6
Bài tổng quan Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm Interventionnal endoscopy by flexible bronchoscopy Jean-Paul Homasson a , Nguyễn Huy Dũng b , Hoàng Thị Qúy b , Trần Ngọc Thạch b , Nguyễn Trần Phùng b , Nguyễn Hữu Lân b a Hi Phi Pháp - Vit b Bnh vin Phm Ngc Thch, Tp HCM, Vit Nam TÓM TẮT Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô hấp. Từ những năm 1980, ngành nội soi điều trị đã phát triển một cách đáng kể. Lãnh vực ban đầu gần như chỉ sử dụng duy nhất nội soi phế quản cứng, nó dần dần được thực hiện nhờ ống soi mềm. Nội soi điều trị có nhiều mục tiêu. Trong đa số các trường hợp nhằm đạt được một sự thông khí tốt hơn trên những tổn thương tắc nghẽn do hoặc không do khối u. Các kỹ thuật nội soi điều trị khác nhau thường bổ sung nhau hơn là cạnh tranh. Ta thường kết hợp một phương pháp phá hủy lập tức với một phương pháp phá hủy chậm hoặc nong cơ học trong cùng một đợt hay sau đó. Hiểu rõ mỗi kỹ thuật trong các kỹ thuật này cho phép xác định các chỉ định riêng của chúng. Từ những năm 1980, các liệu pháp đã được phát triển và cải thiện đáng kể. Soi phế quản ống cứng vẫn giữ nguyên các chỉ định và các giáo đồ của nó, nhưng chắc chắn rằng sự phát triển các dụng cụ mềm cho phép điều trị một lượng lớn các tổn thương khí - phế quản lành tính và ác tính nhờ ống nội soi phế quản mềm và dưới gây tê tại chỗ. Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010;01(01):29-34. Hội Phổi Pháp-Việt (AFVP) 2010. Bản quyền riêng. Từ khóa Nội soi can thiệp Nội soi phế quản ống soi mềm Phẫu đông Nhiệt đông Tạo hình nhiệt Tác giả liên hệ BS Jean-Paul Homasson Hội Phổi Pháp - Việt (AFVP) 24, Rue Albert Thuret 94669 Chevilly Larue-Cedex Địa chỉ e-mail : [email protected] THÔNG TIN BÀI VIẾT ABSTRACT Bronchial endoscopy is one of the basis technical investigation of pulmology. Since 1980, bronchial endoscopy therapy has been considerably developed. Initially, it was reserved ex- clusively for rigid bronchoscopy. Now it has been done more frequently with technical assis- tance of flexible bronchoscopy. Endoscopy therapy has many objectives. In majority of the cases, it tries to associate an immediate airway flux flow passing through the obstructive tumoral lesions or not. The different endoscopy therapy methods are usually completed by other methods. It is fre- quently to associate a immediate destruction method with a delayed destruction method or a mechanical dilatation during the same session or secondarily. The knowledge of each method permits to precise the respective indications. Since the development of interventional endo- scopy, arsenal therapy is considerably developed and ameliorated. The rigid bronchoscopy always maintains its indications and its followers. But it is sure that the development of flexible equipment permits to treat a great number of benign or malig- nant tracheo-bronchial lesions with the help of flexible bronchoscopy and local anesthesia. J Fran Viet Pneu 2010;01(01):29-34. Association Franco-Vietnamienne de Pneumologie (AFVP). All right reserved. Key-words Inteventionnal endoscopy Flexible bronchoscopy Cryotherapy Thermocoagulation Thermoplasty Xung đột quyền lợi : không Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 29

Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô

Bài tổng quan

Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm Interventionnal endoscopy by flexible bronchoscopy

Jean-Paul Homassona, Nguyễn Huy Dũngb, Hoàng Thị Qúyb, Trần Ngọc Thạchb, Nguyễn Trần Phùngb,

Nguyễn Hữu Lânb

a Hội Phổi Pháp - Việt

b Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Tp HCM, Việt Nam

TÓM TẮT

Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô hấp. Từ

những năm 1980, ngành nội soi điều trị đã phát triển một cách đáng kể. Lãnh vực ban đầu

gần như chỉ sử dụng duy nhất nội soi phế quản cứng, nó dần dần được thực hiện nhờ ống

soi mềm. Nội soi điều trị có nhiều mục tiêu. Trong đa số các trường hợp nhằm đạt được một

sự thông khí tốt hơn trên những tổn thương tắc nghẽn do hoặc không do khối u.

Các kỹ thuật nội soi điều trị khác nhau thường bổ sung nhau hơn là cạnh tranh. Ta thường

kết hợp một phương pháp phá hủy lập tức với một phương pháp phá hủy chậm hoặc nong cơ

học trong cùng một đợt hay sau đó. Hiểu rõ mỗi kỹ thuật trong các kỹ thuật này cho phép

xác định các chỉ định riêng của chúng. Từ những năm 1980, các liệu pháp đã được phát triển

và cải thiện đáng kể. Soi phế quản ống cứng vẫn giữ nguyên các chỉ định và các giáo đồ của

nó, nhưng chắc chắn rằng sự phát triển các dụng cụ mềm cho phép điều trị một lượng lớn

các tổn thương khí - phế quản lành tính và ác tính nhờ ống nội soi phế quản mềm và dưới

gây tê tại chỗ.

Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010;01(01):29-34.

Hội Phổi Pháp-Việt (AFVP) 2010. Bản quyền riêng.

Từ khóa

Nội soi can thiệp Nội soi phế quản ống soi mềm

Phẫu đông

Nhiệt đông

Tạo hình nhiệt

Tác giả liên hệ

BS Jean-Paul Homasson

Hội Phổi Pháp - Việt (AFVP)

24, Rue Albert Thuret

94669 Chevilly Larue-Cedex

Địa chỉ e-mail :

[email protected]

THÔNG TIN BÀI VIẾT

ABSTRACT

Bronchial endoscopy is one of the basis technical investigation of pulmology. Since 1980,

bronchial endoscopy therapy has been considerably developed. Initially, it was reserved ex-

clusively for rigid bronchoscopy. Now it has been done more frequently with technical assis-

tance of flexible bronchoscopy. Endoscopy therapy has many objectives. In majority of the

cases, it tries to associate an immediate airway flux flow passing through the obstructive

tumoral lesions or not.

The different endoscopy therapy methods are usually completed by other methods. It is fre-

quently to associate a immediate destruction method with a delayed destruction method or a

mechanical dilatation during the same session or secondarily. The knowledge of each method

permits to precise the respective indications. Since the development of interventional endo-

scopy, arsenal therapy is considerably developed and ameliorated.

The rigid bronchoscopy always maintains its indications and its followers. But it is sure that

the development of flexible equipment permits to treat a great number of benign or malig-

nant tracheo-bronchial lesions with the help of flexible bronchoscopy and local anesthesia.

J Fran Viet Pneu 2010;01(01):29-34.

Association Franco-Vietnamienne de Pneumologie (AFVP). All right reserved.

Key-words

Inteventionnal endoscopy

Flexible bronchoscopy

Cryotherapy

Thermocoagulation

Thermoplasty

Xung đột quyền lợi : không

Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie

Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 29

Page 2: Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô

Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm

MỞ ĐẦU

Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản

trong ngành hô hấp. Nó có thể được thực hiện nhờ vào sự trợ

giúp của ống soi phế quản cứng hay mềm. Nếu như thuật ngữ

« Nội soi bằng sợi cáp quang » thường được sử dụng, nó vẫn

chưa chính xác. Nội soi phế quản ống mềm là thuật ngữ được

khuyến cáo bởi Nhóm Nội soi Pháp ngữ vì nó bao gồm cả kĩ thuật

ghi hình nội soi điện tử vốn không sử dụng sợi cáp quang để

truyền ánh sáng. Từ những năm 1980, ngành nội soi điều trị đã

phát triển một cách đáng kể. Lãnh vực ban đầu gần như chỉ sử

dụng duy nhất nội soi phế quản cứng, nó dần dần được thực hiện

nhờ ống soi mềm. Tuy vậy, không thể giảm nhẹ tầm quan trọng

của nội soi phế quản với ống cứng (dưới gây mê toàn thân). Lý

do là vì sự an toàn, nhanh chóng. Nhưng nếu những chỉ định

được đặt ra đúng đắn, một số lớn trường hợp nội soi điều trị có

thể được thực hiện bằng kĩ thuật nội soi mềm với nhận thức rõ về

việc ta có thể mất thời gian thăm khám (có khi kéo dài 1h trong

phẫu đông) và ta có được sự dễ dàng và mềm dẻo trong khi sử

dụng (khám ngoại trú dưới gây tê tại chỗ).

MỤC TIÊU

Nội soi điều trị có nhiều mục tiêu. Trong đa số các trường hợp

nhằm đạt được một sự thông khí tốt hơn trên những tổn thương

tắc nghẽn do hoặc không do khối u. Chúng ta sử dụng những

phương pháp như tách rời, phá hủy hoặc kéo dãn. Chúng ta cũng

có thể ngừng luồng khí bằng những phương pháp gây tắc nghẽn

gián đoạn hoặc toàn phần. Chỉ định có thể là cách điều trị cho

một triệu chứng (nôn ra máu) hoặc một tổn thương tiền ung thư

không gây tắc nghẽn. Với mục tiêu đó, chuyên khoa phổi có nhiều

kỹ thuật khác nhau, thông thường có tính bổ sung và được nhắc

tới trong Bảng I và mô tả chi tiết và cụ thể hóa những chỉ định

của chúng, mặt thuận lợi và bất lợi đặc trưng. Thực ra, những lập

luận về tài chính có thể là quyết định trong việc lựa chọn một kỹ

thuật này so với kỹ thuật khác.

KỸ THUẬT GẮP

Đây chủ yếu là việc gắp bỏ những dị vật phế quản. Nhắc lại là kỹ

thuật nội soi phế quản đầu tiên bằng ống cứng đã được thực hiện

bởi G. Killian là nhằm mục đích gắp một dị vật. Sự lựa chọn về vật

liệu cứng hay mềm sẽ tùy thuộc vào kích thước của dị vật, bản

chất của nó, tuổi tác và tình trạng hô hấp của bệnh nhân. Ở

người lớn và trẻ em lớn hơn 12 tuổi, phần lớn những dị vật có thể

được lấy ra bằng nội soi phế quản mềm dưới gây tê tại chỗ với tỉ

lệ thành công từ 60-90%. bản chất của dị vật thay đổi tùy theo

thói quen ăn uống [1]. Vì thế chúng ta sử dụng những loại kẹp

khác kiểu, những móc gắp, các giỏ. Khi bệnh nhân ngạt thở hoặc

bị khí phế thũng do tắc nghẽn ta phải dùng nội soi phế quản ống

cứng ngay từ đầu. Trong trường hợp dị vật tan rã được (rau quả,

hạt, viên thuốc, hòn sỏi, mảnh khối u…) ta có thể dùng một cách

ưu thế hơn hiệu quả của kỹ thuật phẫu đông (Hình 1) vốn tránh

được sự chia nhỏ dị vật bởi kẹp hay rút ra khó khăn thậm chí

không hiệu quả những mảnh bở vụn có kích thước nhỏ theo tuần

tự [2].

NHỮNG KỸ THUẬT PHÁ HỦY TỨC THỜI

Laser

Kỹ thuật tiêu chuẩn kể từ năm 1980, giá thành của nó (mua và bảo trì), những trở ngại (nội soi phế quản cứng và gây mê toàn

thân), việc huấn luyện kỹ thuật đã làm giảm dần sự sử dụng so

với kỹ thuật đốt nhiệt đông. Trong khoa phổi, chủ yếu sử dụng

Laser Nd-Yag. Tác động nhiệt của nó cho phép làm đông hoặc

bốc hơi những mô tùy theo công suất. Người ta thường sử dụng

năng lượng thấp để làm đông những mô để sau đó có thể gắp ra

ngoài một cách cơ học với mỏ ống soi phế quản cứng [3]. Có

nghĩa là vai trò của nội soi phế quản mềm bị giới hạn vì nó nhằm

làm bốc hơi mô với năng lượng cao, sẽ gây ra sự kéo dài thời gian

can thiệp và khó khăn trong việc hút khói. Thuận lợi chính của

Laser là ở hiệu ứng phá hủy tức thời của nó mà chủ yếu làm điều

trị khẩn cấp nhung phải nhờ vào nội soi phế quản cứng dưới gây

mệ toàn thân. Laser trong nội soi phế quản mềm dành riêng cho

điều trị những tổn thương nhỏ và nằm ngoài hoàn cảnh khẩn cấp.

Trong tay của chuyên gia thì tai biến rất khó xảy ra (thủng). Xuất

huyết và những tai biến do thiếu oxy thường khó kiểm soát trong

nội soi phế quản mềm nhưng điều này cũng xảy ra ở tất cả những

kỹ thuật nội soi can thiệp mặc dù một số tai biến có thể ít nguy

hiểm hơn.

Nhiệt đông cao tần

Đây cũng là một kỹ thuật sử dụng nhiệt để phá hủy mô [4-5].

Những máy đốt mới cho phép làm đông bằng nhiều phương cách

khác nhau:nhẹ, mạnh, bằng tia lửa điện cũng như cắt bỏ. Các

điện cực rất đa dạng: đơn cực kín đầu tròn đường kính khác

nhau, thòng lọng đốt điện, kìm sinh thiết, hay cả ống lưỡng cực;

chúng rất mềm, có thể sử dụng ở các phân thùy đỉnh của thùy

trên, hoặc cứng. Loạt thiết bị và phương cách sử dụng này cho

phép điều trị thích đáng tất cả các loại thương tổn nội phế quản

ngoại trừ chèn ép từ bên ngoài (Hình 2 - 3). Do đó một số lượng

lớn các thương tổn có thể được điều trị bằng ống soi phế quản

mềm. Khi dùng phương cách cắt bỏ và trong trường hợp cấp cứu

ta phải dùng ống soi phế quản cứng. Những kết quả đạt được

giống hệt với kết quả của Laser liệu pháp nhưng chỉ định rộng

hơn và chi phí thấp hơn nhiều [6]. Kỹ thuật này đang được phát

triển rộng rãi.

Các biến chứng chính bao gồm chảy máu (2,5%) thường ít và dễ

kiểm soát bằng cách tiếp tục làm đông, lửa có thể lan rộng dọc

theo ống thông khi ta không tắt oxy trước khi dùng một liệu pháp

tạo ra các cung điện (cắt hoặc làm đông mạnh). Nguy cơ gây chít

hẹp đồng tâm trong trường hợp làm nhiệt đông vòng quanh đã

được chứng minh bằng thực nghiệm ở lợn do các khung sụn bị

phá huỷ.

Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie

Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 30

HÌNH 1. Lấy cục máu đông qua nội soi.

Page 3: Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô

Tia Argon ion hóa

Vẫn là một tác dụng nhiệt của dòng điện. Argon ion hóa cũng

được gọi là argon plasma. Thiết bị này bao gồm máy làm nhiệt

đông bổ sung thêm mođun argon. Có cả các ống cứng và ống

mềm. Tác động làm đông chỉ xảy ra trên bề mặt và không phá

hủy các cấu trúc sụn. Dụng cụ này đa dụng với nhiều áp dụng

cho các chuyên khoa khác (phẫu thuật, tiêu hóa, phụ khoa), điều

này có thể giúp giảm chi phí đầu tư. Các plasma argon được sử

dụng để phá hủy, tiêu diệt các u nhỏ xuất huyết, các u hạt và đặc

biệt để đảm bảo cầm máu trên những mảng xuất huyết diện

rộng.

Kỹ thuật cắt mảnh nhỏ

Chúng tôi sẽ không chi tiết hoá ở đây, dụng cụ này chỉ dùng được

với ống soi phế quản cứng cho các tổn thương của khí quản và

phế quản gốc. Nó cho phép hút và phá hủy đồng thời nhờ các

lưỡi cắt quay tròn.

Bóng cắt

Đây là một ống thông và một bóng có thể phồng lên làm bằng

polyurethane, cho phép nong và cả cầm máu. Bóng được bơm

phồng lên và hút xẹp đi ở cùng một vị trí, rồi đặt lại chỗ khác nếu

cần thiết. Nó có thể đưa xuống tận các phế quản phân thùy. Thủ

thuật có thể kéo dài từ 3 đến 45 phút. Đây là một thiết bị đắt tiền

để dùng một lần, điều này làm giảm ứng dụng của nó tuy rất

đáng quan tâm. Các công trình xuất bản vẫn còn hiếm.

Tạo hình bằng nhiệt

Chúng ta xếp loại kỹ thuật này trong những kỹ thuật phá huỷ lập

tức bởi vì nó là sóng radio, nhưng có tác động trì hoãn vì tạo hình

bằng nhiệt là một trị liệu cho bệnh hen phế quản. Nguyên tắc là

làm giảm sự co thắt và khối lượng cơ trơn. Trị liệu này được chỉ

định cho hen vừa và nặng. Nó giúp giảm lượng thuốc điều trị và

hiệu quả của nó sẽ kéo dài được vài tháng. Kỹ thuật này hấp dẫn

đối với các nước đang phát triển, nơi mà các bệnh nhân thường

Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie

thiếu các phương tiện tài chính để sử dụng các trị liệu dài hạn

hàng ngày như corticosteroid hít. Nhưng kỹ thuật này không tác

động đến yếu tố viêm của bệnh ; nó vẫn chỉ được dành riêng cho

vài trung tâm thí điểm mà chúng ta đang chờ kết quả.

KỸ THUẬT PHÁ HỦY TRÌ HOÃN

Phẫu đông (đông lạnh)

Kỹ thuật này đã được biết đến từ lâu trong nhiều chuyên ngành y

khoa. Nó được dùng rộng rãi trong ngành hô hấp kể từ đầu

những năm 1990. Tuy nhiên cần thu nhỏ các ống thông trước tiên

để có thể đưa vào những ống nội soi cứng cạnh ống quan sát

quang học và sau đó là đưa vào các ống soi mềm (Hình 4). Hiện

nay những ống thông dùng cho ống soi mềm, hoạt động bằng

oxit nitơ, chất này khi dãn nở nhanh có thể đạt đến nhiệt độ

khoảng - 40 ° C trong các mô tiếp xúc trực tiếp với đầu ống (hiệu

ứng Joule - Thompson). Những ống thông mềm này, không giống

như các đầu dò cứng, không có hệ thống hâm nóng lại để làm

tăng nhanh thời gian trị liệu. Chúng cũng ít mạnh hơn nhưng bù

lại trị liệu này không cần đến gây mê toàn thân cũng như nằm

viện. Đây là một thủ thuật đơn giản, không biến chứng (khung

phế quản được bảo tồn), do đó được sử dụng ngày càng nhiều ở

Bắc Mỹ, nơi mà nó được tái phát hiện sau nhiều năm bị quên

lãng. Hơi lạnh có các tác dụng giảm đau, chống viêm và cầm

máu. Việc phá hủy các mô đạt được bằng hai tiến trình kế tiếp:

một tác động vật lý tức thì (kết tinh ngoại và nội bào) rồi đến tác

động mạch máu muộn (huyết khối). Hoại tử mô sẽ hoàn tất sau 8

- 10 ngày.

Phẫu đông được chỉ định để điều trị các thương tổn xâm lấn, các

u chồi khí quản hay phế quản, ngoại trừ các trường hợp khẩn cấp

do tác dụng trì hoãn của nó (Hình 5). Nó cũng được chỉ định để

điều trị ung thư tại chỗ, ngay cả ung thư vi xâm lấn mà không thể

mổ được. Một số khối u lành và tổn thương dạng sẹo xơ ít hoặc

không nhậy với nhiệt đông. Nhiệt đông thường cần làm nhiều

đợt, đặc biệt nếu sử dụng ống thông mềm và nội soi phế quản

Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 31

HÌNH 2. Dụng cụ đốt nhiệt đông (ống soi cứng và soi mềm).

Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm

Page 4: Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô

Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie

Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 32

ống mềm. Trong ung thư học, tác động tiềm năng hiệp đồng giữa

hóa trị và xạ trị là rất có thể nhưng cần thêm các nghiên cứu lâm

sàng và cơ bản [7]. Hiệu quả tiềm năng của kết hợp nhiệt đông -

hóa trị gần đây đã được chứng minh ở chuột [8].

Xạ trong liều cao

Đây là một kỹ thuật nội soi can thiệp chỉ dùng ống soi mềm, hoàn

toàn loại trừ ống soi phế quản cứng. Do đó, đây là một thủ thuật

ngoại trú thực hiện dưới gây tê tại chỗ. Kể từ cuối những năm

1980, chúng ta sử dụng các máy chiếu nguồn mà nhân viên

không bị chiếu xạ. Nguồn hoạt động là Iridium - 192, chuyển vào

các phế quản qua lòng một ống thông được đặt bằng ống nội soi

mềm. Một máy tính điều khiển sự chuyển động của nguồn mà

định lượng đã được xác định trước. Liều cao cho phép thực hiện

các chiếu xạ nhanh, giới hạn thời gian trị liệu trong vài phút. Liều

phân bố là khoảng từ 5 - 7 grays, từ 1 cm của ống thông (tương

ứng với khoảng gấp đôi liều trong xạ trị ngoài thông thường)

trong mỗi đợt. Thường ta dự kiến 4 - 6 đợt cách nhau một tuần.

Kỹ thuật đã được qui tắc hoá tốt hơn và chủ yếu dành cho những

khối u nhỏ hoặc tái phát tại các mỏm cụt sau phẫu thuật cắt thùy

hoặc cắt phổi. Viêm phế quản do bức xạ là một biến chứng thông

thường với việc tạo các giả mạc. Chúng ta cũng có thể thấy các

chít hẹp sợi về sau. Giá thành, việc nội soi phế quản lặp đi lặp lại

nhiều lần và những biến chứng đặc biệt là xuất huyết đã hạn chế

mạnh việc sử dụng thủ thuật này trong ngành phế quản học.

Quang hoá liệu pháp

Giống như phẫu đông, trị liệu được thực hiện thông qua một ống

nội soi mềm dưới gây tê tại chỗ. Ta tiêm trước cho bệnh nhân

một chất cảm quang mà các tế bào khối u ưu tiên nhận bắt và ta

chiếu sáng các mô nhạy cảm bởi một tia sáng đơn sắc đồng nhất

(Laser màu hoặc diode) với độ dài sóng của đỉnh điểm hấp thu

giống như của chất cảm quang. Sau đó quá trình oxy hóa sẽ dẫn

đến cái chết muộn của các tế bào. Kết quả lành bệnh tốt đạt được

trên các khối u nhỏ.

Do chi phí cao của các chất cảm quang và các nguy cơ tác dụng

phụ (nhạy cảm với ánh sáng và bỏng da độ 2) nên kỹ thuật này

hiếm khi được sử dụng.

HÌNH 3. Điều trị tận gốc một khối u cơ trơn.

HÌNH 5. Điều trị tạm bợ adenocarcinome. Hình ảnh trước và sau phẫu đông.

HÌNH 4. Ống thông dùng điều trị đông lạnh. a). Ống cứng b). Ống mềm.

a) b)

Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm

Page 5: Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô

Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie

Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 33

KỸ THUẬT NONG CƠ HỌC

Giá đỡ (stent)

Có rất nhiều loại. Điều này có nghĩa rằng không có cái nào là

hoàn hảo. Chèn ép từ ngoài là chỉ định chính (Hình 6). Chỉ có một

số giá đỡ bằng kim loại có thể được đặt bằng ống nội soi mềm.

Những loại khác được đặt bằng soi phế quản ống cứng và dưới

gây mê toàn thân.Loại được sử dụng phổ biến nhất là các giá đỡ

bằng silicone, nhưng hiện nay người ta đang cố phát triển loại giá

đỡ gọi là hỗn hợp; các khung kim loại được bao phủ bằng một lớp

silicon để tránh sự tăng trưởng khối u hoặc u hạt có thể xảy ra

giữa lưới kim loại. Các giá đỡ thường được dung nạp tốt, nhưng

thường bị dịch chuyển khá nhiều trong các trường hợp chít hẹp

lành tính. Trừ khi được cải tiến trong tương lai, soi phế quản ống

cứng vẫn là lãnh vực ưu tiên dùng đặt giá đỡ.

Nong bằng bóng

Kỹ thuật này được thực hiện bằng ống nội soi mềm dưới gây tê

tại chỗ. Thủ thuật này gồm đưa một dây dẫn kim loại qua kênh

thủ thuật của ống nội soi mềm được kiểm soát bằng màn hình.

Rồi ta rút ống nội soi mềm ra và một ống thông có bóng với kích

thước phù hợp sẽ được trượt qua dây dẫn kim loại. Ống nội soi

mềm sau đó được đưa vào lại bên cạnh ống thông để kiểm tra vị

trí đúng và sự bơm căng bóng bằng cách nhìn trực tiếp. Người ta

bơm căng bóng nhiều lần liên tiếp và kết quả được đánh giá dựa

trên sự gia tăng ổn định đường kính phế quản sau khi nong. Kỹ

thuật này được sử dụng để điều trị các chít hẹp sợi thường thứ

phát sau ghép phổi. Nhưng hiệu quả không kéo dài.

CÁC KỸ THUẬT ĐỊNH HƯỚNG HOẶC NGĂN CHẶN DÒNG

KHÍ

Nút chặn

Đây là những nút nhỏ gài vào trong các phế quản phân thùy bằng

một ống nội soi mềm. Phương pháp này được chỉ định như là một

điều trị thay thế cho phẫu thuật điều trị tràn khí màng phổi trong

trường hợp không thể phẫu thuật hoặc các lỗ rò phế quản-màng

phổi. Khả năng dung nạp của thủ thuật tốt và chúng có thể rút ra

trong trường hợp thất bại điều trị. Vì phải đặt nhiều nút chặn nên

chi phí cao tuy vẫn thấp hơn so với phẫu thuật (9).

Van một chiều

Nguyên tắc là chỉ để dòng khí thoát ra một chiều khi thở ra để

làm giảm thể tích phổi từ thượng nguồn. Đây cũng là một điều trị

thay thế cho phẫu thuật giảm thể tích cho các bệnh nhân bị khí

phế thũng nặng. Có thể lấy van ra. Khả năng dung nạp tốt.

Chi phí vẫn còn là một rào cản cho việc sử dụng chúng trong thực

hành hiện tại. Một nghiên cứu quốc tế lớn đang tiến hành [10].

Các kỹ thuật khác

Các kỹ thuật khác đang được nghiên cứu: chúng tôi chỉ kể tên, gồm thủ thuật bít thùy nội phế quản và mở cửa sổ phế quản.

KẾT LUẬN

Các kỹ thuật nội soi điều trị khác nhau thường bổ sung nhau hơn

là cạnh tranh. Ta thường kết hợp một phương pháp phá hủy lập

tức với một phương pháp phá hủy chậm hoặc nong cơ học trong

cùng một đợt hay sau đó.

Hiểu rõ mỗi kỹ thuật trong các kỹ thuật này cho phép xác định

các chỉ định riêng của chúng. Nhưng giá của một thủ thuật đối với

những chỉ định tương tự đang ngày càng là một yếu tố quyết định

trong việc lựa chọn thiết bị này hay thiết bị khác. Hiện tại chúng

ta có thể xác nhận rằng kỹ thuật tốt nhất khi so sánh chỉ định/chi

phí là nhiệt đông cao tần.

Ngoài phẫu thuật, xạ trị và hóa trị là những trị liệu thông thường

của ung thư phổi không phải tế bào nhỏ. Nội soi can thiệp thường

chỉ được đề nghị ở giai đoạn trễ của bệnh như là trị liệu tạm thời.

Nội soi điều trị trước những trị liệu này có thể là một lựa chọn

đúng đắn hơn nhưng thông thường vẫn chưa được chấp nhận và

cần có nhiều nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng bổ sung.

Tuy nhiên, chúng ta đã chứng minh thời gian sống còn kéo dài

đáng kể khi kết hợp phẫu đông - xạ trị và hóa trị. Từ những năm

1980, các liệu pháp đã được phát triển và cải thiện đáng kể. Soi

phế quản ống cứng vẫn giữ nguyên các chỉ định và các giáo đồ

của nó, nhưng chắc chắn rằng sự phát triển các dụng cụ mềm

cho phép điều trị một lượng lớn các tổn thương khí - phế quản

lành tính và ác tính nhờ ống nội soi phế quản mềm và dưới gây tê

tại chỗ.

Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm

HÌNH 6. Stent khí quản bằng silicone (ống soi cứng).

Kỹ thuật gắp dị vật

Kẹp

Móc gắp

Giỏ gắp

Đông lạnh

Kỹ thuật phá hủy

Phá hủy tức thời

Laser

Nhiệt đông cao tần

Tia argon ion hóa

Sóng âm (tạo hình nhiệt)

Cắt mảnh nhỏ

Bóng cắt

Phá hủy trì hoãn

Đông lạnh

Xạ trong liều cao

Quang hóa liệu pháp

Tiêm vào khối u chất chống phân bào

Kỹ thuật nong dãn

Giá đở (Stent)

Bóng nong

Kỹ thuật định hướng hoặc ngăn dòng khí

Van một chiều

Nút chặn

Keo sinh học

Bảng 1. Kỹ thuật nội soi can thiệp bằng ống soi mềm.

Page 6: Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô

Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie

Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 34

REFERENCES

1. NGUYEN HUU L, NGYEN HUY D, TRAN NGOC T, NGUYEN

TRAN P, HOANG THI Q, AELONY Y, HOMASSON J.P. Endo-

bronchial foreign bodies in Vietnamese adults are related to

eating habits. Respirology 2010 ; 15 : 481-494.

2. RODEN S., HOMASSON J.P. Une nouvelle indication de la

cryothérapie endobronchique : l’extraction de corps étrangers.

Presse Méd 1989 ; 18 : 897.

3. CAVALIERE S, FOCCOLI P, FARINA PL. Nd-YAG LASER bron-

choscopy. A five year experience with 1936 applications in

1000 patients. Chest 1988 ; 94 : 15-21.

4. HOMASSON J.P. Endobronchial electrocautery. Sem Crit Care

Med 1997 ; 18 : 535-543.

5. HOMASSON J.P, RODEN S, ANGEBAULT M, PHUNG THUY

M,NGUYEN PHUONG T. Traitement des tumeurs bronchiques

par thermocoagulation haute fréquence. Rev Pneumol Clin

1995 ; 51 : 77-81.

6. SUTEDJA G, VAN BOXEM TJ, SCHRAMEL FM, FELIUS C, POST-

MUS PE. Endobronchial electrocautery is an excellent alterna-

tive for Nd-YAG LASER to treat airway tumors. J Bronchol

1997 ; 4 : 101-105.

7. HOMASSON J.P, PECKING A, RODEN S, ANGEBAULT M, BON-

NIOT J.P. Tumor fixation of bleomycin labeled with 57 cobalt

before and after cryotherapy of bronchial carcinoma. Cryobiol-

ogy 1992 ; 29 : 543-548.

8. FOREST V, HADJERES R, BERTRAND R, JEAN-FRANCOIS R.

Optimisation and molecular signalling of apoptosis in sequen-

tial cryotherapy on chemotherapy combination in human A549

lung cancer xenografts in SCI mice. British J Cancer 2009 ;

100 : 1896-1902.

9. YOICHI W, KEISURE M, AKIHITO T. Bronchial occlusion with

EWS. XIII World Congress of Bronchology 2004 ; 46.

10. LEROY S., MARQUETTE C.H. VENT : étude internationale de la

valve endobronchique pour le traitement palliatif de l’emphy-

sème. Rev Mal Resp 2004 ; 21 : 1144-1152.

Jean-Paul Homasson và cs.

Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm