những hoạt động học trong tiết học sau.

Đây là bước cuối cùng của chu trình nhưng cũng là những chuẩn bị,

trải nghiệm để bắt đầu bước 1 của chu trình tiếp theo tạo nên vòng tròn

khép kín, liên tục. Nếu thực hiện tốt, sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên

cứu bài học giúp năng lực giáo viên phát triển nhanh chóng về mọi mặt.

Đây là giải pháp tối ưu mà các nhà trường cần thực hiện nghiêm túc để

nâng cao chất lượng đội ngũ.

Page 22: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

21

PHẦN II.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DẠY HỌC VÀ SINH HOẠT CHUYÊN MÔN

HIỆN NAY CẦN ĐƢỢC KHẮC PHỤC THÔNG QUA SINH HOẠT

CHUYÊN MÔN DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC:

1. Trong day học:

1.1. Môi trường học tập không thân thiện:

Quan hệ giữa Học sinh với Giáo viên, Học sinh với Học sinh:

- Chưa tin cậy và thoải mái

- Thiếu sự quan tâm lắng nghe lẫn nhau

- Chưa thể hiện chấp nhận lẫn nhau: thừa nhận thực tại, lắng

nghe lẫn nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau.

1.2. Học sinh không hứng thú học

- Bài học không phù hợp

- Việc học của học sinh khác với ý định của giáo viên

- Các hoạt động học tập diễn ra hình thức

1.3. Chất lượng việc học chưa cao: Học nhiều-Hiểu ít

- Học nhiều: Học sinh tham gia nhiều hoạt động trong giờ học với

thời gian và lượng kiến thức nhiều nhưng không kịp hiểu bài

- Hiểu ít: Thiếu độ sâu và chiều rộng hiểu biết, thiếu các năng lực

mới

1.4. Giáo viên chưa nhận ra vấn đề của học sinh

- Giáo viên không biết hoặc chưa nhận ra được vấn đề liên quan đến

việc học của học sinh

- Chưa có ý thức và thói quen quan tâm chú ý riêng tới từng đối

tượng học sinh

Page 23: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

22

- Giáo viên chưa có thói quen chấp nhận sự khác biệt của từng em

học sinh

- Giáo viên thiếu năng lực quan sát, lắng nghe, cảm nhận, phản ứng

tinh tế và nhạy cảm trước việc học của riêng từng cá nhân học sinh

1.5. Giáo viên chưa chấp nhận thực tế bản thân và đồng nghiệp:

- Giáo viên không hoặc chưa có khả năng tự giám sát, theo dõi và điều

chỉnh bản thân do đặc tính môi trường làm việc có tính đơn lẻ giữa các lớp

học khác nhau.

- Nhiều giáo viên chưa hiểu đúng về năng lực bản thân và chưa chấp

nhận bản thân và đồng nghiệp.

1.6. Giáo viên thực hiện các bài học với tốc độ nhanh và qua loa.

Có lẽ một trong các lý do là các câu hỏi giáo viên đặt ra cho học sinh

có bản chất đơn giản, không nằm ngoài mức độ kể lại, thuật lại. Giáo viên

hiếm khi hỏi học sinh về ý kiến của các em hay lý do của các câu trả lời

(kiến thức bài học không được đào sâu). Trong nhiều trường hợp, giáo viên

và học sinh đánh giá câu trả lời của các bạn khác là đúng hay sai. Thiếu sự

suy ngẫm sâu sắc vể câu trả lời của học sinh trong bài học dẫn đến học sinh

không hiểu cặn kẽ về bài học. Khi gọi học sinh phát biểu thường chọn các

em học sinh khá, giỏi, những người có thể trả lời rất nhanh và đúng. Như

vậy, những học sinh còn lại sẽ không theo kịp tiến độ bài học và thường bị

giáo viên bỏ rơi hoặc ít được quan tâm đến.

2. Trong sinh hoat chuyên môn:

2.1. Thái độ đánh giá trong sinh hoạt chuyên môn.

Về thái độ đánh giá của giáo viên đối với học sinh: trong khi thảo

luận sau bài học, giáo viên thường đề cập đến việc học sinh không thể tập

trung vào bài học hơn là miêu tả lại bối cảnh học tập của học sinh. Mục

đích của viêc tổ chức sinh hoat chuyên môn la thúc đẩy sự chia sẻ va

Page 24: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

23

nghiên cứu về bối cảnh học tập một cach chi tiết. Bằng cách làm như

vậy, thái độ của giáo viên đối với học sinh sẽ trở nên yêu thương và tích

cực hơn. Nhưng thực tế, giáo viên thường chỉ trích những học sinh mà

mình đã quan sát thấy và chỉ đưa ra những ấn tượng tiêu cực.

Về thái độ đánh giá của giáo viên đối với các đồng nghiệp: người dự

giờ vẫn có xu hướng đánh giá giáo viên dạy minh hoạ hơn là có thái độ học

tập từ bài học đã được dự. Một số người dự đưa ra những nhận xét như “cô

giáo đã đạt được mục tiêu của bài học” hoặc “Tôi không nghĩ rằng cô giáo

đã đạt được mục tiêu của bài học”. Hơn nữa, người dự cũng thường xuyên

kết thúc ý kiến phát biểu của mình bằng việc chỉ ra những thiếu sót của bài

học đã được dự. Thái độ đánh giá đồng nghiệp như vậy làm cho tình đồng

nghiệp không phát triển, dễ gây chia rẽ trong nhà trường. Hơn nữa, sự thiếu

tin tưởng này cũng dẫn đến thái độ tự vệ mạnh mẽ giữa các giáo viên,

những người không sẵn sàng thừa nhận những điểm yếu, thất bại hay sai

lầm. Việc xây dựng tình đồng nghiệp giữa các giáo viên thông qua việc suy

ngẫm về bài học và việc học của học sinh trong sinh hoạt chuyên môn là rất

hữu ích và cần thiết để giáo viên học hỏi từ những khó khăn và vấn đề

được nhận thấy trong các bài học khác. Việc giáo viên chấp nhận và tôn

trọng lẫn nhau dựa trên việc tự nhận thức về những thiếu sót khi tiến hành

bài học cũng là điều quan trọng.

2.2. Sự tự chủ của giáo viên.

Giáo viên thiếu sự tự chủ: về việc tự chủ, có hai vấn đề liên quan đến

chương trình và quy trình đánh giá. Nói chung, chương trình giáo dục của

ta vẫn còn rất nặng. Giáo viên coi trọng thực hiện chương trình do cấp trên

quy định hơn là chương trình do họ xây dựng nên và chịu rất nhiều áp lực

để thực hiện tất cả các nội dung dạy học. Hơn nữa, giáo viên có xu hướng

gặp khó khăn trong việc sử dụng chương trình một cách linh hoạt và hiếm

khi tổ chức lại chương trình trong các bài học. Đối với một số các chủ đề

nhất định, việc thay đổi nội dung dạy học cho phù hợp thực tế lại bị phản

Page 25: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

24

đối. Giáo viên cũng ngại làm việc này và chỉ bám sát sách giáo khoa do lo

sợ bị đồng nghiệp và các cán bộ quản lý chỉ trích. Ngoài ra, các tiêu chí

đánh giá giáo viên do cấp quản lý ban hành thường tập trung vào hành vi

của giáo viên đứng lớp như chữ viết hay giọng nói của giáo viên mà ít tập

trung vào mối quan hệ giữa giáo viên-học sinh hay giữa các học sinh với

nhau. Những tiêu chí đánh giá hiện tại là lấy giáo viên làm trung tâm. Hệ

quả là, giáo viên phải cạnh tranh với nhau theo các tiêu chí này để được

bình chọn là “giáo viên giỏi” các cấp. Vì sự tồn tại của cách đánh giá này,

có một sự mâu thuẫn lớn giữa nền tảng lý tưởng giáo dục lấy học sinh làm

trung tâm và hệ thống đánh giá hiện tại.

2.3. Sự học hỏi của giáo viên.

Học hỏi là việc không thể thiếu đối với sự phát triển chuyên môn của

giáo viên. Giáo viên thiếu cơ hội để nâng cao kiến thức học thuật của họ.

Trình độ của giáo viên tiểu học còn thấp khi nhiều người chỉ được đào tạo

thiếu bài bản. Hơn nữa, cơ hội học tập giúp giáo viên mở rộng kiến thức còn

rất hạn chế. Nhằm nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên, chúng ta đã

tiến hành một loạt các khoá tập huấn nhưng có hai vấn đề của hình thức bồi

dưỡng này liên quan đến số lượng người tham dự và tính liên quan của

chương trình bồi dưỡng. Hoạt động sinh hoạt chuyên môn được coi là nơi để

nâng cao nền tảng thực hành, trên thực tế lại là nơi đánh giá đồng nghiệp,

khiến cho việc xây dựng mối quan hệ chia sẻ giữa các giáo viên trở nên rất

khó khăn. Thiếu sự học tập của tập thể dẫn đến sự suy giảm động cơ học tập

của mỗi cá nhân giáo viên. Hơn nữa, giáo viên cảm thấy rất ngần ngại trong

việc tiến hành sinh hoạt chuyên môn theo hướng thực hành (chia sẻ bằng

chứng liên quan đến việc học của học sinh trong khi suy ngẫm về bài học).

Thông thường, họ thích các bài thuyết giảng, các kết luận rõ ràng và chỉ dẫn

từ những cán bộ quản lý các cấp. Việc tổ chức tập huấn theo cách mà giáo

viên ưa thích có thể khiến họ tin là mình đã học được điều gì đó. Tuy nhiên,

có một khoảng cách giữa những điều giáo viên đã học và những gì họ thực

Page 26: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

25

hiện trong bài học trên thực tế. Đối với họ, việc suy ngẫm về các bài học

thực tế và quyết định cách thức vượt qua những hạn chế dường như là việc

làm lâu dài và dễ gây buồn chán. Tuy nhiên, chỉ có trải qua quá trình lâu dài

này và có vẻ tẻ nhạt này, giáo viên mới có thể thay đổi cách dạy học và văn

hoá của họ.

2.4. Sự đối thoại giữa các thành viên.

Điều này thể hiện rõ ở các giáo viên khi tiến hành sinh hoạt chuyên

môn: (1) thiếu sự chú ý của người nghe dành cho người đang phát biểu; (2)

xu hướng người phát biểu chỉ hướng vào nói với chủ trì (3) sự ngần ngại

của một số giáo viên trong việc đưa ra ý kiến nhận xét của mình. Vì những

yếu tố trên, ở giai đoạn đầu của sinh hoạt chuyên môn, việc tạo ra một cuộc

đối thoại cởi mở hay mối quan hệ đối thoại giữa cách giáo viên tại các

trường là việc làm rất khó khăn. Lý do ở đây có lẽ là giáo viên không ý

thức được việc làm thế nào để trao đổi ý kiến một cách dân chủ và đối thoại

với đồng nghiệp bởi vì họ không được nhận bất cứ tập huấn nào về vấn đề

này từ những ngày họ còn ngồi trên ghế nhà trường. Hơn nữa, thậm chí

giữa các đồng nghiệp với nhau, chỉ một số ít người như ban giám hiệu hay

giáo viên có trình độ khá giỏi đưa ra ý kiến hay phổ biến chính sách; những

người khác dường như chỉ biết nghe theo và họ cũng không bị kiểm tra khi

họ ít chú ý tới các lời phát biểu. Một nguyên nhân nữa có thể là việc sợ làm

mất lòng đồng nghiệp. Ở trường học có hai nhóm giáo viên: các giáo viên

dẫn đầu và giáo viên thông thường. Trong khi các giáo viên khá giỏi lấn át

trong việc đưa ra ý kiến, các giáo viên khác chỉ im lặng. Họ sẽ không bị chỉ

trích và cảm thấy an toàn hơn một khi họ không có ý kiến gì. Trong tình

huống như vậy, họ không thể có được những cuộc đối thoại cởi mở, hiệu

quả cũng như không thể tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau.

Những vấn đề trên được quan sát thấy ở giai đoạn đầu của việc đổi

mới nhà trường. Chúng đang được các trường điểm giải quyết mặc dù tốc

độ cải cách ở mỗi trường có khác nhau. Vì vậy, không nên coi đây là những

Page 27: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

26

vấn đề vĩnh viễn tồn tại. Cần phân tích những thay đổi do động cơ bên

trong mà các trường đạt được thông qua quá trình này. Hơn nữa, cũng cần

phải tiến hành một phân tích trên khía cạnh lịch sử về những vấn đề nêu

trên. Nghiên cứu này được dựa trên những hiện tượng đương thời được

quan sát thấy khi tiến hành một nghiên cứu trường hợp về dự án. Tuy

nhiên, những vấn đề trên có gốc rễ lịch sử sâu sắc.

Vì vậy, cần phải xem xét các nguyên nhân sự tồn tại của những hiện

tượng trên để có thể có được các giải pháp triệt để. Đối với các trường mới

triển khai đổi mới sinh hoạt chuyên môn bước đầu cán bộ quản lý và giáo

viên các trường đã hiểu về ý nghĩa của mô hình nhưng các năng lực của cán

bộ quản lý và giáo viên còn nhiều hạn chế biểu hiện: Khi dự giờ người dự

chưa tập trung vào việc quan sát học sinh, ít tư duy trong quá trình dự giờ

xem tại sao lúc đó học sinh lại có biểu hiện như vậy, chưa nhận thấy sự

tương tác giữa giáo viên và học sinh, học sinh với học sinh và sự tương tác

của học sinh với nội dung bài học... người dự vẫn ghi chép nhiều, vẫn ghi

tiến trình giờ học ảnh hưởng tới việc quan sát học sinh. Việc kết hợp giữa

nghe, nhìn, tư duy và ghi chép khi dự giờ còn hạn chế. Người điều hành

chưa làm rõ thông tin của người chia sẻ chủ yếu là gọi từng người tham gia

phát biểu ý kiến. Văn hoá lắng nghe vẫn có những giáo viên nói chuyện

riêng khi chia sẻ. Vẫn ngại phát biểu vẫn để người điều hành phải gọi mới

phát biểu, chưa mạnh dạn hỏi trao đổi với đồng nghiệp những băn khoăn

thắc mắc và những khó khăn của bản thân khi giảng dạy. Người dự giờ vẫn

có xu hướng đánh giá giáo viên dạy minh hoạ hơn là có thái độ học tập từ

bài học đã được dự. Chưa phân tích sâu nguyên nhân thực tế diễn ra trên cơ

sở hoạt động học của học sinh mà thường đổ lỗi cho học sinh và những

nguyên nhân khách quan...

Page 28: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

27

PHẦN III.

VAI TRÕ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÍ, GIÁO VIÊN

TRONG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN SINH HOẠT CHUYÊN MÔN

DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC

1. Đối với can bộ quản lí nha trƣờng:

1.1. Nâng cao nhận thức:

Người quản lí nhà trường cần nhận thức đầy đủ rằng: chỉ có thể thay

đổi nhà trường bằng nội lực của chính mình, không trông chờ từ bên ngoài

hay đỗ lỗi cho khó khăn. Để trường tiểu học có những bước đi chắc chắn,

người cán bộ quản lý cần có tầm nhìn về quy trình cải cách nhà trường đó

là: Giáo viên thay đổi -> Giờ học thay đổi -> Học sinh thay đổi -> Nhà

trường thay đổi.

- Nhà trường thay đổi: Để nhà trường thay đổi và phát triển, cán bộ quản

lí nhà trường cần xây dựng một tập thể cùng học tập. Làm phong phú hoạt động

lắng nghe lẫn nhau, học lẫn nhau, cùng nhau học tập và cùng nhau trưởng

thành. Chỉ đạo giáo viên xây dựng giờ học sát hơn với việc học của học sinh.

Giáo viên cũng học tập qua dáng vẻ của học sinh trong giờ học, có con mắt

nhìn xuyên thấu bản chất của tài liệu.

- Giáo viên thay đổi: Muốn giáo viên thay đổi cách duy nhất là xây

dựng tình đồng nghiệp giữa các thành viên trong nhà trường thiết lập tình

đoàn kết giữa các giáo viên trong trường, để mọi người luôn tôn trọng tin

tưởng và mở rộng tâm hồn học hỏi đồng nghiệp từ đó giúp mỗi giáo viên

phát triển năng lực chuyên môn của mình.

Nhằm xây dựng tình đồng nghiệp và nâng cao năng lực chuyên môn,

vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học khi giáo viên tiến hành bài dạy,

các nhà trường cần tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn trong tuần. Giáo

viên trong tổ, khối thay phiên nhau tiến hành các tiết dạy để cho các giáo viên

khác dự giờ. Bằng cách phân tích sâu thực tế giảng dạy của đồng nghiệp

thông qua giao tiếp với những người khác giáo viên có thể nhìn nhận một

cách khách quan hơn về việc học cũng như phát triển các năng lực của học

sinh thông qua bối cảnh học tập cụ thể. Cũng có thể thông qua thực tế giảng

Page 29: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

28

dạy của đồng nghiệp giáo viên nhận thấy được thực tế giảng dạy của chính

mình. Tất cả mọi người dự giờ đều được quan sát và được đưa ra nhận xét về

giờ dạy của đồng nghiệp, nếu không mỗi cá nhân sẽ không bao giờ cải thiện

được bài dạy của chính mình.

1.2. Xây dựng kế hoach tổ chức sinh hoat chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bai học tai trƣờng:

Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học muốn thành công

cần thời gian dài bởi muốn thay đổi một thói quen đã ăn sâu trong cách

nghĩ, cách làm của giáo viên cần thay đổi dần từ cách chọn vị trí dự giờ,

cách thức quan sát, suy ngẫm về bài học, cách phát biểu góp ý đồng nghiệp,

cách quay phim, chụp ảnh hay chủ trì sinh hoạt chuyên môn…Nhiều người

nghĩ rằng đây là những việc làm hết sức quen thuộc của người giáo viên

không có gì là khó. Tuy nhiên khi đi vào chiều sâu thực sự không dễ.

Chẳng hạn, để thay đổi trọng tâm quan sát từ giáo viên sang học sinh, để

nhận ra học sinh học thế nào, các em đang nghĩ gì, đang gặp khó khăn gì,

vì sao các em lại có kết quả làm bài như vậy…giáo viên mất rất nhiều thời

gian, dự giờ nhiều, học hỏi nhiều từ những phân tích suy ngẫm của đồng

nghiệp mới thực hiện được. Vì vậy việc chỉ đạo lập kế hoạch sinh hoạt

chuyên môn trong các nhà trường hết sức quan trọng. Kế hoạch càng rõ

ràng, cụ thể bao nhiêu thì quá trình thực hiện thuận lợi bấy nhiêu. Chẳng

hạn:

* Xây dựng lộ trình (3 năm): Để thực hiện thành công Sinh hoạt chuyên

môn dựa trên nghiên cứu bài học, tạo nên sự thay đổi về chất lượng cũng

như văn hóa nhà trường đòi hỏi một thời gian dài, cần có lộ trình cụ thể. Vì

vậy hiệu trưởng nhà trường cần tổ chức xây dựng lộ trình ít nhất trong 3

năm. Việc đạt mục tiêu về hiểu biết, kĩ năng, thái độ cụ thể, đồng tâm và

mức độ tăng dần. Có thể minh họa một kế hoạch 3 năm như sau:

A. Năm thứ nhất:

I. Mục tiêu cần đạt:

1. Hiểu biết:

- Cán bộ quản lý và giáo viên hiểu mục đích ý nghĩa của SHCM

(Giải pháp hữu hiệu để đổi mới nhà trường) cùng nhau quyết tâm thực hiện

mô hình.

Page 30: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

29

- Giúp giáo viên nhận thấy thực tế về việc học tập của học sinh.

2. Kỹ năng:

- Biết hợp tác làm việc cùng nhau.

- Biết quan sát thu nhận thông tin nhận ra thực tế việc học của học sinh

trong các giờ học.

- Lắng nghe và tự giác trao đổi ý kiến trong khi chia sẻ.

- Biết phân tích các tình huống học tập và nhận ra các hoạt động học

tập có ý nghĩa và các hoạt động học tập không có ý nghĩa.

- Hành vi ứng xử giữa các thành viên trở nên thân thiện.

3. Thái độ:

- Không ngại dạy minh hoạ.

- Không ngại phát biểu

- Mong muốn cải tiến các tiết học để đồng nghiệp chia sẻ ý kiến

- Có niềm tin, sự tôn trọng, mở rộng lòng mình chấp nhận mọi người

cầu thị sự tiến bộ.

- Tin tưởng vào kết quả SHCM mới.

II. Những công việc cần phải làm:

- Tổ chức tập huấn cho giáo viên nắm bắt được mục đích ý nghĩa,

những nguyên tắc và kỹ thuật tổ chức điều hành một buổi SHCM .

- Xây dựng kế hoạch lịch tổ chức SHCM cho cả năm học (người dạy

minh hoạ, người chủ trì phân công người hỗ trợ tư vấn thiết kế bài dạy cho

giáo viên dạy minh hoạ...).

- Chuẩn bị bài dạy minh hoạ: Giáo viên dạy minh hoạ nghiên cứu tài

liệu, chuẩn bị nội dung và thiết kế bài giảng cần có sự tham gia của cán bộ

quản lý chuyên môn, các thành viên trong tổ chuyên môn và những giáo viên

có kinh nghiệm giúp giáo viên dạy minh hoạ làm chủ kiến thức, phương pháp

và tự tin. (không dạy trước đối tượng học sinh của lớp dạy minh hoạ).

- Ủng hộ giáo viên dạy minh hoạ tạo tâm lý thoải mái, tự tin cho giáo

viên dạy minh hoạ.

- Thay đổi những thói quen cũ khi dự giờ và chia sẻ ý kiến với đồng

nghiệp.

- Rèn luyện kỹ năng quan sát thu nhận thông tin khi dự giờ .

- Rèn kỹ năng chia sẻ ý kiến trong thảo luận.

- Xây dựng văn hoá lắng nghe qua hoạt động chia sẻ ý kiến.

Page 31: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

30

- Giúp giáo viên nhận thấy nhữn vấn đề về bài học hiện nay thông

qua việc phân tích các tình huống học tập cụ thể giúp giáo viên nhận thấy

hoạt động học tập có ý nghĩa và không có ý nghĩa.

- Xây dựng niềm tin sự tôn trọng nhau qua sự qua việc học hỏi tìm

hiểu ý nghĩa những lời phát biểu của đồng nghiệp.

- Xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các giáo viên thông qua việc

trao đổi cùng nhau nghiên cứu bài học.

- Xây dựng các mối quan hệ giữa các thành viên thông qua môi trường

làm việc cùng nhau.

- Luôn theo dõi nắm bắt những diễn biến tâm lý những sự thay đổi

của giáo viên về các năng lực cần thiết. Trong quá trình triển khai linh

hoạt điều chỉnh phương pháp tác động tới đối tượng tham gia.

- Đánh giá kết quả triển khai SHCM sau năm đầu thực hiện mô hình

bồi dưỡng giáo viên theo hướng nghiên cứu bài học. Phân tích những thành

công những điểm còn tồn tại tìm hiểu nguyên nhân đề ra giải pháp trong công

tác quản lý chỉ đạo và điều hành cho năm tiếp theo.

B. Năm thứ 2:

I. Mục tiêu cần đạt:

1. Hiểu biết:

- Cán bộ quản lý và giáo viên hiểu mục đích ý nghĩa của SHCM

(Giải pháp hữu hiệu để đổi mới nhà trường) cùng nhau quyết tâm thực hiện

mô hình.

- Giáo viên hiểu biết sâu sắc thực tế về việc học tập của học sinh, tìm

hiểu nguyên nhân có giải pháp cải tiến phù hợp.

2. Kỹ năng:

- Biết hợp tác làm việc cùng nhau.

- Biết quan sát thu nhận thông tin để nhận ra thực tế việc học của

học sinh trong các giờ học .

- Lắng nghe trao đổi ý kiến trong khi chia sẻ. Ngôn ngữ chia sẻ trôi

chảy, mạch lạc, rõ ý, thiện cảm, giao tiếp tốt trong buổi sinh hoạt chuyên

môn.

- Biết phân tích sâu các tình huống học tập, hiểu sâu các hoạt động

học tập có ý nghĩa và các hoạt động học tập không có ý nghĩa tìm hiểu

nguyên nhân.

Page 32: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

31

- Làm rõ những vấn đề người dự, người dạy quan tâm.

- Các mối quan hệ giữa các thành viên thay đổi có chiều sâu.

3. Thái độ:

- Giáo viên đăng ký dạy minh hoạ.

- Giáo viên có nhu cầu trao đổi.

- Ham muốn cải tiến các tiết học để đồng nghiệp chia sẻ ý kiến.

- Có niềm tin, sự tôn trọng, mở rộng bản thân mình chấp nhận mọi

người cầu thị sự tiến bộ.

- Tin tưởng vào kết quả SHCM mới.

II. Những công việc cần phải làm:

- Giúp giáo viên hiểu sâu sắc đích ý nghĩa, những nguyên tắc và kỹ

thuật tổ chức điều hành một buổi SHCM thông qua thực hành SHCM.

- Xây dựng kế hoạch, lịch tổ chức SHCM cho cả năm học (người dạy

minh hoạ, người chủ trì phân công người hỗ trợ tư vấn thiết kế bài dạy cho

giáo viên dạy minh hoạ...).

- Chuẩn bị bài dạy minh hoạ: Giáo viên dạy minh hoạ nghiên cứu kỹ

tài liệu, nâng cao mục tiêu bài học, lựa chon nội dung phù hợp và có ý

nghĩa với học sinh. Phát triển ý tưởng mới, thiết bài học hay. (Thiết kế bài

giảng cần có sự tham gia của cán bộ quản lý chuyên môn, các thành viên

trong tổ và những giáo viên có kinh nghiệm giúp giáo viên dạy minh hoạ

làm chủ kiến thức và tự tin).

- Tiếp tục rèn các kỹ năng quan sát thu nhận thông tin khi dự giờ

những thông tin từ việc học của học sinh.

- Nâng cao văn hoá lắng nghe qua hoạt động chia sẻ ý kiến.

- Đi sâu phân tích các tình huống học tập cụ thể giúp giáo viên hiểu

sâu về các hoạt động học tập có ý nghĩa và không có ý nghĩa.

- Tiếp tục xây dựng niềm tin sự tôn trọng nhau qua sự qua việc học

hỏi tìm hiểu ý nghĩa những lời phát biểu của đồng nghiệp.

- Tiếp tục xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các giáo viên thông

qua việc trao đổi cùng nhau nghiên cứu bài học.

- Cải tiến chất lượng các giờ học hàng ngày thông qua vận dụng

những bài học kinh nghiệm từ SHCM.

- Xây dựng các mối quan hệ giữa các thành viên đi vào chiều sâu

thông qua môi trường làm việc cùng nhau.

Page 33: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

32

- Tiếp tục theo dõi nắm bắt những diễn biến tâm lý những sự thay đổi

của giáo viên về các năng lực cần thiết. Trong quá trình triển khai linh

hoạt điều chỉnh phương pháp tác động tới đối tượng tham gia.

- Đánh giá kết quả triển khai SHCM sau năm thứ hai thực hiện mô

hình bồi dưỡng giáo viên theo hướng nghiên cứu bài học. Phân tích những

thành công những điểm còn tồn tại tìm hiểu nguyên nhân đề ra giải pháp

trong công tác quản lý chỉ đạo và điều hành cho năm sau.

C. Năm thứ 3:

I. Mục tiêu cần đạt:

1. Hiểu biết:

- Cán bộ quản lý và giáo viên hiểu mục đích ý nghĩa của SHCM cùng

nhau quyết tâm thực hiện mô hình. Có niềm tin và coi SHCM là trụ cột

trong chiến lược đổi mới và phát triển nhà trường.

- Giáo viên hiểu biết sâu sắc về học sinh nắm chắc nội dung kiến

thức chương trình cấp học, phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung

tâm.

2. Kỹ năng:- Biết hợp tác làm việc cùng nhau.

- Biết quan sát thu nhận thông tin để nhận ra thực tế việc học của

học sinh trong các giờ học một cách tinh tế.

- Lắng nghe với thái độ chân thành, khuyến khích người nói mạnh

dạn chia sẻ hết, không dè dặt, trao đổi ý kiến trong khi chia sẻ theo nhiều

chiều với thái độ học hỏi. ngôn ngữ diễn đạt thu hút được người nghe.

- Biết phân tích sâu các tình huống học tập, hiểu sâu các hoạt động

học tập có ý nghĩa và các hoạt động học tập không có ý nghĩa tìm hiểu

nguyên nhân.

- Làm rõ những vấn đề người dự người dạy quan tâm.

- Biết thiết kế bài học hay, tổ chức các hoạt động có ý nghĩa tạo cơ

hội học tập cho mọi học sinh.

- Thực hiện bài dạy lấy học sinh làm trung tâm.

- Các mối quan hệ giữa các thành viên thay đổi có chiều sâu.

3. Thái độ:

- Giáo viên tự nguyện đăng ký dạy minh hoạ.

- Giáo viên có nhu cầu trao đổi.

Page 34: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

33

- Ham muốn cải tiến các tiết học để đồng nghiệp chia sẻ ý kiến, đề

xuất các giải pháp với chuyên môn và đồng nghiệp.

- Luôn luôn tin tưởng, tôn trọng, mở rộng ang mình chấp nhận mọi

người và cầu thị sự tiến bộ.

- SHCM mới là nhu cầu đối với giáo viên.

II. Những công việc cần phải làm:

Tiếp tục triển khai SHCM theo các công việc cần làm của năm trước,

Nâng cao chất lượng các giờ dạy SHCM, tính hiệu quả trong việc bồi

dưỡng nâng cao năng lực giáo viên.

- Mỗi giáo viên vận dụng những bài học kinh nghiệm từ SHCM vào việc

giảng dạy hàng ngày.

- Đánh giá mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường.

- Đánh giá phương pháp bồi dưỡng.

- Đánh giá hiệu quả các tiết giờ học của HS.

- Tập hợp số liệu viết báo cáo...

* Xây dựng kế hoạch cụ thể hàng năm:

- Những căn cứ.

- Xác định mục tiêu nhiệm vụ.

- Các giải pháp thực hiện.

- Xếp lịch SHCM.

1.3. Chuẩn bị điều kiên cho Sinh hoat chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bai học:

1.3.1. Thời gian cần được đảm bảo:

Tiến hành sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học tại

trường ít nhất hai tuần một lần, thời gian mỗi lần ít nhất là 3 tiếng trong đó

35 đến 40 phút đầu dành cho việc dự giờ thời gian còn lại dành cho suy

ngẫm về bài học vừa dự giờ. Trong điều kiện cho phép các trường dành

một buổi chiều để tiến hành sinh hoạt chuyên môn. Không nên tổ chức sinh

hoạt chuyên môn tranh thủ hoặc xen kẽ với các hoạt động khác. Tất cả giáo

viên cần tự nguyện, hứng thú tham gia suốt thời gian sinh hoạt chuyên môn

với nhu cầu học tập để nâng cao năng lực bản thân, góp phần tạo ra một

Page 35: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

34

nền giáo dục tốt cho trường học. Nếu giáo viên không hiểu mục đích này

và không sẵn sàng cải thiện chất lượng dạy học thì việc kéo dài thời gian

bao lâu cũng không có hiệu quả.

1.3.2. Sự tham gia của tất cả giáo viên:

Một điều kiện đặt ra là phải đảm bảo sự tham gia của tất cả giáo viên

trong trường. Đó là vì mục đích của sinh hoạt chuyên môn là cung cấp cơ

hội học tập cho tất cả giáo viên.

Nếu trường đông quá có thể chia ra theo khối lớp nhưng tốt nhất vẫn

là sự tham gia của giáo viên toàn trường cùng với người chủ trì có kinh

nghiệm.

1.3.3. Bảo đảm nơi tiến hành bài học:

Bài học minh hoạ được tiến hành tại lớp học của giáo viên dạy minh

hoạ. trong không khí lớp học bình thường, học sinh có thể thể hiện việc học

của mình trong bài học dựa vào những kinh nghiệm đã được cung cấp bởi

giáo viên dạy minh hoạ. Người dạy có thể học tập được nhiều hơn theo

cách này.

Lớp học cần đảm bảo chỗ cho giáo viên dự giờ làm sao người dự có

thể quan sát được nét mặt của học sinh. Chú ý không can thiệp vào việc học

của HS.

1.3.4. Số lượng người dự giờ:

Khi tiến hành sinh hoạt chuyên môn tại trường thì không cần điều

chỉnh về số lượng người dự, nhưng khi có Phòng, Sở hoặc giáo viên ở

trường khác về dự thì cần phải điều chỉnh về số lượng người dự vì nếu số

lượng người quá đông học sinh có thể bị ảnh hưởng. Số lượng người dự giờ

cần duy trì làm sao mà khi chia sẻ, suy ngẫm, mọi người đều có thể phát

biểu thoải mái và thân mật.

1.3.5. Người dạy minh hoạ:

Cán bộ quản lí nhà trường xếp kế hoạch dạy minh hoạ cho giáo viên

trong trường. Khi đến lượt dạy nếu giáo viên dạy minh hoạ không thấy tự

tin lắm cần có sự hỗ trợ của cán bộ quản lí và đồng nghiệp, cần phân công

giáo viên có kinh nghiệm, năng lực cố vấn và giúp đỡ giáo viên đó để làm

Page 36: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

35

rõ mục tiêu bài học và mong muốn của giáo viên đó đối với học sinh. Kế

hoạch bài học phương pháp dạy học nên phụ thuộc vào giáo viên dạy minh

hoạ. Giáo viên dạy minh hoạ cần quyết định mục tiêu bài học và phần nào

sẽ được phát triển từ sách giáo khoa. Giáo viên có thể đặt ra những mục

tiêu mới đối với giờ học nhưng cần được cân nhắc kỹ và những điều này

cần phải được làm rõ thông qua việc đối thoại giữa giáo viên dạy minh hoạ

với người cố vấn.

Sự hỗ trợ cần phải được làm thường xuyên chứ không phải riêng cho giờ

dạy minh hoạ.

1.3.6. Tác phong dự giờ:

Trước khi dự giờ, CBQL nên nhắc giáo viên không quấy rầy học

sinh khi dự giờ, không gây áp lực với các em, không nói chuyện với các

em, không được mượn sách vở của các em, mượn bàn, mượn ghế, không

được nói chuyện với người dự giờ để ảnh hưởng đến các em, cũng không

nên giới thiệu với các em như: “Hôm nay lớp ta có các thầy cô giáo ở Sở,

phòng đến dự giờ vậy chúng ta nhiệt liệt chào mừng” bởi vì các em học

sinh chứ không phải người dự là những nhân vật chính trong buổi học hôm

đó.

1.3.7. Vị trí tiến hành dự giờ:

Hướng dẫn để giáo viên dự giờ lựa chon vị trí đứng có thể quan sát

được việc học của học sinh, quan sát được gương mặt, thái độ, hứng thú…

và quá trình học, kết quả của học sinh.

Vị trí tốt nhất có thể là phía trước, hai bên lớp học, có thể di chuyển

nhưng giữ khoảng cách và im lặng không làm ảnh hưởng đến việc học của

học sinh.

1.3.8. Chuẩn bị, rèn luyện các kĩ năng cần thiết của người chủ trì

(có thể là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng, tổ phó hoặc giáo viên

có năng lực cao)

- Trong buổi sinh hoạt chuyên môn tất cả các giáo viên cần học hỏi

lẫn nhau. Cần xây dựng được mối quan hệ hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa

các giáo viên với nhau, nhằm mục đích học hỏi lẫn nhau và phát triển năng

lực của họ.

Page 37: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

36

- Vai trò chính của người chủ trì trong khi trao đổi về bài học không

phải là đưa ra ý kiến riêng của mình, lại càng không phải là để hỏi những giáo

viên khá giỏi đưa ra ý kiến, mà là để hỏi ý kiến của mọi giáo viên tất cả mọi ý

kiến đều được tôn trọng. Người chủ trì không nhất thiết phải tổng kết lại buổi

thảo luận ấy, bởi vì mọi người tham gia phải tự phát triển khả năng tổng kết

của mình.

- Không được để người dạy minh hoạ trở thành mục tiêu để phê bình

chỉ trích. Trong SHCM tất cả giáo viên đều phải ủng hộ những nỗ lực của

giáo viên dạy minh hoạ.

- Có thể lần lượt từng người dự giờ nêu ý kiến. Nếu tất cả mọi người

đều đưa ra ý kiến về những điều mình khám phá được về những học sinh ít

được chú ý tới như thế nào, tình hình thực tế của học sinh và tiềm năng của

bài học, thì giáo viên dạy minh hoạ có thể học được rất nhiều. Để khám phá

được điều gì đó mới trong SHCM, điều căn bản là người dự giờ phải được tự

do đưa ra các ý kiến đóng góp có tính chất xây dựng của mình.

- Lúc đầu phần lớn giáo viên dự thường không phát biểu gì cả, hoặc

đưa ra các ý kiến giống nhau. Trong SHCM kiểu cũ mọi người thường đưa

ra những điểm thất bại của giáo viên, hoặc đề xuất một cách dạy khác cho

nên họ thấy khó có thể trao đổi với nhau về học sinh học tập như thế nào

trong giờ học hoặc học sinh học được những gì từ bài học. Người chủ trì

cần xem xét 3 điểm dưới đây nhằm phá vỡ các thói quen cũ có tính chất

tiêu cực:

(1) Tìm hiểu ý nghĩa những ý kiến đóng góp của người dự giờ:

Trong thực tế, nhiều người dự khi phát biểu ý kiến không biết chắc

mình muốn nói gì hoặc không thể diễn đạt nỗi ý mình muốn nói. Vì vậy,

người chủ trì phải tìm hiểu ý kiến đóng góp của người dự giờ bằng cách hỏi

người dự xem họ đang muốn nói đến tình huống nào, học sinh nào, như thế

nào…để làm sáng tỏ điều họ muốn nói, dẫn dắt để người dự giờ phải đưa ra

được các ý kiến theo cách nhìn của mình, khác với quan điểm của người

dạy minh hoạ, đồng thời nếu người dự không hiểu rõ về quan điểm của

người dạy minh hoạ thì người chủ trì phải nói rõ thông qua trao đổi giữa

các giáo viên dự giờ với nhau. Không nên bỏ qua, mời ngồi xuống hoặc

Page 38: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

37

mời người khác nói cho nhanh bởi vì làm như thế sẽ làm họ phật long, lần

sau không muốn phát biểu và không tiến bộ được hoặc cũng có thể chúng

ta bị bỏ qua một ý kiến hay.

(2) Trao đổi kĩ lưỡng về ý định của giáo viên dạy minh hoạ và những

chủ điểm của người đó với bài dạy

Trong sinh hoạt chuyên môm mới, chúng ta khuyến khích giáo viên

sáng tạo. Tuy nhiên những sáng tạo nhiều khi không mang lại hiệu quả gì.

Ví dụ: Giáo viên dạy minh hoạ tiến hành bài dạy với những ý định riêng

của mình để phát triển những khả năng nào đó của học sinh. Nhưng cho dù

người dạy minh hoạ có cố gắng đến đâu thì khả năng học sinh cũng không

có những thay đổi.

Vì vậy, các giáo viên dự giờ cần phải trao đổi về những khả năng mà

học sinh đã đạt được trong thực tế giờ học, rồi đem đối chiếu với ý định

của giáo viên dạy minh hoạ. Bằng cách làm như vậy, giáo viên dạy minh

hoạ có thể định ra được kế hoạch cho bài học tiếp theo, và cả các giáo viên

dự lớp cũng có thể suy nghĩ lại về các ý định của họ cho các bài dạy của

mình từ cuộc trao đổi này.

Người chủ trì đừng bỏ qua việc trao đổi một cách cặn kẽ về ý định

của người dạy và cần có những gợi ý để người dự giờ có những ý kiến đối

chiếu tốt nhất.

(3) Cố gắng tìm ra những điểm trội của bai học trong cac tình

huống giao viên minh họa đap lai học sinh.

Trong phần phát biểu của mình sau khi thao diễn, giáo viên dạy minh

hoạ có thể báo cáo lại tình huống nào bài học diễn ra tốt đẹp, phần nào

chưa đạt kết quả hoặc người đó gặp khó khăn trong việc đáp lại học sinh

như thế nào, hoặc các giáo viên dự giờ có thể nhận thấy những thay đổi của

học sinh thông qua lời nói hoặc nét mặt của các em, và những tình huống

đó có thể là những điểm nổi trội quan trọng của bài học. Ta hãy tìm xem

những thay đổi của học sinh diễn ra hoặc có khả năng diễn ra ở những chỗ

nào, những chỗ nào học sinh được học, hoặc có thể được học, rồi trao đổi

các khả năng cải tiến bài học ở những thời điểm ấy.

Page 39: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

38

Ví dụ: Vào thời điểm A học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên đã hỏi

thêm một câu hỏi hay làm cho cả lớp hứng thú, tiếp tục suy nghĩ và có

những ý kiến đào sâu kiến thức bài học. Hoặc thời điểm B học sinh nào đó

trả lời và cô đồng ý làm cho cả lớp mất hứng, đáng lẽ cần hỏi thêm một số

câu hỏi tạo tình huống có vấn đề để học sinh phản biện, trao đổi cùng nhau

thì lớp học sôi nổi hơn, học sinh hiểu bài sâu hơn…

Điểm tốt của sinh hoạt chuyên môn mới là ở chỗ tất cả các giáo viên

có thể cùng nhau hợp tác nhằm làm sáng tỏ những gì các giáo viên dự giờ

không nhận thấy rõ ràng hoặc những gì họ thực sự quan tâm chú ý. Thông

qua đó, tình đồng nghiệp sẽ nảy sinh và phát triển giữa tất cả giáo viên,

giúp họ hỗ trợ lẫn nhau trong công tác.

2. Một số kĩ năng cần thiết cho ngƣời chủ trì sinh hoat chuyên

môn:

Để chủ trì thành công buổi sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên

cứu bài học, người chủ trì cần phải là người có năng lực chuyên môn và

nhiều kĩ năng mềm: ngôn ngữ mạch lạc, diễn đạt tốt, tổng hợp, phân tích,

hài hước một chút, biết điều chỉnh không khí buổi sinh hoạt chuyên môn,

ngăn chăn xung đột có thể xảy ra giữa các giáo viên, liên kết các ý

kiến…Trong đó có 2 kĩ năng không thể thiếu, là điều kiện để nâng cao chất

lượng sinh hoạt chuyên môn một cách nhanh chóng.

2.1. Kĩ năng quay phim, chụp ảnh:

Để tổ chức một buổi sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài

học thành công, một kĩ năng quan trọng của người chủ trì là quay phim,

chụp ảnh để ghi lại các hình ảnh quan trọng trong tiết học (hình ảnh quan

trọng đó chính là các tình huống học tập của học sinh: tình huống học hay,

hứng thú hay tình huống học sinh gặp khó khăn trong học tập…). Các tình

huống này sẽ làm cơ sở để giáo viên phân tích, thảo luận trong quá trình

chia sẻ.

Tốt nhất là dùng máy quay chuyên dụng, vừa quay, vừa chụp, vừa

quay hết toàn bộ tiết học nhưng cũng có thể chụp, quay, cắt phim để lấy

những tình huống, những thời điểm cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện có

Page 40: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

39

thể của nhà trường, có thể dung các loại điện thoại của cá nhân cùng với

cần nối dài để quay, chụp mà không ảnh hưởng đến học sinh.

- Cách cầm, cách đứng để quay

Góc độ 1: Đối diện với đối tượng

Góc độ 2: Nhìn lên, nhìn xuống

Góc độ 3: Đến gần/dời khỏi đối tượng quay

- Vị trí người quay đứng ở lớp học: Hai góc phía trên bảng lớp

- Cách hướng máy vào đối tượng

+ Pan : Di chuyển theo hướng ngang : Di chuyển ống kính máy quay

từ bên này sang bên khác. Hướng ống kính sang bên trái, bên phải, đó gọi

là Quét-xoay-tròn “panning”

+Tilt: Di chuyển theo hướng dọc: Di chuyển ống kính máy quay lên

hay xuống, kiên định giữ trục quay theo hướng dọc. Ngẩng đầu lên hay

xuống – gọi là Nghiêng lên xuống

+ Vừa đi bộ vừa quay

2.2. Kĩ năng vừa quan sát học sinh một cách cụ thể vừa ghi chép:

Người chủ trì là người phải quay, chụp lai hình ảnh tiết học, vừa phải

ghi chép một cách tốt nhất các tình huống trong tiết học.Để là được điều

này không phải dễ. Có người quay thi mất ghi, ghi thì không quay được. Vì

vậy cần lưu ý rèn luyện kĩ năng vừa quay, vừa ghi chép.

* Cách quan sát việc học của học sinh:

Trường hợp 1: Học sinh thực sự cần sự giúp đỡ

Có học sinh không hiểu lời nói / yêu cầu của giáo viên

Có học sinh không thấy hứng khởi với bài học

Có học sinh không biết mình phải làm gì trong bài học.

Trường hợp 2: Mối quan hệ

học sinh tiếp xúc tốt/không tốt với bạn khác

học sinh nói/ không nói được “mình không hiểu bài” với bạn khác

Page 41: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

40

Giáo viên chăm sóc/ không chăm sóc học sinh

Trường hợp 3: Nhận thức của học sinh

học sinh làm sai: học sinh làm sai, hiểu nhầm ntn?

học sinh học yếu: Làm thế nào để chăm sóc học sinh không hiểu

bài?

học sinh khá: học sinh bắt đầu chán học do lý do nào?

* Quan sát và quay hình

Ghi hình toàn cảnh lớp học để suy ngẫm về quan hệ giữa toàn lớp và

cá nhân

Ghi hình hoạt động nhóm (Ghi mối quan hệ, chứ không ghi cá nhân)

Ghi hình cá nhân như thế nào? (Mặt, mắt, miệng, nét mặt và tư thế)

* Vừa quay vừa ghi chép:

Chọn vị trí đứng phù hợp, dùng sổ có bìa cứng, có thể dùng camera

có chân...

* Mỗi người cần có học hỏi, rút kinh nghiệm để hoàn thiện cách ghi

chép của mình.

3. Đối với giao viên tham gia sinh hoat chuyên môn dựa trên

nghiên cứu bai học:

- Nhận thức đầy đủ vai trò trách nhiệm của giáo viên để có động cơ

học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.

- Luôn nắm bắt cơ hội, thái độ học tập mọi nơi, mọi lúc.

- Tự bản thân xóa bỏ những yếu tố chủ quan làm cản trở quá trình

học hỏi, phát triển năng lực nghề nghiệp của bản thân như:

+ Tính kiêu ngạo: Một số người cho rằng mình có năng lực cao, tất

cả những người còn lại ở trong tập thể không ai qua mình. Vì vậy họ cho

rằng những người khác không có gì đáng để học tập và xuất hiện tâm lí coi

thường người khác. Những người này khi tham gia sinh hoạt chuyên môn

có thể chỉ trích đối với người dạy minh họa hoặc nếu họ là đối tượng dạy

minh họa thì sẽ tỏ thái độ khi người khác góp ý. Nếu bạn còn có tính kiêu

Page 42: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

41

ngạo, hãy xóa bỏ dần bởi ai cũng có điểm mạnh riêng đáng để cho ta học

tập dù là nhỏ nhất.

+ Tính tự mãn: bản thân nhận thấy mình dạy như thế là tốt rồi, không

cần thay đổi gì nữa.

+ Sự thiếu tin tưởng: Không tin tưởng đồng nghiệp, luôn cho rằng

những đồng nghiệp năng lực yếu thì không thể tiến bộ được, ý kiến của họ

không có gì đáng để nghe, phương pháp của họ có gì hay mà học. Đây là

một tâm lí khá phổ biến làm cho các giáo viên không chấp nhận lẫn nhau,

là nguyên nhân làm cho các mối quan hệ trong nhà trường khó được cải

thiện.

+ Sự thiếu hăng say, thiếu động cơ: Trong điều kiện xã hội hiện nay,

nhiều người cho rằng lương giáo viên là thấp, là chưa đủ sống và thiếu

hăng say, nhiệt tình với công việc, ít học hỏi để nâng cao kiến thức, năng

lực nghề nghiệp. Tuy nhiên giáo viên là người có ảnh hưởng lớn và trực

tiếp đến nhiều thế hệ học sinh. Vì vậy, các giáo viên cần nhận thức đầy đủ

về vai trò, trách nhiệm của mình, nuôi dưỡng tình yêu nghề nghiệp, có

động cơ đúng đắn và thái độ học tập hăng say để ngày càng thực hiện tốt

hơn công việc của mình.

- Nâng cao năng lực xử lý tình huống và hỗ trợ học sinh trong giờ

học: Khi tham gia sinh hoạt chuyên môn, giáo viên cần hết sức tập trung để

thảo luận và cùng suy ngẫm về việc học của học sinh, tập trung vào các

tình huống học tập cụ thể xem lúc đó học sinh học tập như thế nào, vì sao

lại như vậy? Khi biết được nguyên nhân tại sao, mỗi giáo viên sẽ tự ngẫm

và có cách xử lý, cách hỗ trợ học sinh của riêng mình.

- Nâng cao năng lực lựa chọn kiến thức phù hợp với đối tượng học

sinh: Trong dự giờ, cần quan sát xem kiến thức, nhiệm vụ có phù hợp với đối

tượng hay không để trao đổi, thảo luận. Nếu không trao đổi thảo luận thì hầu

như giáo viên chỉ biết dạy đủ các nội dung kiến thức trong sách mà không

quan tâm đến kiến thức nào phù hợp với học sinh kiến thức nào không phù

hợp. Qua sinh hoạt chuyên môn được trao đổi thảo luận kỹ lưỡng mỗi giáo

viên từng bước nâng cao năng lực lựa chọn kiến thức mỗi bài học phù hợp với

thực tế.

Page 43: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

42

3.1. Một số kĩ năng cần thiết.

3.1.1. Kĩ năng quan sát:

Quan sát là một quá trình bao gồm: nhìn, nghe, cảm nhận, phân tích

một cách có chủ đích để đưa ra những nhận định đúng nhất về đối tượng.

Kĩ năng quan sát là kĩ năng hết sức cần thiết đối với mọi người đặc

biệt là đối với giáo viên. Quan sát tốt giúp giáo viên kịp thời phát hiện

những tình huống trong dạy học và giáo dục học sinh để xử lí, giúp giáo

viên đánh giá học sinh chính xác, cụ thể. Trong dự giờ, sinh hoạt chuyên

môn, việc quan sát sẽ giúp giáo viên có thêm nhiều bài học rút ra từ việc

học của học sinh, từ những thành công cũng như hạn chế của giáo viên dạy

minh họa. Để rèn luyện kĩ năng quan sát, giáo viên cần nắm vững:

Quá trình quan sát bao gồm:

- Trước khi quan sát: Xác định mục tiêu và lí do quan sát

- Trong khi sự việc diễn ra (dự giờ): Quan sát và lưu thông tin.

- Sau khi quan sát: Sử dụng thông tin để phân tích những gì rút ra từ

sự quan sát.

Các bước trong quá trình quan sát:

- Xác định mục tiêu và tiêu chí quan sát

- Tiến hành quan sát

- Phân tích và sử dụng những thông tin quan sát được.

Phát triển kĩ năng quan sát hiệu quả khi dự giờ:

- Biết quan sát chung, bao quát toàn lớp

- Quan sát kết hợp lắng nghe, suy ngẫm

- Quan sát từ nhiều góc độ, khía cạnh

- Quan sát kết hợp với xử lí thông tin (liên hệ, so sánh các tình

huống. Ví dụ: tình huống này học sinh học hiệu quả hơn, lí do;tình huống

khác học sinh học kém hiệu quả, lí do…)

Page 44: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

43

- Thái độ quan sát tinh tế, ánh mắt trìu mến, vui vẻ, tránh nhìn chằm

chằm hoặc với thái độ thiếu thiện cảm làm cho giáo viên và học sinh thiếu

tự nhiên khi hoạt động.

- Vị trí quan sát, di chuyển hợp lí để không ảnh hưởng đến tâm lí

cũng như hoạt động học của học sinh.

Cần quan sát gì?

- Quan sát quá trình tham gia của học sinh, bao gồm:

+ Mức độ hứng thú của học sinh với bài học

+ Mức độ kinh nghiệm của học sinh về nội dung bài học

+ Động cơ học tập của học sinh

+ Mức độ khó của bài tập

- Quan sát mối quan hệ của học sinh (HS-HS, HS-GV, HS-môi

trường, công cụ học tập)

Những điều cần quan sát khi học sinh thảo luận nhóm:

- Các nhóm đã sẵn sàng, tập trung để làm việc chưa, có hiểu yêu cầu

của giáo viên không?

- Có nhóm nào không hiểu bài tập, câu hỏi không?

- Các thành viên trong nhóm tham gia như thế nào?

- Vai trò của các thành viên trong nhóm

- Các nhóm làm việc, thảo luận ra sao?

- Người điều hành nhóm làm việc thế nào?

- Các nhóm làm việc có cùng tiến độ không?

- Có nhóm nào xong trước không, có nhóm nào làm ảnh hưởng đến

nhóm khác không?

Những điều cần quan sát giáo viên:

- Cách thức tổ chức hoạt động

- Cách thức tiếp cận và hỗ trợ cho các nhóm, các cá nhân học sinh

- Cách sử dụng đồ dùng dạy học

Page 45: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

44

- Cách giáo viên tạo cơ hội cho học sinh, thái độ, cử chỉ, giao tiếp

với học sinh, có làm thay cho học sinh không, biết chờ đợi học sinh hay

không.

Một số yếu tố cản trở khả năng quan sát của giáo viên:

* Đối với người dạy:

- Quá căng thẳng, chưa thâm nhập bài dạy

- Chưa biết biểu hiện của học sinh nói lên điều gì (nhìn thấy nhưng

không nhận ra vấn đề)

- Chỉ quan tâm đến việc mình làm, không cho rằng quan sát là cần

thiết.

* Đối với người dự:

- Chưa biết nên quan sát điều gì

- Chọn vị trí quan sát không phù hợp.

- Sắp xếp bố trí bàn ghế đồng dùng trong phòng học.

3.1.2. Kĩ năng lắng nghe:

Đối với giáo viên, kĩ năng lắng nghe hết sức quan trọng. Người giáo

viên không chỉ biết “nghe bằng tai” còn phải biết “nghe bằng khối óc và

con tim của mình” bởi vì trong biểu đạt của một người, yếu tố ngôn từ có

giá trị 7% còn yếu tố phi ngôn từ có giá trị 93% còn lại.

Một số lưu ý cần thiết để lắng nghe tích cực trong dạy học:

- Cần tập trung khi nghe

- Biết giao tiếp bằng mắt, có thái độ khuyến khích đối với người nói.

- Tỏ thái độ tôn trọng và đồng cảm (nếu học sinh có trả lời sai)

- Biết chờ đợi, không tỏ thái độ nôn nóng, thúc giục.

Đối với người dự giờ:

- Cần lắng nghe câu lệnh của giáo viên xem có rõ ràng, mạch lạc, có

đủ để học sinh hiểu và thực hiện không

Page 46: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

45

- Lắng nghe câu trả lời của học sinh, điều này giúp chúng ta biết

được mức độ hiểu bài và những năng lực mà mỗi học sinh có được. (Ví dụ:

học sinh trả lời không đầu không đuôi, xảy ra ở nhiều em trong lớp, điều

này chứng tỏ giáo viên chưa chú ý rèn luyện cho học sinh…nếu lắng nghe

được, giáo viên dự giờ có thể góp ý để giáo viên dạy minh họa và các giáo

viên khác rút kinh nghiệm).

- Lắng nghe những tranh luận của học sinh và suy ngẫm vì sao học

sinh lại tranh luận.

- Lắng nghe lời giảng, trao đổi của giáo viên với học sinh và xem

điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với học sinh (có giúp học sinh rõ thêm

vấn đề hay không, có khắc sâu thêm bài học hay không, có khuyến khích

học sinh học tập hay không, có đánh giá học sinh hay không...hay là những

câu vu vơ hoặc mắng nhiếc học sinh hoặc những câu sáo rỗng không có ý

nghĩa và không làm làm thay đổi gì cả.)

- Không nói chuyện, không nhắc nhở, can thiệp vào các cuộc thảo

luận của học sinh trong quá trình dự giờ.

- Biết lắng nghe và ghi chép những thông tin cần thiết cho việc chia

sẻ trong buổi suy ngẫm, rút kinh nghiệm.

Một số yếu tố cản trở khả năng lắng nghe của giáo viên:

- Thiếu tập trung, nói chuyện riêng (có những giáo viên dạy minh

họa tranh thủ nói chuyện riêng với người dự giờ)

- Thiếu quan tâm, thiếu kiên nhẫn: Trong khi dự giờ hoặc trong khi

chia sẽ về bài học, chúng ta thiếu sự quan tâm đến người nói, chỉ tham gia

để có mặt, điểm danh, không chú trọng ai nói cái gì. Cũng có lúc chúng ta

cũng không đủ kiên nhẫn chờ đợi khi thấy người nói diễn đạt chưa tốt, dài

dòng làm bản thân chúng ta chuyển chú ý sang việc khác.

- Không đặt ra mục tiêu, đối tượng để lắng nghe. Nghe nhưng không

nhận ra vấn đề gì cả: Trước khi dự giờ, chia sẻ, nhiều giáo viên không đặt

ra mục tiêu gì, vì vậy rất hạn chế khi lắng nghe.

Page 47: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

46

- Nghe nhưng không kịp thời và không biết cách ghi chép lại, cuối

cùng không nhớmình đã nghe những gì.

3.1.3. Kĩ năng phản hồi tích cực:

Trong giao tiếp, phản hồi tích cực cũng là một kĩ năng hết sức quan

trọng quyết định hiệu quả giao tiếp. Phản hồi tích cực không chỉ giúp

chúng ta đạt mục tiêu của tình huống giao tiếp mà còn xây dựng hình ảnh,

uy tín của bản thân, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể, đơn vị.

Trong sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học, phản hồi tích cực

là yếu tố quyết định thành công của buổi sinh hoạt bởi vì phản hồi tích cực

sẽ tạo niềm tin, động lực thúc đẩy giáo viên trao đổi, tạo nên sự cởi mở,

hòa đồng, không khí vui vẻ, thoải mái, ăn khớp, nhịp nhàng để buổi sinh

hoạt chuyên môn có thể kéo dài trong sự phấn chấn của mỗi giáo viên. Nếu

không buổi sinh hoạt sẽ tẻ nhạt, nhàm chán, hoặc dễ dẫn đến cãi vã, to

tiếng, buổi sinh hoạt nhanh chóng kết thúc trong sự ấm ức của một vài

người. Vì thế chúng ta mất đi cơ hội học tập lẫn nhau.

Tuy nhiên trong thực tế, không phải ai cũng có kĩ năng này. Vì vậy,

mỗi cán bộ quản lí, giáo viên cần phải học hỏi, rèn luyện để có được kĩ

năng phản hồi tích cực.

* Yếu tố tích cực trong phản hồi:

Quan tâm

Chấp nhận Tin tưởng

Cởi mở

Page 48: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

47

* Cách phản hồi đúng:

Cụ thể

Được thúc đẩy

bởi mong muốn Không phán xét

giúp đỡ

Thẳng thắn Tôn trọng

* Luôn coi trọng ngƣời đang giao tiếp:

- Bắt đầu bằng những câu:

“Tôi nghĩ thế này…anh (chị) có ý kiến gì không?”

“ Anh (chị) đã làm tốt những điểm …Để làm tốt hơn nữa, anh

chị nên…”. Không nên bắt đầu bằng một số lời khen, sau đó dùng từ “tuy

nhiên” để nói về những khuyết điểm sẽ làm cho đối tượng được góp ý hụt

hẫng.

- Trước khi góp ý hạn chế cần nêu những điểm tốt mà đồng nghiệp làm

được, chia sẽ những cố gắng, nỗ lực, những khó khăn mà đồng nghiệp dã vượt

qua.

- Giao tiếp bằng lời: Ngôn ngữ là phương tiện để biểu đạt ý nghĩ của

mỗi người. Khi chúng ta muốn nói chuyện hoặc trao đổi thông tin với một

ai đó thì chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ để truyền tải những thông điệp

mà mình muốn bày tỏ. Ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp mà chúng ta luôn

sử dụng nó hàng ngày. Nhưng để việc giao tiếp có hiệu quả hơn và truyền

tải được những thông tin mà mình muốn nói một cách rõ ràng và thu hút sự

lắng nghe cũng như sự chia sẽ, phản hồi ngược lại của người khác là điều

mà ai cũng cần học hỏi.

Trong sử dụng lời nói, cần chú ý:

+ Âm điệu của lời nói: Vừa phải, dễ nghe, không cao giọng quá, nói

to quá hoặc nói nhỏ quá…

Page 49: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

48

+ Khi nói chuyện nên tập trung vào chủ đề đang thảo luận, tránh để

tư tưởng bị phân tán dẫn đến không hiểu nội dung câu chuyện.

+ Khi đối tượng giao tiếp đang nói thì ta nên lắng nghe, tuyệt đối

tránh ngắt lời hoặc cướp lời của người nói khi họ chưa nói hết ý của họ.

+ Trong khi giao tiếp nên tránh “thao thao bất tuyệt” mà không chú ý

đến thái độ của đối tượng giao tiếp. Hoặc đưa ra nhiều câu hỏi cùng một

lúc khiến người khác không kịp trả lời.

+ Khi nói về một chủ đề nào đó, nếu ta không được rõ thì lúc này

nên lắng nghe chứ không nên “nói bừa”, nghĩa là phải đảm bảo sự thành

thật và chính xác trong lời nói của mình.

+ Không nên bảo thủ chỉ coi trọng ý kiến của mình mà không tôn

trọng ý kiến của người khác.

- Giao tiếp bằng ngôn ngữ cơ thể: Chúng ta cần quan sát ngôn ngữ

của toàn bộ cơ thể từ đầu, thân, tay và chân. Không phải lời nói nào cũng

thể hiện hết được ý nghĩa của nó, mà cần có sự kết hợp giữa lời nói và cử

chỉ để giúp cuộc nói chuyện thành công. Chúng ta có thể dễ dàng thấy

những giáo viên của mình không chỉ đơn thuần là nói mà họ còn kèm theo

những cử chỉ để làm cho người nghe tập trung, tăng sức thuyết phục của

cuộc hội thoại. Không nên làm thái quá cuộc nói chuyện bằng việc vung

tay trong mọi tình huống. Ngoài ra, biểu hiện rung lắc chân cho thấy sự lo

lắng hay cử chỉ gãi tai, gãi đầu thể hiện sự bối rối, mất tự tin.

- Giao tiếp bằng ánh mắt: Chúng ta thường quan niệm rằng giao tiếp

qua ánh mắt là phải nhìn trực diện từ ánh mắt đến ánh mắt. Thực tế đối với

nhiều người, giao tiếp bằng mắt là một cử chỉ thân mật nhưng đối với một

số khác lại làm họ cảm thấy không thoải mái. Nhìn thẳng vào mắt người

khác trong giao tiếp sẽ hiệu quả nếu cả hai bên đều cảm thấy thoải mái, nếu

không có thể gây ra sự hiểu nhầm là một sự thách thức với đối phương. Khi

giao tiếp với nhau, nếu bạn cảm thấy không thoải mái hay căng thẳng khi

phải nhìn trực tiếp vào mắt người khác hãy tìm một điểm khác trên mặt của

họ làm bạn thấy dễ chịu hơn khi nói chuyện. Nhưng bạn phải nhớ là đừng

để cho người bạn đang giao tiếp nhận ra bạn không nhìn trực tiếp vào mắt

Page 50: PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU - thquangphong.pgdbadon.edu.vnthquangphong.pgdbadon.edu.vn/wp-content/uploads/sites/467/2017/01/NDBD...sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông

49

họ. Như vậy khái niệm giao tiếp qua ánh mắt cần được hiểu là nhìn vào đối

tượng giao tiếp.

Một số biểu hiện không coi trọng người khác nên tránh:

+ Thể hiện mình hơn hẳn người khác

+ Cho rằng điều mình nói là hiển nhiên, không cần bàn cãi

+ Tỏ thái độ bàng quan, không lắng nghe.

+ Dùng lời lẽ coi thường người khác: “Anh (chị) thì biết gì mà nói,

cứ làm theo ý tôi là được”

…..

Ngoài những kĩ năng nêu trên, cán bộ quản lí, giáo viên cần học tập,

bồi dưỡng để bổ sung kiến thức trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc

biệt là những kiến thức liên quan đến công việc, nghề nghiệp của mình, rèn

luện những phẩm chất năng lực cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện

nay.

Chúc các đồng nghiệp thành công!

TRƢỞNG PHÕNG GDTH KT. GIÁM ĐỐC

(Đã ký) PHÓ GIÁM ĐỐC

(Đã ký)

Trần Quốc Thắng Trần Thị Hƣơng